Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không
duong khong lo
Nguyễn Đại Đồng
Tên tuổi của Dương Không Lộ và
Nguyễn Minh Không - hai vị danh tăng thời Lý đã làm tốn không biết bao nhiêu
giấy mực và thời gian của các học giả, các nhà nghiên cứu ngót 1.000 năm nay. Đã
có sự nhầm lẫn đan xen giữa hai vị trên về các vấn đề sau:
1. Dương Không Lộ là nhân vật có
thật hay là huyền thoại trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
2. Dương Không Lộ và Nguyễn Minh
Không là hai người khác nhau hay là một.
3. Ai là người có công xây dựng
chùa Thần Quang.
4. Ai là người chữa bệnh cho vua Lý
Thần Tông.
5. Ai là người làm “An Nam tứ đại
khí”.
6. Ai là tổ nghề đúc đồng Việt Nam.
Chúng tôi đã khảo sát những nguồn
thông tin hiện có sau đây để tiến hành giải mã các vấn đề trên.
I. Các nguồn thông tin tư liệu được khảo sát
1.1. Những tư liệu chép
tay lưu giữ tại chùa
Hiện ở chùa Keo xã Dũng Nhuệ, huyện
Vũ Thư, tỉnh Thái Bình còn lưu trữ một tài liệu chép tay bằng chữ Hán, được xem
là những thư tịch cổ về chùa Keo.
1.1.1. Tài liệu chép tay thứ nhất
có tiêu đề “Không Lộ thiền sư ký ngữ lục”
chép: Sư họ Dương, tên Không Lộ, húy là Minh Không, theo nghiệp nhà làm nghề
chài lưới. Sau bỏ nghề đi tu theo phái Đà La Ni. Ngài đã vân du sang Trung
Quốc, quyên giáo đồng của nhà Tống, dùng pháp thuật thu cả kho đồng mà túi chưa
đầy, ngả nón tu lờ làm thuyền, làm phép rút đất, mang đồng vượt biển về nước
đúc tượng chùa Quỳnh Lâm, chuông chùa Phả Lại và vạc Phổ Minh. Khi vua Lý Thần
Tông 21 tuổi bị mắc bệnh lạ, tâm thần hoảng loạn, kêu như tiếng hổ gầm, mình
mẩy mọc đầy lông, các danh y trong thiên hạ đều bó tay, triều đình nghe trong nước
có sư Minh Không chữa được bệnh cho vua nên sai người đi tìm. Đoàn quan quân
đến chùa Keo gặp ông lão đánh lưới trên sông bèn hỏi thăm Dương Không Lộ. Khi
vào đến chùa đã thấy ông lão đánh cá ở đó và nhận mình là Không Lộ. Sư mời cơm
quan quân bằng một niêu nhỏ, nhưng cả 40 người ăn no mà vẫn chưa hết. Buổi tối,
sư cho thuyền nhổ neo, thuyền đi như bay và sáng hôm sau đã về tới kinh đô. Sau
khi chữa khỏi bệnh, vua phong cho Không Lộ là đại pháp sư kiêm Quốc sư. Sau khi
tịch, thân thể sư biến thành khúc gỗ trầm hương. Ngoài hai chùa Keo, Quốc sư
còn được thờ ở nhiều chùa khác. Những nơi có dấu chân của Ngài đi qua đều có
đền thờ và được suy tôn là tổ nghề rèn, nghề đúc đồng, nghề đan tre nứa.
1.1.2. Tài liệu chép tay thứ
hai hiện vẫn được bảo quản cẩn thận ở chùa Keo có tên là: “Trùng san Thần Quang tự Phật tổ ban hành thiền uyển ngũ lục tất yếu”.
Cuốn sách này ghi lại toàn bộ các nhà sư danh tiếng ở nước ta thuộc phái Tam
tông mà Tổ sư là Thiền sư Vô Ngôn Thông tu ở chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng, huyện
Tiên Du, Bắc Ninh. Về sư Không Lộ, sách chép ông thuộc đời thứ 9 và là học trò
một vị đồng học với vua Lý Thái Tông, tu ở chùa Nghiêm Quang.
1.1.3. Bản chép tay Thánh Tổ thực lục do cư sĩ Xích Đằng Nguyễn
Thụ dịch năm 2005 theo bản của Lạc Thiện Đường khắc năm 1919. Trang đầu sách ghi rõ: “Đại pháp thiền
sư, tính Nguyễn, húy Chí Thành, hiệu Không Lộ, biệt hiệu Minh Không. Sắc phong
“Đại giác thông tuệ, Viên tĩnh đoan túc, Dực bảo trung hưng Phúc thần”. Ngài
sinh năm Thái Ninh thứ 5 tức Bính Thìn 1076 đời vua Lý Nhân Tông, tại chùa Hưng
Long (tục gọi chùa Tôn) ở xã Hán Lý, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương, Quê cha ở
Điềm Xá huyện Gia Viễn, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình; quê mẹ ở xã Lại Trì huyện
Trực Định, tỉnh Thái Bình. Ngài đi tu cùng Giác Hải và là bạn Từ Đạo Hạnh. Năm
1120 ba người tìm đường sang Tây Trúc học đạo, đắc pháp Lục trí thần thông; năm
1121, ngài trở về Dũng Nghĩa, huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình dựng chùa Thần
Quang. Ngài sang Trung Quốc xin đồng về nước đúc Tứ khí:
Một là pho tượng Quỳnh Lâm,
Hai: chuông Phả Lại nguyên âm còn truyền.
Thứ ba: cây tháp Báo Thiên,
Thứ tư: minh đỉnh để miền Nam Trung.
Ngài chữa bệnh sợ tiếng
tắc kè kêu của vua Lý Nhân Tông (1072-1128) ở điện Hưng Long, được vua thưởng 1.000
cân vàng và cấp điền 500 mẫu làm ruộng hương đèn cho chùa, lại sắc phong Quốc
sư; sau lại vào cung chữa khỏi bệnh vua hóa hổ cho vua Lý Thần Tông (1128-1138)
được vua thưởng 1.000 cân vàng và 1.000 mẫu ruộng làm tự điền, vĩnh viễn không
phải nộp thuế. Ngài mất ngày 3 tháng 6 năm Giáp Tuất (1154) ở vùng vạn chài
Giao Thủy, nay là xã Nghĩa Xã, Nam Định, thọ 79 tuổi. Năm Mậu Ngọ 1918, triều
đình cho xây sửa thánh tháp ở bản tự và dựng bia ghi sự tích ở đó.
Sách sai nhầm nhiều
chỗ (như ngày sinh, ngày mất, tên họ) vì đã tập hợp mọi sự tích vào một người là
đức Thánh Tổ Không Lộ biệt hiệu Minh Không, húy là Nguyễn Chí Thành.
1.1.4. Sách Thánh Tổ chiếu lục, chữ Nôm, viết theo
thể diễn ca song thất lục bát, kể chuyện Minh Không “Vốn trung linh người dòng Nguyễn tộc” cùng Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Giác
Hải đi tầm sư học đạo:
Phẩm tiên lại gặp bạn tiên,
Ba ông dạo bước thẳng miền Tây Thiên.
Các diễn biến vua
hóa hổ - điềm báo - sang Trung Quốc xin đồng về làm tứ khí đúng như các tình
tiết mà thư tịch cổ đã nêu. Sách cho rằng chỉ có một người trở thành Quốc sư,
đó là Nguyễn Minh Không. Quan điểm này trùng với tác giả sách Truyện đức Lý Quốc sư
1.1.5. Sách Quốc sư bảo lục, chữ Hán.
Năm 1984, tại địa bàn xã Vũ Tây, Viện Nghiên cứu Hán Nôm
cho biết: Chúng tôi đã sưu tầm được một quyển sách chữ Hán chép tay, giấy bản
khổ 21x12cm, gồm 28 tờ, được chép chữ trong 48 trang, trung bình mỗi trang 170
chữ. Nội dung sách gồm hai phần:
Phần thứ nhất, tên sách đề chính giữa bốn chữ to: “Quốc sư bảo lục”. Phía trên phải đề
“Hoàng triều Bảo Đại tam niên, Mậu Thìn, mạnh thu, phụng sao”. Phía trái đề:
“Lại Trì xã phụng tự”.
1. Lý triều quốc sư tích lục, gồm 10
trang. Lạc khoản có ghi “Bính Thìn khoa đồng tiến sĩ, Tuần phủ trí sĩ Thiện
Đình Đặng Hy Long tiên sinh khảo lục”. Phía dưới bên trái viết bốn chữ nhỏ:
“Quán Hành Thiện xã”.
2. Phụ lục Minh Không thiền sư sự tích, gồm
6 trang.
3. Thiện Đình tuần phủ Đặng tiên sinh khảo bạt, gồm
6 trang.
Phần thứ hai của cuốn sách cũng gồm ba bài:
1. Quốc sư sự tích ký ngữ lục, gồm 17
trang.
2. Đạo Hạnh biệt truyện, gồm 5 trang.
3. Từ điển khảo đính, gồm 4 trang
Nhìn vào bố cục cuốn sách, chúng ta thấy phần đầu gồm 22
trang, là sách của Đặng Xuân Bảng, hiệu Hy Long, được một nhà Nho người làng Lại
Trì sao chép lại năm 1928. Phần thứ hai gồm 26 trang, là phần do người sao chép
ấy biên soạn, gồm sự tích của các vị thánh thờ ở Đình Am, sự tích của Từ Đạo
Hạnh và một bài khảo đính.
Phần sách của Đặng Xuân Bảng đã phân biệt rõ sự tích hai vị
cao tăng triều Lý, đại lược như sau:
1. Dương Không Lộ, huý Minh Nghiêm, người làng Giao Thuỷ,
huyện Hải Thanh, đạo hiệu Không Lộ, làm nghề đánh cá; mẹ họ Nguyễn, người làng
Hán Lý, Hải Dương. Dương Không Lộ sinh ngày 14 tháng 9 năm Bính Thìn, niên hiệu
Thuận Thiên thứ bảy đời Lý Thái Tổ (1016). Sư tịch ngày 6 tháng 3 năm Giáp
Tuất, niên hiệu Hội Phong thứ ba, đời Lý Nhân Tông (1094), thọ 79 tuổi. Năm 42
tuổi, theo học Thảo Đường thiền sư. Năm 44 tuổi, tu ở chùa Hà Trạch. Bạn cùng
sư Giác Hải, sau về tu ở chùa Diên Phúc. Năm 46 tuổi, dựng chùa Nghiêm Quang.
Năm Bính Ngọ, niên hiệu Long Chương Thiên Tự thứ nhất, đời Lý Thánh Tông
(1066), Không Lộ cùng Giác Hải trừ được hai con tắc kè kêu ở điện Liên Mộng.
Không Lộ được vua thưởng 1.000 lạng bạc, 500 khoảnh ruộng và phong làm Quốc sư.
Giác Hải được phong quốc tính.
2. Nguyễn Minh Không huý Chí Thành, đạo hiệu Minh Không,
quê làng Đàm Xá, huyện Đại Hoàng, phủ Trường Yên, sinh năm Bính Ngọ (1066),
niên hiệu Long Chương Thiên Tự thứ nhất, đời Lý Thánh Tông (1054-1072). Minh
Không tu ở chùa Quốc Thanh, theo học Từ Đạo Hạnh 40 năm. Sau lại tu ở chùa Diên
Phúc. Sư tịch ngày 1 tháng 8 năm Đại Định thứ hai, đời Lý Anh Tông (1141), thọ
76 tuổi.
Năm Bính Thìn, niên hiệu Thiên Chương Bảo Tự thứ tư, đời Lý
Thần Tông (1136). Minh Không chữa khỏi bệnh hóa hổ cho Lý Thần Tông, được phong
quốc sư.
Nội dung bài Bạt của Đặng Xuân Bảng trình bày như sau:
“Chùa làng ta phụng sự đức Không Lộ. Khi còn thiếu thời,
tôi thường hỏi về sự tích đức thánh, các bậc cố lão nói rằng: Dương Không Lộ
biệt hiệu là Minh Không. Tôi lấy làm ngờ, nhân đến chùa xem Thiền lục thì
thấy có hai tập, một là Tiền lục nói rằng: đức Không Lộ họ
Dương huý Minh Nghiêm, quán huyện Hải Thanh; một tập là Hậu lục nói
rằng: đức Không Lộ họ Nguyễn huý Chí Thành, quán làng Đàm Xá, biệt hiệu Minh
Không. Tôi càng ngờ, khi xem sách Chích
quái của ông Vũ Quỳnh, tôi thấy sự tích Thánh tổ hợp với Tiền
lục, nhưng lại ngờ rằng hoặc là Hậu lục đã có khảo
cứu chăng, nên chưa dám tin là đúng. Sau tôi đi du ngoạn các nơi, thường hỏi
thánh tích và đã được đọc vài chục bản. Cho nên tôi đã khảo cứu từ Lĩnh
Nam chích quái đến Quốc sử biên
niên thì Không Lộ họ Dương, Minh Không họ Nguyễn. Họ không giống nhau.
Không Lộ húy Minh Nghiêm, Minh Không húy Chí Thành. Tên không giống nhau. Không
Lộ quán ở Hải Thanh, Minh Không quán ở Đàm Xá. Quán chỉ cũng khác. Không Lộ
sinh năm Bính Thìn, niên hiệu Thuận Thiên thứ bảy (1016) đời Lý Thái Tổ, Minh
Không sinh năm Bính Ngọ, niên hiệu Long Chương Thiên Tự thứ nhất (1066) đời Lý
Thánh Tông. Không Lộ tịch năm Giáp Tuất, niên hiệu Hội Phong thứ ba (1094) đời
Lý Nhân Tông; Minh Không tịch năm Tân Dậu, niên hiệu Đại Định thứ hai (1141)
đời Lý Anh Tông. Khi sinh cách nhau 52 năm, khi tịch cách nhau 48 năm. Ngày
sinh, ngày tịch cũng không giống nhau. Như thế thì Tiền lục là
đúng mà Hậu lục là sai. Các bậc cố lão làng ta mới chỉ xem
sách hậu lục mà chưa khảo sách Tiền Lục. Có lẽ điều mà sách Hậu
lục nhầm lẫn chùa Diên Phúc nguyên là nơi Không Lộ tu hành mà cũng là
nơi Minh Không về sau tu ở đấy. Thời gian tu hành của hai sư trước sau khác
nhau, nhưng pháp thuật, đều linh hiển ở đời, cho nên sách Hậu
lục chép nhầm cũng tại cớ đó.
Sở dĩ triều Lý sùng Phật giáo là do vua Lý Thái Tổ phong
cho sư Vạn Hạnh làm Quốc sư, cho nên thời đó các vị cao tăng xuất hiện nhiều,
vào các đời Thái Tông, Nhân Tông, Thần Tông, có Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Đạo
Hạnh, Nguyễn Minh Không, Khô Đầu, Tam muội đều có pháp thuật linh ứng, mà Không
Lộ thì pháp thuật hơn cả. Sách An Nam chí của Cao Hùng Trưng
đời nhà Minh chép về hơn 20 vị cao tăng nước ta, cũng lấy Không Lộ đứng đầu,
còn các vị khác thì pháp thuật cũng có sự cao thấp khác nhau.
Chùa ta thờ đức Không Lộ tới 700 năm nay rồi. Làng ta cứ
đời đời thờ phụng mà truyền lại những điều quái đản như thế của sách nhà chùa. Ở
nơi có hàng trăm, hàng nghìn năm văn hiến, sao lại còn giữ mãi cái thuyết sai
khác đến như vậy!
Còn nói đến An Nam tứ
khí như tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng Quỳnh Lâm, vạc Phổ Minh, xét
trong sử làm vào năm thứ ba niên hiệu Long Thuỵ Thái Bình (1056) đời Lý Thánh
Tông. Xây chùa Sùng Khánh, dựng tháp quý Đại Thắng Tư Thiên vào đời Lý Nhân
Tông, trùng tu, đúc chuông lớn đặt trong chùa, chuông đánh không kêu, đem bỏ ra
ruộng, ruộng sinh sản nhiều rùa, nên gọi là chuông Quy Điền. Tháp Đại Thắng Tư
Thiên tức tháp Báo Thiên, nay thuộc phường Báo Thiên, huyện Thọ Xương. Chuông
Quy Điền nay thuộc thôn Thanh Bảo, huyện Vĩnh Thuận (đều thuộc Hà Nội).
Tượng Phật Quỳnh Lâm, vạc Phổ Minh do Minh Không đúc. Còn
tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền là những vật triều Lý đã được ghi rõ ràng trong
quốc sử, Chuông Phả Lại do Không Lộ đúc. Chùa thời Không Lộ, mà Minh Không
phụng sự, đều bị lầm lẫn vậy. Không Lộ cùng với Giác Hải, Đạo Hạnh hoặc là bạn
của nhau, hay không phải bạn, nhưng đều là người đồng thời. Ba người pháp thuật
cao thấp khác nhau là bạn cùng thời với nhau chăng, thực khó mà quyết đoán
được. Đến như các việc trừ tắc kè, chữa bệnh hóa hổ đều là những điều quái đản,
nhưng đó là pháp thuật của đạo Tiên hay đạo Thích cũng chưa hẳn hoàn toàn không
có, người tin truyền đi, điều tin, người nghi truyền đi đều nghi, sự việc còn đấy,
chưa bàn hết được”.
Một vấn đề nữa là: Sách Quốc sư bảo lục của
Đặng Xuân Bảng đã được biên soạn vào thời gian nào?
Tìm đọc sách Thánh tổ hành thực diễn âm ca của
Đặng Xuân Bảng, kí hiệu VHv.2380 trong kho sách Hán Nôm do Viện Nghiên cứu Hán
Nôm quản lý hiện nay, chúng ta thấy sách ghi rõ: Viết vào tháng 10 năm Mậu Tuất,
niên hiệu Thành Thái, tức tháng 11 năm 1898. Sách này được viết bằng chữ Nôm
theo thể thơ lục bát, có chú thích tỉ mỉ bằng chữ Hán. Nội dung sách hoàn toàn
giống sự tích Dương Không Lộ đã được thuật ở trên. Do đó, chúng ta có thể biết
được rằng các tác giả đã biên soạn sách Quốc sư bảo lục muộn
nhất vào tháng 11 năm 1898, nghĩa là thời gian trước khi diễn âm sách Thánh
tổ hành thực diễn âm ca.
Phần thứ hai của quyển sách mới sưu tầm do một nhà Nho giấu
tên nguời làng Lại Trì viết, đã sao chép lại sự tích Không Lộ thờ ở Đinh Am và
sự tích Từ Đạo Hạnh, rồi phát biểu ý kiến của mình trong bài Từ điển
khảo đính ở cuối quyển sách. Nội dung ý kiến của tác giả chủ yếu là
nhất trí với sự khảo cứu của Đặng Xuân Bảng trong bài Bạt đã trình bày ở trên.
Căn cứ vào nội dung và thời điểm ra đời, quyển sách mới sưu tầm nói trên đã
giúp chúng ta thêm một bằng chứng mới để góp phần làm sáng tỏ vấn đề sự tích
Không Lộ và Minh Không bị lầm lẫn lâu nay.
1.2. Tư liệu bia ký
1.2.1. Bia ký ở chùa Keo ở tỉnh
Thái Bình nói tới Dương Không Lộ không nhiều. Quan trọng hơn cả là tấm bia hiện
ở phía trước tòa Phụ quốc tức Hậu cung. Bia hình vuông được khắc chữ ở cả 4 mặt
có niên hiệu Chính Hòa thứ 10 (1689) ghi: “Chùa này thờ ông Không Lộ rất linh
thiêng, được vua nhà Lý cấp ruộng ngàn mẫu”.
1.2.2. Bia lưu giữ tại chùa La Vân
ở xã Quỳnh Vân, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình được dựng vào năm Đức Long thứ
5 (1633) do sư Khuông Đạo Vũ trụ trì chùa La Vân soạn có nhắc đến thiền sư
Dương Không Lộ, cho rằng: “Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không là một”.
1.2.3. Bia dựng năm Tự Đức thứ 8
(1855) tại chùa Quán Sứ, Hà Nội có ghi: Thiền sư (Minh Không) là người tinh thông
pháp thuật, pháp môn kỳ quái không sao lường hết được. Có khi ngài theo cây
tích trượng bay về chốn đế đô, có nơi lại mây bay dạo chơi núi Thiên Thai,
không sao đoán biết được. Ngài từng dừng lại chùa Hà Trạch, có làm bài thơ Ngôn
hoài….
Thiền sư đã từng chữa khỏi bệnh cho
vua Lý Thần Tông. Vua Thần Tông sinh ra vua Anh Tông. Vua Anh Tông sinh ra vua
Cao Tông. Vua Cao Tông sinh ra vua Huệ Tông. Trải qua bốn đời vua dài mấy chục
năm, ngài có nhiều công lao với triều đình, với nhân dân ta. Năm Thiên Chương
Bảo Tự thứ 4 (1136) triều đình ban cho ngài làm Quốc sư, hưởng lộc mấy trăm hộ.
Ngài là người tài giỏi mà cũng là
bậc thần giỏi, còn việc hóa hổ kia tưởng cũng chẳng cần bàn thêm.
1.3. Những truyền thuyết dân gian
Xung quanh thân thế, sự
tích thiền sư Không Lộ còn có một khối lượng lớn tư liệu gấp nhiều lần những tư
liệu đã nêu. Đó là những truyền thuyết
dân gian mà ta có thể gặp ở nhiều nơi trên khắp đồng bằng Bắc Bộ nay, đơn cử:
1.3.1. Tại
chùa Am ở huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình có thờ một chiếc vỏ trấu. Tương
truyền, lúc sinh thời Không Lộ qua lại đó và chiếc vỏ trấu từ lâu đã trở thành
biểu tượng sự ghi nhớ công ơn “người anh hùng” đã có công khai sáng ra vùng
đồng bằng trồng lúa.
1.3.2. Ở vùng Trực Ninh, Nam Định có ngôi chùa Lương Hàn, ở cửa
biển Thần Phú (Ninh Bình) có chùa
Hàn có thờ Không Lộ. Dân hai vùng này còn lưu truyền sự tích Không Lộ đã dùng
nón “Tu lờ” làm thuyền chở đồng đi giết quái vật (ngư công) mang lại sự bình
yên cho biển cả và nhân dân. Cho đến những năm gần đây, hàng năm chùa Lương Hàn
vẫn tổ chức đua chải và diễn trò “cướp ông Mó” (quái vật xưa).
1.3.3. Phiến
đá ở làng Khang Cù
Khang
Cù có sự cũng hay,
Đá xanh một phiến lấy ngay bắc cầu.
Rộng, dài, dầy nhẵn trước sau,
Giữa thông một lỗ, tựa hầu quẩy đi.
Thôn Khang Cù, xã Đồng Trung, huyện Trực Định, tỉnh Thái
Bình có phiến đá dài 8 thước, rộng 4 thước. Ở xã Thạch Cầu, huyện Nam Trực, Nam
Định cũng có một hòn đá dạng như vậy. Tục truyền dấu đục (giữa thông một lỗ) là
của Thánh Minh Không để xỏ đòn gánh, gánh về bắc cầu cho dân.
1.3.4. Chùa
Hàm Long ở sơn phận xã Lam Sơn, huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh có tháp đá cao 1
trượng. Phía Đông núi có hốc đá nước chảy không bao giờ cạn. Tương truyền đấy
là chỗ tu hành của Dương Không Lộ.
1.3.5. Ở Bắc
Giang còn một làng làm nghề rèn nổi tiếng. Đó là làng Đức Thắng (thị trấn huyện
Hiệp Hòa) có tục lệ là: Hàng năm, những người thợ rèn tổ chức một “hội chợ thủ
công” để bán sản phẩm của mình làm ra. Mở đầu cho hội chợ hấp dẫn này là một
nghi thức tế lễ Dương Không Lộ rất long trọng.
1.4. Những tài liệu, thư tịch cổ
Ngoài những nguồn tư
liệu vừa trình bày ở trên, về sự tích thiến sư Không Lộ còn ghi được lại trong
một số tài liệu thư tịch cổ.
1.4.1.
Trước hết phải nhắc tới Thiền uyển
tập anh (TUTA) cuốn sử Phật giáo cổ nhất chép
“Thiền sư Không Lộ ở chùa Nghiêm Quang họ Dương quê Hải Thanh (Nam Định), nhà
mấy đời làm nghề đánh cá. Sư chuyên chú tu trì pháp môn Đà-la-ni. Khoảng niên
hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065) đời Lý Thánh Tông, sư cùng Giác Hải đi
vân du cõi ngoài, dấu kín tung tích, đến chùa Hà Trạch… một lòng chuyên chú tu
tập thiền định. Rồi sư thấy tâm thần tai mắt ngày càng sáng láng thông tỏ, bay
trên không, đi dưới nước, hàng long phục hổ… Sau sư về bản quán dựng chùa trụ
trì. …”. Ngày 3 tháng 6 năm Ất Hợi niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ 10 (1119)
sư thị tịch... Vua Lý Nhân Tông cho sửa sang mở rộng chùa Nghiêm Quang (1167
đổi là chùa Thần Quang), miễn tô thuế cho 20 hộ để đèn hương phụng thờ.
Trong sách chép Không Lộ thuộc đời thứ 9 thiền
phái Vô Ngôn Thông và đời thứ 2 thiền phái Thảo Đường, không thấy chép về hiện
tượng sư Không Lộ chữa khỏi bệnh sợ tiếng kêu tắc kè cho vua Lý Nhân Tông được
vua phong làm Quốc sư. Trong khi đó ở phần chép về thiền sư Giác Hải ở chùa
Diên Phúc làng Hải Thanh, có nói rõ rằng Giác Hải và Thông Huyền chữa bệnh cho
vua Lý Nhân Tông khỏi sợ tiếng kêu của hai con tắc kè, nhân một chuyến đi vãng
cảnh của vua và hai vị thiền sư.
Ở trang 212 sách có chú thích: “Tiếp đây
TUTA (bản Vĩnh Thịnh) (1715) chép truyện Quốc sư Minh Không (Nguyễn Chí Thành
1066-1141), trụ trì chùa Quốc Thanh, phủ Trường Yên, quê ở hương Điềm Xá, châu
Đại Hoàng (nay thuộc huyện Hoa Lư, Ninh Bình). Trong truyền thuyết dân gian và
một số thư tịch cổ có sự trình bày lẫn lộn giữa hai thiền sư Minh Không và
Không Lộ. Ngay cả sắc phong của triều đình, từ triều Cảnh Thịnh trở về trước
cũng chép gộp 4 chữ “Minh Không Không Lộ”, cho rằng đó là vị thiền sư đã khởi
dựng chùa Thần Quang (chùa Keo Dưới, ở xã Vũ Nghĩa, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái
Bình nay), đến đời Nguyễn mới bỏ hai chữ Minh Không.
Tại đây TUTA (bản Vĩnh Thịnh) cũng chép
việc Quốc sư Minh Không chữa bệnh hóa hổ cho Lý Thần Tông, tương tự như trong Lĩnh Nam chích quái, lại có những đối
thoại xa lạ với Phật giáo, ngờ do người in bản in Vĩnh Thịnh thu nạp vào một
cách thiếu cân nhắc. Vì lý do đó, chúng tôi tạm lược bỏ truyện Minh Không,
không đưa vào bản dịch này.
1.4.2. Sách Đại Việt sử ký toàn thư (gọi tắt là Toàn Thư), thế kỷ XV.
Phần Kỷ nhà Lý, không có chỗ nào chép riêng về Dương
Không Lộ, chỉ thấy có 3 đoạn chép về thiền sư Nguyễn Minh Không:
+ Tân Hợi, năm thứ 4 (1131) (Tống Thiệu Hưng năm thứ 1).
Tháng 5. Dựng nhà cho Đại sư Minh Không.
+ Bính Thìn, năm thứ 4 (1136). Tháng 3. Vua bệnh nặng,
chữa thuốc không khỏi, nhà sư Minh Không chữa khỏi, phong làm Quốc sư. Tha phú
dịch cho vài trăm hộ. (Tục truyền rằng khi nhà sư Từ Đạo Hạnh sắp trút xác,
trong khi ốm đem thuốc và thần chú giao cho học trò là Nguyễn Chí Thành tức
Minh Không và dặn rằng 20 năm sau nếu thấy quốc vương bị bệnh nặng thì đến chữa
ngay. Tức là việc này).
+ Tân Dậu, Đại Định năm thứ 2 (1141) (Tống Thiệu Hưng
năm thứ 11). Mùa thu. tháng 8, quốc sư Minh Không chết (sư người xã Đàm Xá,
huyện Gia Viễn, phủ Trường Yên, rất linh ứng, phòng khi có thủy hạn tai hại gì,
cầu đảo đều nghiệm cả. Nay hai chùa Giao Thủy và Phả Lại (tức chùa Keo trên và
chùa Keo dưới, xưa đều thuộc hương Giao Thủy. Nay chùa Keo trên thuộc huyện Vũ
Thư Thái Bình, chùa Keo dưới thuộc huyện Xuân Trường, Nam Định) đều tô tượng để
thờ.
Cũng trong Toàn thư
có một đoạn đáng quan tâm: “Ất Mão, năm thứ 3 (1135) (Tống Thiệu Hưng năm thứ
5). Tháng 6, Chi hậu thư gia là Lý Xương và Quán Đinh Tăng là Nguyễn Minh đều
dâng chim sẻ trắng”. Theo TUTA, chùa Quán Đình ở núi Không Lộ (trang 83).
1.4.3. Khâm định
Việt sử thông giám cương mục
Tập 1 trang 371 viết: Bính Thìn, năm thứ 4 (1136).
(Tống, năm Thiệu Hưng thứ 6). Nhà vua có tật, thầy thuốc chữa không công hiệu;
Minh Không chữa khỏi; được ban hiệu Quốc sư. Lại miễn tô dịch cho vài trăm hộ
để cho Minh Không được quyền sử dụng.
Lời chua – Minh
Không: Người huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, làm sư chùa Giao Thủy (Tức
chùa Keo thuộc huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định).
1.4.4. Sách An Nam chí của Lê Tắc thế kỷ XIII
Quyển thứ XV chép mục
Không Lộ và Giác Hải: Hai nhà sư thường vào Trung Quốc, xin đồng để đúc
chuông, lúc về có thần nhân ủng hộ, thuyền đi một buổi chiều về đến quê hương,
đúc hai cái chuông, một cái lớn, một cái nhỏ, treo ở chùa núi Phả Lại, mỗi lúc
đánh, tiếng vọng rất xa, tiếng đồn đến Trung Quốc. Chưa được bao lâu, cái
chuông lớn chạy vào khe Bài Nam, mưa lớn, nước dâng lên trôi đi mất. Nhà sư sợ
cái nhỏ cũng đi theo, bèn lấy sắt đóng lại, nay đương còn. (Tục truyền Không Lộ
có tài bay lên không trung, Giác Hải có tài lặn xuống nước).
1.4.5. Sách Đại Nam nhất thống chí thế kỷ XIX
1.4.5.1. Quyển
XIV, tỉnh Ninh Bình
Mục Đền miếu: “Đền Nguyễn Minh Không: Hai xã Đàm Xá và
Điềm Xá cùng thờ. Thần là người xã Điềm Xá, họ Nguyễn tên tục là Chí Thành. Xét ngoại truyện chép Chí Thành đi học
lĩnh hội được tâm ấn của Từ Đạo Hạnh, lấy hiệu là Minh Không thiền sư trụ trì
chùa Quốc Thanh, đời Hội Tường Đại Khánh (1110-1119) triều Lý Nhân Tông, Từ Đạo
Hạnh sắp mất, dặn lại Minh Không rằng: ‘Sau này thầy ở ngôi vua, khó trốn được
nợ trần, cần được đệ tử cứu chữa’. Sau Lý Thần Tông mắc bệnh, hóa thành hình
cọp, bấy giờ đồng dao có câu rằng: ‘Dục y lý cửu trùng, tu cầu Nguyễn Minh Không’,
nghĩa là muốn chữa bệnh vua nhà Lý, phải tìm Nguyễn Minh Không. Khi mời đến,
nhà sư nói về tiền nhân cho nhà vua nghe, vua tỉnh ngộ. Minh Không bèn nấu vạc
dầu sôi rồi vốc dầu vào bàn tay vẩy khắp thân thể vua. Nhà vua khỏi bệnh, phong
làm Quốc sư cho ăn lộc mấy trăm hộ. Đến năm Đại Định thứ 2 (1141), nhà sư mất,
người địa phương lập đền thờ. Trước đền có cây đèn bằng đá, cao phỏng 1 thước,
tương truyền đấy là cây đèn nhà sư dùng để tụng kinh. Nay các chùa ở Giao Thủy
và Phả Lại đều tô tượng phụng thờ”.
1.4.5.2. Quyển
XVI, tỉnh Nam Định
Mục Đền, miếu: “Đền Thiền sư Không Lộ: các xã Hành
Thiện, Dũng Nhuệ, Hộ Xá, Tương Đông huyện Giao Thủy và xã Lộng Khê huyện Phụ
Dực (nay thuộc tỉnh Thái Bình) đều có đền thờ Thiền sư họ Dương hiệu là Không
Lộ”.
“Đền thiền sư Minh Không ở xã Cổ Đam, huyên Ý Yên. Thiền
sư họ Nguyễn, tên là Chí Thành, người xã Đàm Xá, huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình”.
Mục Chùa quán: “Chùa Thần Quang trước là Nghiêm Quang, ở
xã Dũng Nhuệ, huyện Giao Thủy, quy mô rộng rãi, là nơi trụ trì của Dương Không
Lộ, nay vẫn hiển linh, phàm cầu đảo về việc thủy hạn tai thương đều được nghiệm”.
Mục Tăng: “Thiền
sư Không Lộ: Thiền sư họ Dương, hiệu là Không Lộ; người Thanh Hải (An Nam chí chép là người huyện Giao Thủy).
Đời ông cha làm nghề chài lưới, thiền sư bỏ nghề ấy mà học đạo Thiền, làm bạn
với thiền sư Giác Hải, trụ trì chùa Hà Trạch, tinh thông pháp thuật, bay lên
không trung, đi trên mặt nước, hàng phục được long hổ, kỳ quái khó lường. Tịch
ở đời Hội Tường Đại Khánh triều Lý, vua Lý tha thuế cho 20 hộ để lấy tiền đèn
hương phụng thờ (sự tích chép trong Lĩnh
Nam chích quái).
1.4.5.3. Quyển
XVII, tỉnh Hải Dương
Mục Đền miếu: “Đền Minh Không thiền sư: Ở xã Hán Lý,
huyện Vĩnh Lại (nay thuộc huyện Bình Giang). Thiền sư họ Nguyễn, tự là Chí
Thành, người huyện Gia Viễn. Lúc trẻ kết
bạn với Từ Đạo Hạnh, thụ giới ở chùa Vân Mộng. Sau làm Tăng ở triều Lý Nhân
Tông, Thần Tông mắc bệnh nhà sư chữa khỏi, vua phong làm Quốc sư. Tương truyền
nhà sư siêu hóa ở núi Tam Viên xã Hán Lý, dấu cũ vẫn còn”.
Mục Chùa quán: “Chùa Dương Nham ở động núi xã Dương
Nham, huyện Giáp Sơn, gian giữa thờ Phật, bên tả thờ tượng Không Lộ, Đạo Hạnh
và Huyền Quang, bên hữu thờ tượng Trần Anh Tông. Phong cảnh trong động âm u đẹp
đẽ, bài thơ của Lê Thánh Tông khắc vào đá nay vẫn còn.
Chùa Hưng Long ở xã Hán Lý, huyện Vĩnh Lại (nay là huyện
Ninh Giang). Trước chùa có sông Cửu Khúc. Tương truyền quê mẹ thiền sư Không Lộ
ở đây, nhân dựng chùa ở đấy. Thiền sư Không Lộ với hai thiền sư Đạt Man và Đạo
Hạnh đồng thời kết nghĩa anh em. Ba người cùng ở với nhau, tu hành ở đây. Sau
khi các thiền sư tịch, tỏ rõ pháp lực, có thể đạp mây cỡi gió, cầu đảo thường
được linh ứng, dân xã tô 3 pho tượng để thờ.
“Chùa Quỳnh Lâm: Ở một quả gò bằng trong núi Quỳnh Lâm,
xã Hà Lôi, huyện Đông Triều, do thiền sư đời Lý là Nguyễn Minh Không lập, đúc
tượng đồng để trong
chùa (tượng này là một trong tứ khí
của An Nam)”.
1.4.5.4. Quyển
XXI, tỉnh Sơn Tây
Núi Không Lộ thuộc huyện Thạch Thất, trên núi có chùa
Lạc Lâm, là chỗ thiền sư Không Lộ trút xác hóa kiếp.
Theo TUTA, chùa Quán Đình ở núi Không Lộ (trang 83). Như
thế, liệu chùa Quán Đình còn có tên là chùa Lạc Lâm (núi Thầy) nay thuộc huyện
Quốc Oai, Hà Nội?
1.4.6. Sách “Nam ông mộng lục” thế kỷ
XV
Mục “Sự thần dị của Minh Không” chép: “Ở hương Giao
Thủy, nước Giao Chỉ có chùa Không Lộ. Ngày xưa có một vị sư họ Nguyễn, tên là
Minh Không, khoảng năm Trị Bình đời Tống xuất gia đến chùa này, có đức hạnh và
rất nổi tiếng…” Đoạn cuối cùng trong trang sách này chép việc thiền sư chữa
bệnh cho thái tử (sau này lên ngôi vua hiệu Lý Thần Tông). Ban thưởng các thứ
đều không nhận. Vua phong cho hiệu “Thần tăng” và nhân đó, lấy hai chữ Không Lộ
để đặt tên chùa của nhà sư.
1.4.7. Sách Lĩnh Nam chích quái thế kỷ XV
Có riêng hai truyện: 1- Truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn
Minh Không; 2- Truyện Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải, nói rõ Nguyễn Minh
Không và Dương Không Lộ là hai người, với hai mối quan hệ khác biệt: “Xưa ở
làng Đàm Xá, huyện Đại Hoàng, đất Trường Yên có người tên là Nguyễn Chí Thành ở
chùa Quốc Thanh, hiệu là Minh Không quốc sư, lúc ít tuổi đi du học, gặp Đạo
Hạnh, được truyền đạo hơn mười năm” còn “Thiền sư Không Lộ ở chùa Nghiêm Quang,
huyện Hải Thanh là người họ Dương ở đây… thường cùng Giác Hải là đạo hữu”. Sách
còn cho biết: Nguyễn Minh Không chữa bệnh cuồng loạn cho Lý Thần Tông, được
phong Quốc sư “Năm Tân Sửu, niên hiệu Thái Bình thứ 22, Minh Không tạ thế, thọ
76 tuổi”. Dương Không Lộ “có thể bay lên không, đi trên băng giá, bắt được hổ
phải phục, bắt được rồng phải giáng”, “Ngày 3 tháng 6 năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hội
Tường Đại Khánh thứ 10 thì chết” .
1.4.8. Tuy
nhiên, trong sách Tân đính Lĩnh Nam chích
quái, Vũ Quỳnh lại viết khác hẳn: Ở hồi
23 “Từ Đạo Hạnh kết bạn với một người tên là Nguyễn Chí Thành, người Đàm Xá,
phủ Trường Yên, trụ trì ở am quán Quốc Thanh (có khi gọi là Ngọc Thanh, nay
thuộc vùng Ngọc Hà trên đường Hoàng Hoa Thám, Hà Nội) lấy hiệu là Minh Không
thiền sư. Ông cho quân lính ăn cơm chay có phép “vơi đâu lại đầy đấy” và dùng
phép rút ngắn thời gian về Thăng Long chữa khỏi bệnh “khắp người mọc lông” của
vua Lý Thần Tông tháng 3 năm 1136, niên hiệu Thiên Chương Bảo Tự thứ 4.
Ở hồi 24, viết về
“Đầu đà họ Dương chính trực làm nên” kể rằng, Dương Không Lộ lúc đầu tu Phật có
tên là Dương Khổng Lồ, làm nghề đánh cá. Sau cùng một người bạn cùng làng là
Giác Hải đi tu ở chùa Hà Trạch. Không Lộ có tài “đúc chuông nặn tượng” nón
thành thuyền, lấy gậy làm chèo chở hàng trăm tạ đồng về đúc đồ thờ quý; được
gọi là “An Nam tứ khí”. Đó là:
Đỉnh Phổ Minh, tháp
Báo Thiên,
Chuông chùa Phả
lại, tượng chùa Quỳnh Lâm.
1.4.9. Lý Tế
Xuyên, trong Việt điện u linh thế kỷ XIV
Sách có truyện Sự
tích đại thánh Từ Đạo Hạnh viết về Minh Không rất vắn tắt: Đạo Hạnh làm bạn
với Minh Không và Giác Hải, ba người tìm đường sang nước Ấn Độ bên Tây Thiên
học đạo. Xong, về nước, Minh Không và Giác Hải về Giao Thủy, Đạo Hạnh về chùa
Thiên Phúc ở Sơn Tây. Năm Bính Thìn (1136), Lý Thần Tông bệnh nặng. Sứ giả
triều đình xuống Giao Thủy, Nam Định đón Minh Không và Giác Hải về kinh đô, chữa
khỏi bệnh hóa hổ cho vua.
Sách đã nhầm Minh Không khi viết quê ông ở Giao Thủy. Và,
là bạn với Từ Đạo Hạnh và Giác Hải.
1.5. Các công trình khảo cứu thế
kỷ XX
1.5.1. Cư sĩ Đinh Gia
Thuyết trong bài diễn thuyết tại chùa Sơn Thủy (Non Nước), thị xã Nỉnh Bình nói: “Đức Khổng Lồ họ Dương húy là
Minh Nghiêm, pháp hiệu Thông Huyền quê Hải Thanh, Giao Thủy, Xuân Trường, Nam
Định, sinh năm Bính Thìn (1009) hơn Minh Không 57 tuổi. (Ngài) làm nghề đánh cá
bến sông Đàm Khánh, cửa bể Thần Phù. Bây giờ chân núi Đàm Khánh thuộc huyện Yên
Mô còn có chỗ gọi là “Đó Khổng Lồ” tức di tích của ngài để lại. Năm 20 tuổi,
ngài bỏ nghề đánh cá đi tu thường tụng Đà-la-ni môn. Sư cụ Thảo Đường là thầy
dạy ngài… Ngài tu ở chùa Diên Phúc làng Hộ Xá, Giao Thủy, Nam Định nhưng thường
vân du các nơi danh lam cổ sắc như chùa Lạc Lâm Sơn Tây, Dương Nham Hải Dương,
Phả Lại Bắc Ninh, chùa Tường Đông và Lộng Khê Nam Định. Sau lập ngôi chùa
Nghiêm Quang ở làng Dũng Nhuệ, Giao Thủy, được vua ban 500 mẫu tự điền, phong
làm Phù Vân Quốc sư. Ngài mất năm Giáp Tuất (1092), niên hiệu Hội Phong thứ 1,
thọ 79 tuổi. Có tượng thờ ở chùa Viên Quang (Diên Phúc). Giác Hải, Đạo Hạnh là
bạn học. Từ Đạo Hạnh là anh cả, Không Lộ là anh thứ, Giác Hải là em thứ 3 và họ
rủ nhau đi Tây Trúc.
Bài viết kể về Nguyễn Minh Không 11 tuổi được Từ Đạo Hạnh đón
về nuôi dạy. Rồi ngài chữa khỏi bệnh cho vua Lý Thần Tông vào năm Canh Tuất
(1129) và cho rằng Nguyễn Minh Không là người đúc Tứ đại khí. Nguyễn Minh Không
mất ngày 1 tháng 8 năm Tân Dậu (Lý Anh Tông 1140) thọ 76 tuổi.
1.5.2. Thiều Chửu trong Lịch
sử chư tổ thờ tại chùa Quán Sứviết: Ngài họ Nguyễn, tên húy là Chí
Thành, sinh ngày 14 tháng 8 năm Bính Ngọ (1066), tại làng Điềm Xá (Điềm Giang),
phủ Trường Yên, Nam Định (nay là thôn Quốc Thanh, xã Gia Thắng, huyện Gia Viễn,
tỉnh Ninh Bình). Năm 11 tuổi, ngài từ biệt song thân, dốc lòng xuất gia tu
Phật. Sang Thiên Trúc học đạo với một vị Sa-môn, học được phép Lục trí thần thông, rồi về nước dựng
chùa Diên Phúc chuyên tâm làm yếu quyết tu hành trì chú Đại bi. Thiều Chửu kể các tình tiết như Minh Không sang Trung Hoa
xin đồng về nước đúc tứ đại khí; năm vua Lý Thần Tông 21 tuổi bị bệnh “hóa hổ”
triều đình phải vời ngài về kinh sư chữa khỏi bệnh cho nhà vua. Vua vô cùng cảm
kích, hậu tạ ngài 1.000 cân vàng và 1.000 mẫu ruộng để hương hỏa cho chùa, vĩnh
viễn không phải nộp thuế, lại phong làm Quốc sư. Minh Không viên tịch năm Tân
Dậu niên hiệu Đại Định thứ 2 (1141). Thiều Chửu nhận xét: “Thiền sư Minh Không
không những là một bậc cao tăng giỏi nghề thuốc, một nhà giáo mô phạm mà còn là
người tạo ra Đại Nam tứ đại khí, có
công khôi phục lại nghề đúc đồng của tổ tiên ta xưa. Bởi vậy chùa Quán Sứ có tượng thờ Thiền sư.
Ở đây, Thiều Chửu đã sai khi nói
“Thiền sư năm 11 tuổi từ biệt song thân xuất gia (trong khi Minh Không 10 tuổi
đã mồ côi cả cha lẫn mẹ) và tình tiết Minh Không sang Thiên Trúc học đạo.
1.5.3. Phạm Đức Duật và Bùi Duy Lan
trong tác phẩm Chùa Keo do Sở Văn hóa
thông tin tỉnh Thái Bình ấn hành năm 1985, đã căn cứ vào một số tài liệu và
sách Quốc sư bảo lục mà khẳng định:
+ Không Lộ là đạo hiệu của một nhà
sư có thật ở thời Lý.
+ Không Lộ và Minh Không là hai người khác nhau. Không Lộ ở
thế hệ trước, cùng với Giác Hải và Từ Đạo Hạnh. Còn Minh Không ở thế hệ sau và
là học trò của Từ Đạo Hạnh.
+ Nguyên nhân dẫn đến sự lầm lẫn giữa Không Lộ và Minh
Không vì sự tích hai nhà sư này, có những điểm tương tự như nhau:
a)
Cả hai người được nhà
Lý phong làm Quốc sư. Không Lộ chữa bệnh sợ tiếng tắc kè của Lý Nhân Tông
(1128-1138).
b)
Cả hai người được nhà
Lý phong làm Quốc sư.
c)
Minh Không cũng tu ở
chùa Diên Phúc (sau đổi là Viên Quang) nơi mà Không Lộ và Giác Hải, trước đã
từng tu.
Quan điểm của 2 tác giả trên đã giành được sự chú ý và
đồng tình của nhiều người trong lĩnh vực nghiên cứu.
1.5.4. Trần Quốc Thịnh trong sách Quần thể văn hóa Phả Lại Đại Phúc viết: Khi dân Phả Lại lập Minh
Không làm Thành hoàng làng tức sinh thời ngài hiển Thánh, nghĩa là Tiền Phật
hậu Thánh, ngài đã chuyển từ tu xuất gia sang tu tại gia”. Điều này chỉ giúp
sức cho việc lý giải việc Minh Không là nhà sư mà lại được dân lập là Thành
hoàng. Trên thực tế, Phật giáo Việt Nam cực thịnh ở thời Lý-Trần, rồi qua Lê,
Mạc, Nguyễn có Tam giáo đồng nguyên, thì hiện tượng trộn vào nhau đó, không
phải là cá biệt. Vả lại, việc thờ Thành hoàng làng ở Phả Lại còn dính đến dòng
họ Nguyễn Đại Phúc. Câu chuyện Nguyễn Minh Không được thờ làm Thành hoàng ở Phả
Lại nằm trong tín ngưỡng dân gian, nhằm tôn vinh một nhà sư nổi tiếng…
1.5.5. Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận
cho rằng: Thiền sư Minh Không thuộc thế hệ thứ 13 dòng thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi
(trang 139); Thiền sư Không Lộ thuộc thế hệ thứ 10 thiền phái Vô Ngôn Thông. Rõ
ràng là hai người khác nhau, nhưng ở trang 215 ông lại viết: Thiền sư Không Lộ
đã từng là bạn với các thiền sư Giác Hải và Đạo Hạnh, đã từng đi Ấn Độ, và đắc
“lục trí thần thông”. Ông họ Nguyễn, tên là Chí Thành, cũng có tên là Minh
Không, và được sắc phong là Quốc sư sau khi đã dùng pháp thuật chữa lành bệnh
cho vua Lý Thần Tông…
Tục truyền Không Lộ đã có công trong sự tạo thành bốn
tác phẩm nghệ thuật lớn thời Lý gọi là Tứ
đại khí: tháp chùa Báo Thiên, tượng Phật A Di Đà chùa Quỳnh Lâm, đỉnh
chuông (?) Phổ Minh và chuông chùa Phả Lại….
Thiền sư Không Lộ mất vào năm 1141, hiện còn được thờ ở
đền Lý Quốc Sư, huyện Thọ Xương, Hà Nội.
1.5.6. Lê Mạnh Thát
trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập
III, chương V tựa đề Từ Đạo Hạnh và vua Lý Thần Tông có mục Quốc sư Minh Không
dài 20 trang và cả chương VI nói về Dương Không Lộ và Giác Hải.
Lê Mạnh Thát cho rằng Minh Không là học trò Từ Đạo Hạnh,
giỏi nghề thuốc chữa khỏi bệnh cho vua Lý Thần Tông và được phong Quốc sư. Ông
mất tại núi Tam Viên xã Hán Lý, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương vào tháng 8 năm Tân
Dậu, Đại Định thứ 2 (1141). Xã Hán Lý này là quê mẹ Minh Không, nên có dựng
chùa Hưng Long ở đó.
Ở chương VI, Lê Mạnh
Thát khẳng định Không Lộ họ Dương quê ở Hải Thanh, Nam Định dòng dõi làm nghề
chài. Sau bỏ nghề chài hướng theo Phật trì tụng Đà-la-ni môn. Khoảng từ
1059-1065 cùng đạo hữu là Giác Hải vân du đến chùa Hà Trạch nương thân. Sư
thuộc thế hệ thứ 9 dòng thiền Vô Ngôn Thông và thế hệ thứ 2 thiền phái Thảo
Đường. Sau sư về quê dựng chùa. Mất ngày mồng 3 tháng 6 năm Kỷ Hợi Hội Tường
Đại Khánh thứ 10 (1119). Theo Lê Mạnh Thát, Không Lộ là vị thiền sư có nhiều
phẩm chất phi thường: “bay lên không, đi
trên nước, làm cọp nép, kêu rồng xuống, muôn quái nghìn kỳ người không lường
nổi”. Ông là nhà luyện kim đúc đồng (đúc chuông chùa Phả Lại) và một nhà
thơ nổi tiếng với bài kệ Ngôn hoài.
Cũng trong cuốn sách này, Lê Mạnh Thát cho biết: Khi đưa
TUTA làm quyển thượng của bộ Đại Nam
thiền uyển truyền đăng tập lục tờ 20a6-22b1, (Phúc Điền) An Thiền (1858)
mới đưa truyền thuyết này (tức truyện Không
Lộ và Giác Hải của Lê Thực (Lê Tắc) trong An Nam chí lược vào thế cho truyện Không Lộ của TUTA. Nó không những kết hợp Không Lộ với
Giác Hải, mà còn cả với Từ Đạo Hạnh và Minh Không, cho Không Lộ có tên là
Nguyễn Chí Thành, mà theo TUTA thì đó
là tên họ ngoài đời của thiền sư Minh Không… Rõ ràng là một hỗn hợp khá lộn xộn
việc làm của ba người khác nhau vào một. Đó là chuyện đi xin đồng của Không Lộ
theo truyền thuyết, mà đã nổi tiếng từ thế kỷ XIV, như An Nam chí lược15 tờ 147 đã ghi lại trên, với chuyện Giác Hải cùng
Thông Huyền làm rơi hai con ễnh ương và chuyện chữa bệnh vua Lý Thần Tông của
Minh Không.
1.5.7. Hòa thượng Thích Thanh Từ, trong sách Thiền sư Việt Nam, cho rằng Minh Không (1076-1141,
đời thứ 13, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi) và Không Lộ (?-1119) là hai thiền sư khác
nhau ở thời Lý. Sách viết: Sư (Minh Không) tên
Nguyễn Chí Thành, sinh ngày 14
tháng 8 năm Bính Thìn (1076) tại làng Loại Trì, huyện Chân Định, tỉnh
Nam Định, thường cùng với Giác Hải, Đạo Hạnh làm bạn thân. Năm 29 tuổi, Sư cùng
hai vị ấy sang Thiên Trúc học đạo với thầy Sa-môn, được phép Lục trí thần. Trở
về quê, Sư tạo ngôi chùa Diên Phước, ở đó chuyên trì chú Đại bi. Sư là người sang Trung Quốc xin đồng: “Về nước, Sư đến chùa
Quỳnh Lâm huyện Đông Triều tỉnh Hải Dương đúc một tượng Phật A Di Đà thật cao
lớn. Tại kinh đô nơi tháp Báo Thiên, Sư đúc một cái đỉnh. Ở Phả Lại, sư đúc một
quả đại hồng chung. Tại Minh Đảnh, Sư đúc một cái vạc. Phần còn dư, Sư đem về quê
chùa làng đúc một đại hồng chung nặng 3.300 cân, và đúc một đại hồng chung ở
chùa Diên Phước Giao Thủy nặng 3.000 cân. Sư và Giác Hải trừ bỏ hai con chim
cáp đậu kêu to tiếng vang như sấm ở mái điện Hưng Long làm vua Lý Nhân Tông lo
buồn chẳng vui.
Năm vua Lý Thần Tông 21 tuổi, bị bệnh hóa cọp, Sư chữa
khỏi bệnh cho vua.
Ở đây, sách viết sai về quê hương của thiền sư Minh Không. Sách cho rằng Minh
Không là bạn với Từ Đạo Hạnh và Giác Hải từng sang Tây Trúc học đạo; đưa tình
tiết Minh Không và Giác Hải vào điện Hưng Long loại trừ hai con ễnh ương cho
vua Lý Nhân Tông (1072-1127). Hòa thượng cho rằng Minh Không là người tạo Tứ đại khí.
1.5.8. Nguyễn Bá Lăng trong cuốn
Kiến trúc Phật giáo Việt Nam cho rằng
hai vị thiền sư Minh Không và Không Lộ là một. Ông viết: “Chùa Keo tên chữ là
Thần Quang tự… là cảnh chùa do thiền sư Nguyễn Minh Không tức Không Lộ lập ra
từ khoảng đầu thế kỷ XII”.
1.5.9. Tháng 6 năm 1975, Sở Văn hoá và Thông tin Thái Bình xuất
bản cuốn Chùa Keo của Đỗ Văn Ninh và Trịnh Cao Tưởng. Hai
ông cho rằng “Thiền sư Không Lộ có thể là nhân vật lịch sử. Việc phân
biệt Không Lộ, Minh Không là một hay hai người khác nhau thì các tác giả này
chưa thể quyết đoán được. “Có thể coi thiền sư Không Lộ là một nhân vật có thật
trong lịch sử? Nhưng lòng ngưỡng mộ vị thiền sư của nhân dân khi khoa học chưa
phát triển, khi tôn giáo hãy còn là lẽ sống hàng ngày, đã thêu dệt cho sự tích
những điều thần bí thì sự tích trở thành truyền thuyết. Đời truyền đời về sau,
sự tích Không Lộ trở thành một Phật thoại ly kỳ. Cái cốt lõi lịch sử chỉ còn là
đôi nét ẩn sâu trong cái vỏ hoang đường nhưng vô cùng lý thú. Chuyện về vị Quốc
sư triều Lý có thể đúng sai khó bề khảo đính”.
1.6.
Ý kiến của các nhà nghiên cứu gần đây
1.6.1. PGS.Tiến
sĩ Trương Sĩ Hùng, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á trong bài Không Lộ-Minh Không thiền sư thời Lý viết: “Dương Không Lộ - Nguyễn
Minh Không là hai hay một con người cụ thể, thì vai trò các ông đối với nhân
dân trong đời sống tâm linh nhuốm màu Phật giáo đã trở thành biểu tượng đậm
nét” Ông cho rằng: “Rất nhiều bài vở, bia ký ghi chép về hành trạng, công tích…
nhưng rồi mỗi tác giả lại đặt ra một nghi vấn có lý”. Theo ông: Dương Không Lộ
trong lịch sử nghiên cứu Phật giáo và văn hóa Việt Nam, cho đến nay vẫn còn hai
giả thiết. Song, dù muốn hay không, khi đề cập đến xã hội Đại Việt thời Lý,
nhất định không thể bỏ qua hiện tượng này. Về thiền sư Minh Không, Trương Sĩ
Hùng cho biết: “Gần đây, theo tư liệu sưu tầm của ông Lê Xuân Quang thì: ‘Nguyễn
Minh Không có đền thờ ở núi Dương Sơn giữa ngã ba sông Kỳ, thôn Lạc Khoái, xã
Gia Lạc (nay thuộc huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình). Sư quê ở làng Điềm Xá (cùng
huyện). Câu đối:
Điềm Xá chung linh sinh Nguyễn Thánh
Hoa Lư dục tú xuất Đinh hoàng
Tạm dịch:
Làng Điềm Xá anh linh sinh Nguyễn
Thánh
Đất Hoa Lư khí tốt hiện Đinh vương.
Tiến sĩ họ Trương viết: Với ông,
Nguyễn Minh Không là hiện thân quyền lực linh thiêng của Phật giáo hưng thịnh
thời Lý, là thầy thuốc tài ba bậc nhất, là ngư dân gắn bó với thôn dã Đại Việt,
là thiền sư tài cao đức trọng, là bậc thánh, bậc tổ nghề đúc đồng Việt Nam.
Trương Sĩ Hùng cho rằng, Nguyễn Minh Không, Dương Không Lộ, Dương Minh Nguyên… chỉ
là tính danh, một con ngườì với những địa danh kinh lịch của chính nhân vật
lịch sử văn hóa.
1.6.2. Thạc sĩ Phạm Thị Thu Hương -
Phụ trách Khoa Bảo tồn bảo tàng, Trường Đại học Văn hóa, Hà Nội trong bài Về các lớp văn hóa trong sự tích thánh Dương
Không Lộ cho rằng: “Có thể coi Dương Không Lộ là một mô-típ độc đáo trong
nền văn hóa của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước ở đồng bằng Bắc Bộ nói chung
và vùng Keo nói riêng. Không Lộ vốn là một nhân vật được xây dựng từ những mảnh
vụn huyền thoại, được lịch sử hóa để trở thành một ông Không Lộ - có yếu tố của
một anh hùng văn hóa… Khi Phật giáo vào Việt Nam, một lần nữa mô-típ huyền
thoại đó lại được chịu ảnh hưởng của lớp văn hóa Phật giáo, để người anh hùng
Không Lộ trở thành thiền sư Không Lộ - một nhà sư có phép thuật luôn giúp dân
giúp nước”. Bài báo viết: “Thiền sư Dương Không Lộ… vốn có lẽ không có thật trở
thành một thiền sư thuộc thế hệ thứ 9 của dòng thiền Vô Ngôn Thông với tiểu sử
hành trạng rõ ràng và được nhân dân tôn vinh trở thành một vị Thánh được thờ
phụng ở nhiều nơi, có vai trò, vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của
người dân vùng Thái Bình, Nam Định, cho đến tận ngày nay”.
1.6.3. Sách Chùa Việt Nam tiêu biểu, do
Đỗ Hoài Tuyên chủ biên năm 2011 viết:
“Chùa Keo (Thái Bình) ngoài thờ
Phật còn thờ Không Lộ thiền sư, người đã khai sáng ngôi chùa Keo gốc (Nghiêm
Quang tự). Theo cuốn “Trùng san Thần Quang tự Phật Tổ bản hành thiền uyển ngữ
lục tập yếu” thì: Thiền sư người ở Hải Thanh, Giao Thủy, Nam Định. Xuất thân từ
nghề chài lưới nhưng rất giỏi văn chương và mộ đạo Phật từ rất sớm. Thiền sư
kết giao cùng 2 Thiền sư là Từ Đạo Hạnh và Giác Hải. Ông là một thiền sư lớn
của triều, đồng thời là một danh y tài giỏi xuất chúng. Ông đã chữa khỏi bệnh
hóa hổ cho vua Lý Thần Tông. Thiền sư cũng là người sáng tạo nghề đúc đồng (ông
Tổ nghề đúc đồng”. Rõ ràng, nếu là Không
Lộ thiền sư, ngài viên tịch năm 1119 thì không thể là người chữa khỏi bệnh cho
vua Lý Thần Tông năm 1136.
Đáng tiếc, ở mục chùa Phổ Minh cuốn
sách đã sai khi viết: Chùa Phổ Minh nổi tiếng khắp Đại Việt hàng ngàn năm với
Vạc Phổ Minh một trong “An Nam tứ đại kim khí”, do Thiền sư Nguyễn Minh Không
và Từ Đạo Hạnh xây dựng, vạc nặng 13 tấn (nay không còn).
II. Giải mã về Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không
Như vậy, câu chuyện về Không Lộ - Minh Không đã kéo dài
ngót 1.000 năm trong sương mờ lịch sử, cho đến thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI,
công cuộc tìm hiểu về hiện tượng văn hóa này vẫn được tiếp tục. Tuy nhiên, qua
khảo sát các nguồn thông tin nói trên nói trên gồm 6 tài liệu chép tay, 3 bia
ký, 5 truyền thuyết dân gian, 9 thư tịch cổ, 9 công trình nghiên cứu ở thế kỷ
XX và 3 nghiên cứu ở đầu thế kỷ XXI, bằng phương pháp so sánh loại trừ các
nguồn tư liệu, tài liệu khác và đi điền dã những nơi thờ hai vị, căn bản dựa
vào các cuốn chính sử, chúng tôi lần lượt giải mã các vấn đề sau:
2.1. Dương Không
Lộ là nhân vật có thật trong lịch sử Việt Nam
Ngài họ Dương húy Minh Nghiêm, sinh năm
1016, quê Hải Thanh, Giao Thủy, Nam Định. Đời ông cha làm nghề đánh cá. Sau,
ngài bỏ nghề ấy đi tu, chuyên chú tu trì pháp môn Đà-la-ni. Khoảng niên hiệu
Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065) đời Lý Thánh Tông, sư cùng Giác Hải đi vân
du cõi ngoài, dấu kín tung tích, đến chùa Hà Trạch… một lòng chuyên chú tu tập
thiền định. Sư đắc “lục trí thần thông” có thể “bay trên không, đi dưới nước,
hàng long phục hổ”. Có thể Không Lộ (cùng Giác Hải) sang Trung Quốc xin đồng về
đúc chuông chùa Phả Lại. Không Lộ và Giác Hải từng lên kinh thành chữa bệnh cho
vua Lý Nhân Tông khỏi sợ tiếng kêu của hai con tắc kè. Cuối đời, sư về bản quán
dựng chùa Nghiêm Quang (sau đổi tên là Thần Quang) trụ trì. Sư thị tịch năm Hội
Phong thứ 2 (1094). Vua
Lý Nhân Tông (1072 – 1127) cho sửa sang mở rộng chùa Nghiêm Quang, miễn tô thuế
cho 20 hộ để đèn hương phụng thờ. Năm 1167 chùa Nghiêm Quang đổi tên là Thần
Quang.
Dương Không Lộ là thế hệ thứ 9 dòng thiền Vô Ngôn Thông.
Ngài cũng là thế hệ thứ 2 thiền phái Thảo Đường (cùng thiền sư Giác Hải là nối
pháp tự của cư sĩ Ngộ Xá ở hương Bảo Tài, huyện Long Chương. Ngộ Xá cùng Lý
Thánh Tông hoàng đế và thiền sư Bát Nhã là ba vị đều nối pháp của thiền sư Thảo
Đường).
Không có chuyện sư cùng Từ Đạo Hạnh
và Giác Hải đi Tây Trúc học đạo, cũng không có chuyện Không Lộ chữa bệnh cho
vua Lý Thần Tông và được ban hiệu Quốc sư.
2.2. Thiền sư
Minh Không
Ngài họ Nguyễn, tên là Chí Thành, sinh ngày 14 tháng 8
năm Bính Ngọ (1066), quê xã Điềm Xá, phủ Trường Yên (nay thuộc thôn Quốc Thanh,
xã Gia Thắng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình).
Năm 11 tuổi, ngài từ biệt song thân dốc lòng xuất gia tu
Phật, cầu đạo với thiền sư Từ Đạo Hạnh được thầy khen tài giỏi thông minh và ấn
chứng sau sẽ trở thành bậc “Pháp khí” trong Thiền môn, ban pháp danh Minh Không,
thế hệ thứ 13 dòng thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi.
Không chỉ là bậc Đại sư thông tuệ Phật pháp, được giới Tăng-già
ngưỡng vọng, danh tiếng ngài còn vang xa và được nhà vua kính trọng; tháng 5
năm Tân Hợi (1131) (Tống Thiệu Hưng năm thứ 1) đích thân vua Lý Thần Tông sai
dựng nhà cho ngài. Minh Không là người chữa khỏi bệnh “hóa hổ” của vua Lý Thần
Tông năm Bính Thìn (1136), được vua ban thưởng hậu và phong làm Quốc sư. Tha
phú dịch cho vài trăm hộ.
Mùa thu tháng 8 năm Tân Dậu, niên hiệu Đại Định thứ 2
(1141) (Tống Thiệu Hưng năm thứ 11), Minh Không viên tịch tại núi Tam Viên xã
Hán Lý, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương nơi quê mẹ ngài .
Như vậy, Dương Không Lộ và Nguyễn
Minh Không là hai nhân vật có thật trong lịch sử thời Lý. Không Lộ thuộc thế hệ
trước Minh Không. Họ là hai người khác nhau về tên họ, tuổi tác, quê quán và
hành trạng cũng như ngày mất.
2.3. Ai là người chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông
Thiền sư Nguyễn Minh Không là
người chữa khỏi bệnh cho vua Lý Thần Tông năm 1136. Ghi nhớ công ơn ngài, vua
Lý Anh Tông (1138-1175) và nhân dân đã lập đền thờ ngài tại đền Tiên Thị
(nguyên là ngôi nhà vua Thần Tông ban cho ngài khi lên kinh đô chữa bệnh cho
vua). Trải qua gần 9 thế kỷ, nhân dân vẫn hương khói phụng thờ, cầu đảo linh
ứng.
Năm 1930, Hòa thượng Thanh Định tự Quang Huy đến trụ trì
đã tôn trí thêm tượng Phật, Bồ-tát và đổi đền thành chùa Lý Triều Quốc Sư, nay
thuộc phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, thủ đô Hà Nội).
2.4. Ai là người có công xây dựng chùa Thần Quang
Theo sách “Không Lộ Thiền sư ký ngữ lục” thì: Năm 1061 thiền sư Không Lộ về
dựng chùa Nghiêm Quang tại quê nhà tại làng Giao Thủy (tên Nôm là làng Keo) ở
hữu ngạn sông Hồng thuộc địa bàn tỉnh Nam Định. Năm 1167 đổi tên là Thần Quang
tự. Đến năm 1611, trong một trận đại hồng thủy nước sông dâng cao ngập hết cả
làng làm xói mòn bờ đê, đã cuốn trôi làng mạc, nhà cửa và cả ngôi chùa Nghiêm
Quang. Khi nước rút, một bộ phận người dân di dời đi nơi khác lập làng mới là
làng Hành Cung (sau đổi là Hành Thiện) rồi xây một ngôi chùa mới là chùa Keo
Hành Thiện (chùa Keo Dưới), nay thuộc xã Xuân Hồng, huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam
Định. Một bộ phận dân cư khác di dời sang khu vực tả ngạn sông Hồng, lập làng
Dũng Nhuệ, (nay thuộc xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư) tỉnh Thái Bình. Từ 1630-1632,
bà Lại Thị Ngọc Lễ (vợ viên hoạn quan nổi tiếng lúc bấy giờ là Hoàng Nhân Dũng)
đứng đầu việc vận động quyên góp tiền của để dựng một ngôi chùa Keo mới đặt tên
là Thần Quang tự (chùa Keo Trên).
Như vậy, người có công xây dựng
chùa Nghiêm Quang là thiền sư Dương Không Lộ, tới năm 1167 đổi tên là chùa Thần
Quang (ta gọi là chùa Thần Quang gốc). Chùa Keo Dưới hay chùa Keo Hành Thiện
mãi sang thế kỷ XVII mới được dựng.
Người có công xây dựng chùa Thần
Quang (còn gọi là chùa Keo Trên) ở huyện Vũ Thư, Thái Bình năm 1630-1632 là bà
Lại Thị Ngọc Lễ.
2.5. Ai là người làm “An Nam tứ đại khí”
Để xác định điều này, trước
tiên chúng ta cần tìm hiểu Thiên Nam Tứ đại khi hay An Nam Tứ đại khí gồm những
gì, niên đại tạo tác và năm bị phá hủy, từ đó đối chiếu với hành trạng của
Không Lộ hoặc Minh Không để xác định ai là tác giả của “đại khí”.
2.5.1.
Tượng Phật ở chùa Quỳnh Lâm
(Đệ nhất Tứ đại khí)
Trước
tiên phải khẳng định đây là tượng Phật Di Lặc mà nhiều sách cho rằng Nguyễn
Minh Không là người đúc tượng này. Tượng cao tới 6 trượng xấp xỉ 20m. Chính vì
chiều cao, độ lớn của tượng và điện chứa tượng nên tục truyền rằng, đứng phía
Nam huyện Ðông Triều, cách chùa Quỳnh Lâm ước chừng 10 dặm, vẫn còn thấy nóc
điện che sát đầu pho tượng. Trong dân gian còn lưu truyền câu ca:
Nức tiếng Quỳnh
Lâm cõi xứ Ðông
(....) Tháp cao
chín đợt màu mây ám
Chùa rộng trăm gian gác ngựa hồng
Trước điện thông
reo cùng trúc hóa
Trong am khánh đá
với chuông đồng...
Chắc hẳn trong câu ca này hàm ý đến tòa điện đặt pho
tượng khổng lồ trên.
Sau đó
không rõ tượng mất khi nào, có thể tượng bị quân Minh phá hủy để đúc súng đạn
cùng với ba đại khí khác năm 1426-1427.
Ý kiến
khác cho rằng, tượng bị mất từ khi quân Nguyên Mông sang xâm chiếm nước ta vào
thế kỷ XIII, bởi vì sau đó Đệ nhị tổ Trúc Lâm Pháp Loa cho đúc một pho tượng Di Lặc cao 1 trượng 6 thước
(4,28m) vào năm 1327, đặt tại chùa Quỳnh Lâm.
Sách Đại Nam Nhất thống chí quyển XVII, Tỉnh
Hải Dương viết: Chùa Quỳnh Lâm trong núi Quỳnh Lâm, xã Hà Lôi, huyện Đông
Triều, do thiền sư đời Lý là Nguyễn Minh Không lập, đúc tượng đồng để trong
chùa (tượng này là một trong Tứ khí của An Nam).
Vậy, thiền
sư Nguyễn Minh Không là người tạo tượng Phật Di Lặc – đệ tam Tứ đại khí ở chùa
Quỳnh Lâm.
2.5.2.
Đỉnh tháp Báo Thiên (Đệ nhị Tứ
đại khí)
Tháng
giêng năm Đinh Dậu (1057), vua Lý Thánh Tông (1054-1072) cho xây tháp Đại Thắng
Tư Thiên trong khuôn viên chùa Sùng Khánh Báo Thiên tại thôn Tiên Thị, phường
Báo Thiên, kinh thành Thăng Long nên thường gọi là tháp Báo Thiên. Tháp cao mấy
chục trượng gồm 12 tầng. Đỉnh (hay chóp tháp, chỏm tháp, có thể coi là tầng thứ
13) đúc toàn bằng đồng. Đối chiếu về thời gian thì lúc đó Nguyễn Minh Không chưa
ra đời (ngài sinh năm 1066), nên người làm Đệ nhị Tứ đại khí này là Dương Không
Lộ, phù hợp với nhiều ý kiến cho rằng: “Tương truyền do thiền sư Dương Không Lộ
vẽ kiểu và trông coi việc đúc”.
2.5.3.
Chuông Quy Điền (Đại khí thứ ba)
Chuông Quy Điền được đúc trong
lần sửa lại chùa Diên Hựu (Một Cột) ở khinh thành Thăng Long vào tháng 2 năm
Canh Thân (1080) đời Lý Nhân Tông. Để đúc quả chuông này, vua Lý Nhân Tông đã
cho sử dụng đến 12 ngàn cân đồng (tương đương với 7,3 tấn) đồng. Chuông đúc
xong, đánh không kêu, nhưng cho là đã thành khí, không nên tiêu hủy, nhà vua bèn sai người vần ra khu
ruộng sau chùa. Vì khu ruộng này thấp trũng, có nhiều rùa đến ở, nên có tên là
Quy Điền (Ruộng Rùa), nhân đó gọi là chuông Quy Điền.
Tháng 10 năm Bính Ngọ (1426),
chuông Quy Điền bị Tổng binh Vương Thông (nhà Minh) cho phá hủy để chế súng đạn.
Năm 1080, thiền sư Minh Không
mới 14 tuổi, chưa thể làm được việc này, vậy người tạo chuông Quy Điền – đệ tam
tứ đại khí là thiền sư Dương Không Lộ.
2.5.4. Vạc chùa Phổ Minh (Đệ tứ Tứ đại khí)
Theo bài minh trên bia
chùa Phổ Minh thì chùa ở xã Tức Mạc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định nay là phường Vương
Lộc, ngoại thành Nam Định. Chùa còn có tên là chùa Tháp, được xây dựng từ thời
Lý. Xưa, chùa có chiếc vạc (còn gọi là đỉnh, lư hương)
bằng đồng.
Tương truyền, miệng vạc dày
và rộng đến nỗi hai người có thể chạy nhảy và đi lại trên đó. Phía ngoài vạc có
hình rồng quấn xung quanh và hình chim đang bay, tượng trưng cho “con Lạc cháu
Hồng”. Đầu vạc chim ngẩng lên hướng vào lòng vạc, trên thành khuyết 100 lỗ hình
quả trứng, trong mỗi lỗ đặt một tượng rồng vàng (ngụ ý để thu linh khí của “bọc
trứng trăm con” của Âu Cơ và Lạc Long Quân. Trên vạc có khắc tên các vị vua từ
Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân… cho đến Lý Thánh Tông với ý đồ nhờ vào hồng
đức của các bậc tiên đế phù giúp cho “quốc thái dân an”.
Vạc chỉ ghi đến đời Lý
Thánh Tông đã giúp chúng ta khẳng định, vạc chùa Phổ Minh được đúc vào thời Lý
Thánh Tông (1054-1072), người đúc là thiền sư Dương Không Lộ (1016-1094). Vì
lúc đó, thiền sư Minh Không mới 5-6 tuổi.
Giặc Minh đã phá đỉnh để đúc súng đạn năm 1426.
Như vậy trong Thiên Nam Tứ đại khí thì thiền sư Dương Không
Lộ tạo tác 3 đại khí, thiền sư Nguyễn Minh Không tạo đại khí thứ tư là tượng
Phật Di Lặc ở chùa Quỳnh Lâm.
2.6. Ai là Tổ nghề đúc đồng
Tổ tiên ta đã biết đúc trống đồng Đông Sơn trước Không Lộ và
Minh Không hàng ngàn năm. Khi làm chùa Sùng Khánh Báo Thiên, vua Lý Thánh Tông
đã cấp 1 vạn 2 nghìn cân đồng cho thợ đúc chuông đồng treo ở chùa, vì vậy có
thể gọi Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không là những người tiếp tục phát triển
nghề đúc đồng nước ta lên mức cao hơn và tinh xảo hơn.
Với việc tạo 3 trong 4 Tứ đại khí của Đại Việt, có thể gọi
thiền sư Dương Không Lộ là nhà luyện kim đồng lớn nhất nước ta trong thời Lý.
Thay lời kết
Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không vốn là hai nhà sư nổi
tiếng trong lịch sử Việt Nam mà nhiều sử sách có nhắc tới. Song, do hoàn cảnh,
thời đại, tên tuổi, truyền thuyết… về hai nhà sư này còn có nhiều điểm gần
giống nhau, và hơn nữa do sự sao chép nhầm lẫn trong một số cuốn sách Hán Nôm,
khiến cho một số nhà nghiên cứu bấy lâu nay có bị nhầm lẫn, lẫn lộn.
Chúng tôi đã giải mã những tồn nghi về hai thiền sư nổi tiếng
thời Lý là Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không. Do tài liệu còn thiếu, trình độ
lại hạn hẹp, chúng tôi rất mong nhận được sự chỉ giáo của quý vị bạn đọc xa gần
để vấn đề được sáng tỏ và chính xác hơn.
Nguyễn Đại Đồng
Tài liệu tham khảo
Dẫn
theo bài của Phạm Đức Duật đăng trên tạp chí Nghiên cứu Hán Nôm sô 1+2 ra năm
1984. Trong bài Thăm
chùa Keo của Trần Huy Bá và Trương Chính đăng trên Tạp chí Văn
hóa Nghệ thuật số 9 năm 1971, đoạn nói về một số tài liệu nhà chùa
còn giữ được, hai tác giả đã giới thiệu ba cuốn sách chép tay: Không
Lộ thiền sư ký ngữ lục, Thánh tổ thực lục diễn ca và Địa bạ chùa
Keo. Trừ sách Địa bạ liệt kê những người cúng ruộng vào
chùa, chúng tôi thấy cần chú ý hai cuốn sách còn lại.
Về sách Không Lộ thiền sư ký ngữ lục. Các tác
giả lược thuật rằng: vị thiền sư này người Hải Thanh, họ Dương, pháp hiệu là
Minh Không, làm nghề đánh cá, sau bỏ nghề đi tu, đắc đạo, có pháp thuật, có thể
bay trên không, đi trên mặt nước, bắt long hổ phải quy phục, v.v… Đời Lý Thái
Tông, năm Minh Đạo thứ nhất (1041), giúp nhà vua đánh được Chiêm Thành. Năm Bính
Thìn (1136), đời Lý Nhân Tông, nhà vua bị bệnh hổ hoá. Lương y khắp nước chữa
không khỏi. Sau cho sứ giả đến chùa nhà sư về cúng. Cuối cùng nhà sư chữa khỏi
bệnh cho nhà vua. Nhà vua sắc phong Đại Pháp, kiêm Quốc sư, ban ruộng hàng vạn
khoảnh. Sự tích ngày 3 tháng 6 năm Kỷ hợi. Chính vị thiền sư này được Lý Anh
Tông (1138 - 1175) cho lập đền thờ ở Thăng Long, gọi là đền Lý Quốc Sư.
Về sách Thánh tổ thực lục diễn ca. Các tác
giả bài báo lược thuật rằng: “Sách này nói Không Lộ họ Nguyễn, người làng Đàm Xá,
huyện Gia Viễn, phủ An Khánh, tỉnh Ninh Bình. Tiểu sử có nhiều chỗ hoang đường,
chúng tôi lược bớt. Phần lớn giống như Vũ Quỳnh kể trong Lĩnh Nam trích quái, kể cả chuyện đi sang Trung Quốc được vua Trung
Quốc cho đồng, bỏ tất cả mấy kho đồng vào một cái túi nhỏ, thả nón xuống sông
làm thuyền đi về Nam Hải. Cũng vì vậy, Minh Không còn được coi là ông tổ nghề
đúc ở nước ta, thờ ở đình Ngũ Xá và chùa tổ ông ở phố Lò Đúc”.
Tuy nhiên trong bài Phổ Minh tự ký của một tác giả đời sau chép phụ ở cuốn sách Ức
Trai thi tập của Nguyễn Trái thời Lê Thái Tông (1433-1442) thì chiếc vạc
này được đúc vào thời Trần Nhân Tông (1279-1293): vạc sâu 4 thước, rộng 10
thước, nặng 6.150 cân.