Những điều căn bản về pháp môn Tịnh độ và trợ niệm lâm chung

Tâm Hòa

Tịnh độ là gì? Tịnh độ chính là cõi nước hoàn toàn thanh tịnh an vui không có phiền não khổ đau được hình thành dựa trên hạnh nguyện độ tha của chư Phật, chư Bồ tát. Bằng bốn năng lực “Từ, Bi, Hỷ, Xả” cùng với nhân duyên thù thắng và quả vị viên mãn mà hóa hiện ra vô số cảnh giới Tịnh độ để tiếp dẫn, trợ duyên cho chúng sinh vãng sinh về nơi đó tu tập cho đến ngày thành Phật.

1. Tịnh độ là đối với Uế độ mà thành lập

Do có “Uế độ” nên hiện ra “Tịnh độ”, cũng như “sạch” đối với “dơ”mà có, hoặc “trắng” đối với “đen” mà lập. Tất cả duy chỉ một mục đích là hiển bày rõ sự “khổ” ở cõi “Uế độ” dơ bẩn, đen đúa và hiển bày sự “an lạc” trong sạch, tinh khiết ở cõi “Tịnh độ” để chúng sinh khởi lên ý niệm buông bỏ tham chấp, si mê trong ngục tù của “thương giận, buồn vui, ghét muốn” hướng đến sự giải thoát nội tâm đạt được “hoan hỷ, thương yêu, hiểu biết” chân thật.

a.  Uế độ

Là cõi nước do cộng nghiệp của chúng sinh nương gá nhau mà hình thành. Chúng sinh phần nhiều phước đức ít, nghiệp chướng dày nên chiêu cảm cảnh giới tương xứng khổ nhiều vui ít. Ví dụ như cõi Ta bà của chúng ta.

b.  Tịnh độ

Là cõi nước của chư Phật, chư Bồ tát tát hóa hiện trang nghiêm thanh tịnh, không trần cấu bẩn nhơ được dùng làm đạo tràng để hóa độ chúng sinh. Ví dụ như cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà.

Trong mười phương thế giới có vô số cõi Tịnh độ như cõi Tịnh độ của Phật Dược Sư trong kinh “Dược sư Lưu ly bản nguyện công đức”, cõi Tịnh độ Diệu hỷ của Phật Bất động trong kinh “Đại Bửu tích”, cõi Tịnh độ Cực lạc của Phật A Di Đà được nói trong kinh “Vô lượng thọ, Quán vô lượng thọ, Phật thuyết A Di Đà kinh”.v.v… ngoài ra còn vô số cảnh giới Tịnh độ khác.

Tùy theo căn cơ sai biệt của vô số chúng sinh mà chư Phật hóa hiện vô số cõi Tịnh độ khác nhau. Trong “Tây phương hiệp luận” phân chia thành 10 cõi Tịnh độ không đồng như: Tỳ Lô Giá Na Tịnh độ, Duy tâm Tịnh độ, Hằng chơn Tịnh độ, Biến hiện Tịnh độ, Ký báo Tịnh độ, Phân thân Tịnh độ, Y tha Tịnh độ, Thập phương Tịnh độ, Nhất tâm tịnh độ và Bất khả tư nghì Tịnh độ. Nói mười cõi Tịnh độ khác nhau là đứng trên phương diện danh từ giả lập nhưng kỳ thật các cõi Tịnh độ đều chung một bản nguyện căn bản là tiếp dẫn và hóa độ chúng sinh lìa mê khai ngộ. Vì sao? Vì trong một cõi bao hàm cả bốn cõi tương ứng với từng cấp độ tu chứng: Phàm thánh đồng cư Tịnh độ, Phương tiện hữu dư Tịnh độ, Thật báo vô chướng ngại Tịnh độ và Thường tịch quang Tịnh độ. Tuy nói có 4 hay có vô số nhưng kỳ thực chỉ là một vì vô lượng chư Phật cũng chính là một đức Phật và ngược lại. Do chúng sinh căn tánh không đều nên hóa hiện ra dùng làm phương tiện để tiếp độ.

Với hàm ý này cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà cũng chính là bao hàm tất cả cõi Tịnh độ của mười phương chư Phật khác.

2. Cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà

Như vô số cõi Tịnh độ khác, cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà được thiết lập dựa trên 48 lời đại nguyện thâm sâu, chứa chan lòng đại từ bi cùng với năng lực trí tuệ vi diệu tiếp dẫn chúng sinh về Cực lạc Tây phương tạo thắng duyên lành tu tập đến ngày viên thành Phật quả.

a. Vì sao đức Phật Thích Ca đặc biệt tán thán cõi Tịnh độ Cực lạc Tây phương

Cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà được chính lời vàng chân xác của đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai đặc biệt giới thiệu và tán thán vì:

  • Chúng sinh nơi cõi Ta bà này phần lớn tạo nhiều ác nghiệp như: bất kính Sư trưởng, bất hiếu cha mẹ, không tin Tam bảo, giết người đoạt của, tham dục hẩy hừng, tà kiến đảo điên, khiến đọa sinh vào vô số cảnh giới khổ đau trong ba cõi: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh khó mong ngày giải thoát.
  • Chỉ có cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà mới đáp ứng đầy đủ nhu cầu về thân và tâm của chúng sinh. Vì ở đây tất cả đều được làm bằng bảy báu trang nghiêm: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Lại nữa tiếng chim hót, tiếng suối reo, tiếng lá xào xạc cũng phát ra pháp âm vi diệu, thù thắng. Sống trong cảnh giới hoàn toàn vô cấu như thế nên tâm chúng sinh không còn tham lam, sân hận, si mê và thân thể không còn bị ngũ dục “tài sản, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngũ nghĩ” chi phối.
  • Chỉ có đức Phật A Di Đà cùng với hai vị Bồ tát thượng thủ Quán Thế Âm và Đại Thế Chí là có nhiều nhân duyên đặc biệt với tất cả chúng sinh trong cõi Ta bà khiến chúng sinh quy hướng, kính tin, phát nguyện cầu sinh Tịnh độ.
  • 48 lời đại nguyện của Phật A Di Đà được lưu xuất từ lòng từ bi bao la và trí tuệ quảng đại nên có thể tiếp dẫn tất cả các hạng chúng sinh vãng sinh Tịnh độ dù chỉ trì niệm danh hiệu Ngài 10 lần mỗi ngày. Ví như lời nguyện thứ 18 “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật, có chúng sanh trong mười phương một lòng tin tưởng tôi, hằng ngày niệm được 10 lần tên hiệu tôi để cầu vãng sanh Cực lạc mà đến khi lâm chung chẳng đặng như nguyện."

b. Chánh báo và y báo cõi Tịnh độ

Chánh báo tức là quả báo hiện nơi tự thân. Ví như thân tướng trang nghiêm thù thắng của Phật A Di Đà.
Y báo tức là quả báo hiện ngoài tự thân. Ví như hoàn cảnh, quốc độ và tất cả sự vật bao quanh nơi thế giới Cực lạc.

Chánh báo và y báo cõi Tịnh độ được hình thành từ sự tư duy nhiếp thủ của đức Phật A Di Đà khi còn là một vị Pháp Tạng Tỳ kheo. Vì nguyện lực muốn thiết lập cảnh giới Tịnh độ để nhiếp hóa chúng sinh mà thỉnh cầu đức Thế tự tại vương Như Lai hiển bày về thắng cảnh ưu việt của 210 cõi Tịnh độ. Sau khi quán sát rõ y báo và chánh báo nơi các cõi Ngài đã tinh cần tư duy tu tập “tạo nhân quốc độ” trải qua 5 kiếp mới hình thành cõi Cực lạc trang nghiêm.

Do nhân và quả thù thắng như vậy, nên chúng sinh nào nhất tâm cầu nguyện vãng sinh Tây phương Tịnh độ cũng đều đạt được y báo và chánh báo trang nghiêm như Phật A Di Đà ví như nước trong chậu hòa vào nước biển, cùng chung một hương vị không khác.

• Chánh báo trang nghiêm

Trong “Phật thuyết A Di Đà kinh” ghi rằng “…Xá-Lợi-Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ tát chúng cũng đông như thế. Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy. Xá-Lợi-Phất! Lại trong cõi Cực lạc, những chúng sinh vãng sinh vào đó đều là bực bất thối chuyển. Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để nói thôi! Xá-Lợi-Phất! Chúng sinh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sinh về nước đó. Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ…”

Trên chỉ giới thiệu một trong rất nhiều chánh báo thù thắng nơi cõi Tịnh độ, nay nói tóm lược như sau:

- Thân tướng trang nghiêm: 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, sắc như vàng ròng, cùng đồng một thể không có sai khác.
- Thọ mạng vô hạn lượng: Người vãng sinh về Cực lạc sống lâu vô cùng, hoàn toàn tự chủ, tùy theo bản nguyện.
- Có đủ sáu phép thần thông: Thấy suốt tất cả (thiên nhãn), nghe suốt tất cả (thiên nhĩ), biết rõ tâm niệm kẻ khác (tha tâm), biết rõ kiếp quá khứ (túc mạng), đi lại tự tại (thần túc), khi đắc quả A La Hán dứt sạch nghiệp luân hồi (lậu tận).
- Tâm trí: Luôn an trụ trong chánh định.
- Không còn đọa vào ác đạo: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh.
- Hóa sinh: Sinh ra từ hoa sen không do ái dục giữa nam nữ mà thành.
- Thân tâm an lạc:Như các vị Tỳ kheo đã chứng quả A La Hán.
- Không còn có tên bất thiện: Danh từ và sự bất thiện đều không.
- Đạo tâm bất thoái: Tâm luôn dũng mãnh tinh tấn thẳng đến đạo Vô thượng chánh  giác, không còn thoái chuyển.
- Trí tuệ biện tài: Biện tài ứng đối thông suốt không chướng ngại.
- Được vô sinh nhẫn: Phá trừ hết ngã chấp và pháp chấp. Lý và trí không hai.
- Oai lực tự tại: Như chư Bồ tát, Thanh văn đầy đủ năng lực, thần thong tự tại.
- Thân sáng chói lọi: Hàng Thanh văn thân thì chiếu sáng được một tầm; hàng Bồ tát thì thân chiếu sáng được từ một trăm do tuần cho đến tam thiên đại thiên thế giới.
- Vô số Thanh văn: Đức Thích Ca đã bảo cho Ngài A Nan hay rằng: "Có sức thần như Mục Kiều Liên và dùng sức thần thông ấy trải qua trăm ngàn muôn ức vô số kiếp, cũng không thể biết được số lượng Thanh văn Bồ tát chứng quả trong đại hội đầu tiên của đức A Di Đà giáo hóa; dù cho có biết được một phần nào mà nếu đem so với số chưa biết được thì cũng không khác nào một giọt nước so với biển cả."
- Vô số bổ xứ Bồ tát: Bồ tát sắp thành Phật không thể đếm được.

• Y báo trang nghiêm

Phật thuyết A Di Đà kinh lại chép rằng: “…Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực lạc? Vì chúng sinh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực lạc. Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực lạc…”

Đây cũng chỉ là một phần y báo nơi cõi Cực lạc thù thắng, nếu nói rộng ra thì đến muôn ngàn lời, nay tóm lược về phần y báo như sau:

- Cõi nước bằng phẳng thanh tịnh: không có bụi dơ, sông ngòi hang hố, núi non gò đống chập chùng.
- Mặt đất do bảy báu tạo thành: Dưới đáy đất có đế bằng vàng, kim cang và thất bảo chống đỡ đất lưu ly. 
- Khí hậu ôn hòa: Khí hậu không lạnh không nóng, mát mẻ quanh năm..
- Lưới báu bủa giăng: lượng lưới báu treo các linh báu giăng khắp cõi Phật. Hễ nghe tiếng linh thì tự nhiên sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
- Sáu thời mưa hoa:Ngày đêm chia sáu thời có gió dịu phảng phất; đồng thời từ trên trời, hoa mạn đà la rơi xuống cùng khắp bờ cõi thơm tho mát dịu. 
- Sen báu đầy dẫy:Các thứ hoa sen báu mọc lên cùng khắp cả cõi Phật. Mỗi một hoa sen báu lại có trăm ngàn ức cạnh phát ra vô lượng màu sắc. 
- Hóa Phật thuyết pháp: Từ mỗi hoa sen báu tuôn ra ba mươi sáu trăm ngàn ức hào quang; trong mỗi hào quang hiện ra ba mươi sáu trăm ngàn ức đức Phật, với thân vàng sáng chói, tướng tốt trang nghiêm. Mỗi một đức Phật lại phóng ra vô số hào quang chiếu sáng khắp mười phương và nói pháp nhiệm mầu cho mười phương nghe.
- Cây đạo tràng của Phật: Cây đạo tràng của đức Phật A Di Đà là do các báu hợp thành. Trên cây treo các chuỗi ngọc, lưới báu bủa giăng hết thảy đều trang nghiêm và tùy ý ứng hiện.
- Cây báu phát âm thanh: số cây báu mọc cùng khắp cõi Tịnh độ. Khi một làn gió nhẹ thoảng qua, từ cành từ lá, từ hoa, từ quả mỗi mỗi đều phát ra năm thứ thanh âm hòa nhã như trăm ngàn điệu nhạc hòa tấu một cách tự nhiên. Nghe tiếng nhạc ấy rồi chúng sinh liền lần lượt chứng nhập giáo pháp sâu xa, tiến lên bậc bất thoái, tiến mãi cho đến khi thành tựu quả Phật. 
- Muôn vật nghiêm lệ:Hết thảy muôn vật đều trang nghiêm thanh tịnh, sáng suốt xinh đẹp. Hình sắc đặc biệt và lộng lẫy một cách vi diệu, không thể tả xiết.
- Không có ba đường dữ: Không có các khổ nạn của ba cảnh giới Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sinh
- Cung điện trang nghiêm:Hết thảy nhà cửa như giảng đường tịnh xá, cung điện, lầu gác đều tự nhiên thành tựu và đều được xây và trang hoàng từ bảy thứ báu. 
- Quốc độ thanh tịnh:Quốc độ thanh tịnh trong suốt như một thế giới pha lê, chiếu tỏa khắp mười phương, khiến từ đó có thể trông thấy được vô lượng vô biên vô số thế giới của Chư Phật bất khả tư nghì.
- Hồ tắm trong thơm:Nước trong các hồ tắm yên lặng trong suốt, bản chất thanh tịnh mùi vị thơm tho như nước cam lồ và có đầy đủ tám tính chất gọi là "bát công đức thủy." Nếu là hồ hoàng kim thì dưới đáy là cát bạch ngân; nếu là hồ bạch ngân thì dưới đáy là cát vàng; nếu là hồ thủy tinh thì dưới đáy là cát lưu ly; nếu là hồ lưu ly: thì dưới đáy là cát thủy tinh; nếu là hồ san hô thì dưới đáy là cát hổ phách; nếu là hồ hổ phách thì dưới đáy là cát san hô; nếu là hồ xa cừ thì dưới đáy là cát lưu ly; nếu là hồ lưu ly thì dưới đáy là cát xa cừ; nếu là hồ bạch ngọc thì dưới đáy là cát vàng tiá; nếu là hồ vàng tiá thì dưới đáy là cát bạch ngọc. Các nhóm báu ấy còn thay đổi tùy theo ý người muốn: hoặc do hai thứ báu, hoặc do ba, bốn cho đến bảy thứ báu mà hợp thành hồ.
- Nước hồ lên xuống tùy nguyện:Nhân dân ở quốc độ Cực lạc, một khi bước chân xuống hồ, mực nước lên xuống cao thấp đều tùy theo ý nguyện. Cũng tùy theo ý nguyện mà nước hồ có ấm lạnh một cách tự nhiên. Tắm xong, tinh thần thấy sảng khoái và tẩy trừ hết tâm cấu nhiễm. Mỗi khi bước xuống tắm bốn phiá bờ hồ có tiếng sóng vỗ lao xao như một điệu nhạc, phát ra tiếng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Tiếng tịch tịnh xa vắng, tiếng vô ngã, tiếng đại từ đại bi, tiếng ba la mật... Những tiếng phát ra như vậy rất xứng hợp với người nghe và khiến người nghe sinh tâm hoan hỷ vô lượng
- Hương xông ngào ngạt: Từ mặt đất lên đến hư không, hết thảy cung điện, lầu gác hồ sen, cây hoa v..v... Cho đến tất cả vạn vật đều xông ướp trong trăm ngàn thứ hương thơm, kết hợp do vô lượng tạp bảo đặc biệt. Hương ấy tỏa khắp mười phương thế giới; Bồ tát ngửi thấy mùi hương liễu dũng mãnh tu theo hạnh Phật.
- Thức ăn tinh khiết: Thức ăn gồm các thứ hương hoa vô cùng tinh khiết và thù thắng hơn ở cả cảnh trời. Khi muốn ăn, chén bát thất bảo tự nhiên hiện ra với trăm thức ăn uống đầy đủ. Cách ăn không như ở cảnh giới chúng ta, mà chỉ bằng tác ý và bằng mắt thấy tai nghe, tức thời tự nhiên bảo mãn. Ăn xong, thức ăn tiêu hóa; đến giờ ăn sau, những thức ăn mới lại tự nhiên hiện ra như trước.
- Y phục tùy niệm: Y phục của nhân dân tùy niệm tùy hiện, không cần may, cắt, giặt, nhuộm.
- Chim biết thuyết pháp:Các thứ chim ở cõi này đều là hóa thân của đức Phật A Di Đà. Ngài biến hóa ra các thứ chim tạp sắc kỳ diệu như Bạch hạc, Khổng tước, Anh võ, Xá lợi, Ca lăng tầng già, Cọng mạng, chim Phù, chim Nhạn.v.v... ngày đêm sáu thời, kêu tiếng hòa nhã. Tiếng ấy giảng giải pháp Ngũ căn, Ngũ lực, Bảy phẩm bồ đề, Tám pháp chánh đạo.v.v... Khiến người nghe đều phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Lược thuật qua chánh báo và y báo thù thắng của cõi Tịnh độ để thấy được công sức tu hành và hạnh nguyện độ sinh của chư Phật thật không thể nghĩ bàn.

Cõi Tịnh độ với đầy đủ tiện nghi khiến cho chúng sinh ở cõi nước đó không còn lo nghĩ đến sự ăn uống, tài sản…vì khắp nơi đều là bảy báu, mọi người sống chan hòa cùng chư Bồ tát, Thanh văn. Toàn cõi đều là pháp âm vi diệu, nghe pháp này khiến chứng ngôi bất thoái vĩnh viễn không còn luân hồi. Trên đây chỉ dùng ngôn ngữ hạn cuộc thế gian để phô diễn chút nhỏ nhoi công đức bao la của cảnh Tây phương. Chúng sinh không nên dừng lại ở đây, phải nỗ lực tiến tu để chứng nhập cái vô cùng của công đức Phật, như người uống nước nóng lạnh tự biết, không cần phải khổ công tính toán so lường.

II. Phẩm vị cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà

Đối với pháp môn Tịnh độ bất cứ ai nhất tâm chuyên niệm hồng danh đức Phật A Di Đà, thiết tha cầu nguyện vãng sinh đều được như ý nguyện không phân biệt hạng người cao thấp, sang hèn, trí thứ hay ngu dốt. Bởi đây ngoài sự nỗ lực tu hành của tự thân, người niệm Phật vẫn luôn được tha lực của chư Phật, chư Bồ tát và Thánh chúng gia trì tiếp độ. Tha lực ấy biến khắp trong 48 lời đại nguyện cứu độ chúng sinh, trừ nguyện lực 18, 19 và 20 có sự liên đới trách nhiệm giữa tự lực của chúng sinh và tha lực của đức Phật, những lời nguyện còn lại hoàn toàn dựa vào tha lực. Như lời nguyện thứ 31 “Thề quyết không thủ ngôi Chánh giác, nếu khi tôi thành Phật mà quốc độ không thanh tịnh không soi suốt mười phương vô lượng vô số bất khả tư nghì thế giới chư Phật như gương sáng trông suốt mọi vật.”

Tuy tha lực của chư Phật đối với chúng sinh không có phân biệt nhưng tùy vào khả năng lãnh hội và dụng công tu hành mà có chia ra ba bậc và chín phẩm khác nhau.

1. Ba bậc và Chín phẩm vãng sinh
Theo kinh Đại Bổn nói khái lược có ba, kinh Quán Vô Lượng Thọ chi tiết chiam chín. Tuy số lượng có khác nhau nhưng ý nghĩa vẫn không khác, nay tóm tắt trình bày như sau:
a.  Bậc thượng căn và ba phẩm thượng
Hạng thượng cănnhững chúng sinh xuất gia ly dục thanh tịnh, nhờ đọc tụng Đại thừa, hiểu sau chân lý tuyệt đối, rộng tu các công đức. Tùy vào khả năng tu chứng chia ram ba phẩm: Thượng phẩm Thượng sinh, Thượng phẩm Trung sinh và Thượng phẩm Hạ sinh.
b.  Bậc trung căn và ba phẩm trung
Hạng trung cănnhững chúng sinh phụng trì trai giới, hồi hướng công đức, hiếu dưỡng cha mẹ, tu các nhânnh ở đời, chuyên niệm danh hiệu Phật. Tùy vào khả năng tu chứng chia ram ba phẩm: Trung phẩm Thượng sinh, Trung phẩm Trung sinh và Trung phẩm Hạ sinh.
c.  Bậc hạ căn và ba phẩm hạ
Hạng hạ cănnhững chúng sinh biết sám hối tội lỗi sau khi đã lỡ lầm, biết tinh tấn tu theo phép thập niệm. Tùy theo khả năng tu chứng chia ram ba phẩm: Hạ phẩm Thượng sinh, Hạ phẩm Trung sinh và Hạ phẩm Hạ sinh.
Điểm chung của cả ba hạng cùng lấy sự phát Bồ đề tâmm động cơ căn bản tu hành.

2. Nhân quả tương ứng với chín phẩm vị cõi Tịnh độ
Phẩm vị tu chứng cũng được thể hiện rõ ràng theo quy luật nhân quả. Nay theo kinh Quán Vô Lượng Thọ lược thuật như sau:
a. Ba phẩm bậc thượng
• Thượng phẩm thượng sinh
 Nhân tạo tác lúc sinh tiền:
Ø
Vì lòng từ không sát sinh hại vật, nghiêm trì các giới hạnh, phát Bồ đề tâm, siêng đọc tụng kinh điển Đại thừa, tưởng niệm 6 phép tu hành (tưởng niệm Phật, tưởng niệm Pháp, tưởng niệm Tăng, tưởng niệm bố thí, tưởng niệm giới hạnh, tưởng niệm phước đức) hồi hướng công đức, phát nguyện cầu sanh Tịnh độ. Tròn đầy các công đức ấy rồi từ 1 ngày đến 7 ngày sẽ được vãng sinh.

 Trạng huống lúc lâm chung:Ø
Đức Phật A Di Đà, đức Quán Thế Âm, đức Đại Thế Chí cùng các đấng hóa Phật và Thánh chúng, tay nâng đài kim cương đến trước người hành giả. Phật và Bồ tát đều phóng hào quang chiếu sáng khắp thân hình hành giả, đưa tay tiếp dẫn tán thán công đức và khuyến khích tinh tấn. Hành giả hoan hỷ bước lên đài kim cương, tùy hành theo Phật và Thánh chúng. Trong khoảnh khắc, vãng sinh Cực lạc.

 Quả chứng đắc khi vãng sinh:Ø
Sau khi sanh về cõi Tịnh độ rồi, thấy được rừng cây ao báu, khắp nơi Phật và Bồ tát, sắc tướng trang nghiêm hiện ra diễn thuyết pháp mầu. Nghe xong, liền ngộ vô sanh pháp nhẫn. Trong chốc lát, dạo khắp mười phương, phụng sự hằng sa chư Phật. Theo thứ lớp được thọ ký, chứng đặng vô lượng pháp môn tổng trì rồi trở về quốc độ mình tùy nguyện hóa độ chúng sinh.

• Thượng phẩm trung sinh
 Nhân tạo
Ø tác lúc sinh tiền:
Tuy chưa thọ trì đọc tụng kinh điển Đại thừa, chưa hiểu rõ thâm nghĩa, nhưng đối với chân lý tuyệt đối, lòng không kinh động. Đã thâm tín nhơn quả, không hủy báng Đại thừa, đem công đức ấy hồi hướng cầu sanh Cực lạc.

 Trạng huống lúc lâm chung:Ø
Đức Phật A Di Đà và toàn thể Thánh chúng, tay nâng đài vàng đến trước hành giả, tỏ lời tán thán công đức khuyên tu học lý đệ nhất nghĩa của Đại thừa. Hành giả ngồi lên đài vàng chắp tay tán Phật, trong khoảnh khắc liền sinh Tịnh độ.

 Quả chứng đắc khi vãng sinh:Ø
Ở trên đài vàng như hoa sen lớn một đêm hoa nở để lộ ra một thân tướng sắc vàng. Hành giả nghe các âm thanh thuần nói pháp đệ nhất nghĩa rất sâu xa. Trải qua bảy ngày, không thoái chuyển Bồ đề tâm, liền sau đó bay đi khắp mười phương, lễ bái chư Phật, tu các pháp tam muội. Qua một kiếp, chứng được vô sanh pháp nhẫn và được thọ ký thành Phật.

• Thượng phẩm hạ sinh
 Nhân tạo tác
Ø lúc sinh tiền:
Tin nhân quả, không hủy báng Đại thừa. Có phát đạo tâm vô thượng, đem công đức ấy hồi hướng cầu sanh Tịnh độ.

 Trạng huống lúc lâm chung:Ø
Thấy đức Phật A Di Đà, đức Quán Thế Âm, đức Đại Thế Chí cùng 500 hóa Phật đến rước, đồng thanh tán rằng: "Pháp tử! người đã phát đạo tâm vô thượng nên nay chúng ta đến rước ngươi." Hành giả thấy mình ngồi trên đài hoa sen vàng. Ngồi xong, hoa búp lại, theo Phật và Bồ tát vãng sanh trong ao sen thất bảo.

 Quả chứng đắc khi vãngØ sinh:
 Ngồi trong hoa sen được một ngày một đêm thì sen nở. Sau 7 ngày mới thấy tướng tốt của Phật nhưng chưa rõ lắm. Sau 21 ngày, mắt mới thấy tỏ tường đồng thời tai cũng nghe tiếng thuyết pháp. Rồi cũng chu du khắp mười phương để nghe chư Phật nói các pháp nhiệm mầu. Trải qua 3 tiểu kiếp, chứng được bách pháp minh môn an trú ở địa vị Hoan hỷ (tức sơ địa Bồ tát).

b.  Ba phẩm bậc trung
• Trung phẩm trung sinh
 Nhân tạo tác lúc sinh tiền:
Ø
Thọ trì ngũ giới, tu bát quan trai giới, giới đức thanh tịnh, không tạo nghiệp ngũ nghịch, không phạm các lỗi lầm, đem các công đức ấy nguyện vãng sinh Cực lạc.

 Trạng huống lúc lâm chung:Ø
Khi gần lâm chung, thấy đức Phật A Di Đà cùng Thánh chúng phóng hào quang sắc vàng đến trước mặt hành giả. Tai nghe Phật thuyết bốn chân lý: Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã và tán thán hạnh xuất gia. Hành giả rất hoan hỷ, ngồi trên hoa sen chắp tay lễ Phật, trong chốc lát liền vãng sinh.

 Quả chứng đắc khi vãng sinh:Ø
Hoa sen liền nở và liền nghe thuyết pháp tán thán 4 chân đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Chứng quả A La Hán, có đủ Tam minh, Lục thông và Tám môn giải thoát đầy đủ.

• Trung phẩm trung sinh
 Nhân tạo tác
Ø lúc sinh tiền:
Hoặc đã từng tu giới bát quán trai, hoặc đã từng thọ giới sa di, hoặc đã từng thọ giới cụ túc, mỗi công hạnh trong một ngày một đêm với đầy đủ oai nghi. Đem công đức ấy hồi hướng, cầu nguyện vãng sinh Cực lạc.

 Trạng huống lúc lâmØ chung:
 Lúc gần lâm chung, thấy đức Phật A Di Đà phóng hào quang sắc vàng, tay nâng đài sen thất bảo, cùng với Thánh chúng đến trước mắt hành giả, tán thán rằng: "Thiện nam tử! Vì nhà ngươi tùy thuận theo lời Phật dạy nên ta đến rước ngươi." Hành giả ngồi lên hoa sen. Hoa sen búp lại rồi sinh về Cực lạc.

 Quả chứng đắc khi vãng sinh:Ø
Ở trong hồ thất bảo bảy ngày, hoa sen mới nở. Mở mắt chắp tay tán thán đức Phật, nghe pháp hoan hỷ rồi chứng được quả Tu Đà Hoàn. Qua nửa kiếp liền chứng quả A La Hán.

• Trung phẩm hạ sinh
 Nhân tạo tác
Ø lúc sinh tiền:
Hiếu dưỡng cha mẹ,m các việc nhân từ ở đời.

Ø Trạng huống lúc lâm chung:
Khi sắp lâm chung, được gặp Thiện tri thức, được nghe các việc an vui của thế giới đức Phật A di đà và được nghe 48 lời đại nguyện của Ngài Pháp tạng Tỳ kheo. Nghe xong rồi thì mạng chung. Trong chốc lát, liền vãng sinh Cực lạc.

 Quả chứng đắc khi vãngØ sinh:
 Trải qua 7 ngày, gặp đức Quán Thế Âm và đức Đại Thế Chí, nghe pháp hoan hỷ, chứng quả Tu Đà Hoàn. Qua một tiểu kiếp, chứng quả A La Hán.

c. Ba phẩm bậc hạ
• Hạ phẩm thượng sinh
 Nhân tạo tác lúc sinh tiền:
Ø
Tuy không phỉ báng kinh điển Đại thừa, nhưng gây rất nhiều tội lỗi,m nhiều điều ác ngu si không biết tự hổ.

 Trạng huống lúc lâm chung:Ø
Lúc gần lâm chung, may mắn được gặp bậc đại Thiện tri thức nói cho nghe danh tự và đề mục 12 bộ kinh Đại thừa. Nhờ nghe tên 12 bộ kinh, trừ diệt được ác nghiệp nặng nề. Theo lời chỉ bảo của vị đại Thiện tri thức, chắp tay niệm danh hiệu Phật. Nhờ sự xưng danh ấy, trừ diệt được nhiều kiếp tội lỗi trong đường sinh tử luân hồi. Bấy giờ hóa Phật và hóa Bồ tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đến trước người gần chết, tán thán rằng: "Thiện nam tử! Nhà ngươi nhờ có xưng danh hiệu chư Phật, tội lỗi được tiêu trừ, nên ta đến rước ngươi." Thấy nghe xong, sinh lòng hoan hỷ, tức thời mạng chung. Liền cưỡi hoa sen theo Phật sinh về hồ thất bảo.

 Quả chứng đắc khi vãngØ sinh:
Trải qua 49 ngày, hoa sen mới nở. Trong lúc hoa đang nở, đức Quán Thế Âm và đức Đại Thế Chí phóng hào quang sáng, đứng ở trước mặt, nói cho nghe giáo lý thậm thâm của 12 bộ kinh. Nghe rồi tín hiểu phát lòng vô thượng. Trải qua 10 tiểu kiếp, thông hiểu đầy đủ các pháp và thể chứng quả địa Bồ tát.

• Hạ phẩm trung sinh
 Nhân tạo tác
Ø lúc sinh tiền:
Nghiệp chướng nặng nề. Hủy phạm ngũ giới, bát giới hay cụ túc giới. Ăn cắp vật dụng của Thường trú, của hiện tiền Tăng. Thuyết pháp không thanh tịnh, không biết hổ với mình thẹn với người. Tạo các tội như đã kể trên, đáng lẽ phải đọa địa ngục.

  Trạng huống lúc lâm chung:Ø
Lúc gần lâm chung, tướng địa ngục hiện bày trước mắt. May mắn gặp được Thiện tri thức nói cho nghe oai đức quang minh, thần lực quảng đại của đức Phật A Di Đà và tán thán công năng của Ngũ hương“Giới hương, Định hương, Huệ hương, Giải thoát hương và Giải thoát tri kiến hương.” Nghe xong liền tiêu trừ được tội nặng trong nhiều kiếp sanh tử, lửa dữ địa ngục liền chuyển hóa thành gió mát. Liền đó có mưa hoa rải rác, trên hoa có Phật và Bồ tát hóa hiện ra để tiếp dẫn. Trong chốc lác, liền được vãng sinh vào hồ sen thất bảo.


  Quả chứng đắc khi vãng sinh:
Ø
Trải qua sáu kiếp, sen nở, đức Quán Thế Âm, đức Đại Thế Chí dùng pháp âm an ủi và nói cho nghe nghĩa lý sâu xa của kinh điển Đại thừa, nghe xong liền phát tâm Vô thượng Bồ đề.

• Hạ phẩm hạ sinh
 Nhân tạo tác lúc
Ø sinh tiền:
m các nghiệp bất thiện, gây đủ mọi tội lỗi như phạm tội ngũ nghịch, thập ác. Đã gây các nghiệp ác ấyphải đọa địa ngục trải qua nhiều kiếp để chịu mọi khổ não.

 Trạng huống lúc lâm chung:Ø
Lúc gần lâm chung, may gặp được Thiện tri thức nói cho nghe pháp mầu và bảo niệm danh hiệu Phật. Kẻ kia bị khổ não bức bách không thể niệm được. Thiện hữu thương xót khuyến khích và nhất tâm hộ niệm. Tiếng niệm Phật liên tục bất tuyệt, khiến kẻ kia có thể họa theo. Nếu họa niệm theo đủ 10 lần "Nam mô A Di Đà Phật" tức thời nhờ niệm lực ấy mà tội lỗi trong nhiều kiếp được tiêu tan. Lúc mạng chung liền thấy hoa sen vàng như vầng mặt trời hiện ra trước mắt. Trong khoảnh khắc liền vãng sinh thế giới Cực lạc

  Quả chứng đắc khi vãng sinh:Ø
Nằm trong hoa sen đủ 12 đại kiếp, sen mới nở đức Quán Thế Âm và đức Đại Thế Chí nói cho nghe thật tướng của các pháp và dạy cho phép diệt trừ tội chướng. Nghe xong, sanh tâm hoan hỷ, phát tâm vô thượng Bồ đề.

 Ba bậc và chín phẩm tu chứng ở cõiv Tịnh độ có khác nhaudo công phu tu tập sâu cạn không đồng. Tuy nhiên một khi đã vãng sinh về ao thất bảo, hóa sinh trong hoa sen hành giả sẽ không còn sa vào ác đạo, dự ngôi bất thoái, an vui vĩnh viễn cho đến ngày viên thành Phật quả. Nói rõ phẩm vị tu hành để chúng sinh từ nơi đây nhận biết nhân tạo tác hiện thời và quả vị chứng đắc trong tương lai. Người niệm Phật rất nên lưu tâm! (còn nữa)

phapluanonline

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle