Vài suynghĩ về khái niệm giải thoát sanh tử trong đạo Phật
vai suy nghi ve khai niem
Khi đọc lịch sử Đức Phật, có lẽ độc giả đều nhận ra
lý do Thái tử Tất-đạt-đa (Sidhartha) quyết chí xuất gia tìm đạo. Đó là tìm con
đường giải thoát. Khái niệm giải thoát được sử dụng phổ biến trong Phật giáo và
hầu như người học Phật nào cũng trả lời tu tập là để giải thoát. Tuy nhiên, giải
thoát cái gì mới là vấn đề cốt yếu.Trong Phật giáo, khái niệm giải thoát sanh tử
thường được sử dụng để nói về mục đích cuối cùng của người tu tập Phật pháp. Bài
viết sẽ bànvề khái niệm giải thoát sanh tử trong đạo Phật.
Giải thoát sanh tử là gì?
Trước hết, khái niệm giải thoát cần được giải thích. Theo
các từ điển Phật học, giải thoát (Sanskrit: morsha, mukti) là cởi bỏ được sự trói buộc của phiền
não mà vượt thoát khỏi thế giới mê muội khổ đau; là ra khỏi sự trói buộc
trong ba cõi dục, sắc, vô sắc; là dứt tuyệt nguyên nhân sinh tử luân hồi nghiệp
báo; là không bị những luyến ái trói buộc cái tâm; là đạt được sự siêu thoát vượt
sự trói buộc của thế giới trần tục, khỏi sự chi phối của dục vọng, sống hoàn
toàn thanh thoát tự tại; là thoát
khỏi ảo tưởng và khổ, thoát khỏi sự tái sinh trong luân hồi và đạt Niết-bàn. Tóm
lại, giải thoát là tâm không bị ràng buộc bởi các phiền não và các duyên trần
khác và đạt Niết-bàn.
Hòa
thượng Thích Thiện Siêu trình bày giải thoát bao gồm giải thoát hoàn cảnh, giải
thoát tâm và giải thoát hoàn toàn. Giải thoát hoàn cảnh gồm cải tạo hoàn cảnhvật chất
cho thật hết sứctốt đẹp và không chú trọng đến hoàn cảnh bên ngoài để không bị ràng buộc. Giải thoát
tâm tức giải thoát tất cả phiền não ràng buộc
làm cho con người đau khổ. Giải thoát hoàn toàn làkhông
còn bị thời gian và không
gianhạn chế, không còn bị tâm lý sinh lý
tầm thường chi phối. Trí tuệ thấy rõ các pháp bất
nhị nên không bị ràng buộc khi ở thế gian và cũng không phải tìm cách ra khỏi
ba cõi.Như
vậy, giải thoát là tâm không bị ràng buộc bởi hoàn cảnh, các phiền não, và ngay
cả ý niệm bỉ-thử, sanh tử-Niết bàn.
Theo Tiểu kinh đoạn
tận ái (Culatanhasankhayasutta) thuộc kinh Trung bộ (Majjhima Nikaya), một vị được gọi là giác ngộ giải thoát
khi vị ấy “sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn
diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ, không chấp trước một vật gì ở đời,
không phiền não, vị ấy chứng đạt Niết-bàn.” Vị ấy biết rõ rằng: “Sanh đã tận,
phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa.” Giải
thoát, theo kinh văn, là ly tham, không chấp trước, chứng Niết-bàn.
Thế thì, giải thoát cũng được hiểu là Niết-bàn, cũng
đồng nghĩa với vô ngã. Niết-bàn
nghĩa là dập tắt hết các phiền não dục vọng làm con người bất an khổ não. Vô
ngã là không còn chấp vào cái tôi sinh ra tham, sân, si…Niết-bàn có thể xúc chạm
được, có thể chứng nghiệm ngay hiện tại chứ không phải đợi đến sau khi chết. Vì
vậy, giải thoát là sự chuyển hóa những phiền não, xa lìa ngã chấp, thấy rõ thực
tại của vạn pháp nên tâm tự tại.
Từ những giải thích về khái niệm giải thoát ở trên,
có thể rút ra một đặc điểm chung của giải thoát là không bị phiền não khổ đau
và đạt Niết-bàn. Về khổ đau và sự chấm dứt khổ đau hay đạt Niết-bàn, kinh Chuyển pháp luân(Dhammacakkappavattana
sutta) thuộc kinh Tương ưng ghi như
sau: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não
là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại,
năm thủ uẩn là khổ. Sự chấm dứt khổ là ly tham, đoạn diệt ái, không có dư tàn
khát ái ấy; là quăng bỏ, từ bỏ, giải thoát, không có chấp trước. Bài kinh kết
luận, tham ái và tâm chấp trước là nguyên nhân của khổ đau. Từ đó, giải thoát được
hiểu là ly tham ái, đoạn tận tham ái, tâm không còn chấp trước.
Căn cứ vào ý nghĩa của khái niệm giải thoát thì giải thoát sanh tử là sự
cụ thể hóa của khái niệm giải thoát. Nói cách khác, khái niệm giải thoát sanh tử
là nhấn mạnh đến mục đích của sự tu tập là nhằm đoạn tận ái dục, chấm dứt con
đường sanh tử theo nghiệp báo thiện ác.
Trong chương Một pháp, kinhPhật thuyết
như vậy(Như thị ngữ/Itivuttaka) thuộc Tiểubộ
(Khuddaka Nikaya), Đức Phật dạy có một pháp đưa đến không còn tái sanh. Đó là hãy
từ bỏ tham ái, hãy từ bỏ sân hận, hãy từ bỏ si mê, hãy từ bỏ phẫn nộ, hãy từ bỏ
gièm pha, hãy từ bỏ kiêu mạn. Từ bỏ một pháp bất thiện là từ bỏ nghiệp nhân đưa
đến sanh tử nên không còn tái sanh nữa. Ở đây cũng cần phải hiểu tái sanh là
tái sanh theo nghiệp.
Theo Hòa thượng Thanh Từ, giải thoát sanh tử là khi tu thấy được
chân tâm, không còn chạy theo vọng tâm lăng xăng, thương ghét…Bởi vì thân tứ đại
thì phải sanh diệt, tâm vọng thì luôn thay đổi. Chỉ có chân tâm hằng thanh tịnh.
Thấy được chân tâm không còn tạo nghiệp nữa là giải thoát sanh tử, là thoát
luân hồi. Nói cách khác, giải thoát sanh tử phải dứt mầm vô minh, tham ái.
Theo định nghĩa của Tiểu kinh đoạn tận ái, giải thoát là chứng đạt Niết-bàn, là đắc quả
vị A-la-hán. Vị ấy sanh đã tận…không còn trở lại đời này nữa. Có thể nói một
cách dễ hiểu là các vị thánh A-la-hán không còn tạo nghiệp thiện ác do đã chấm
dứt tâm tham, sân, si…nên không bị nghiệp dẫn dắt đi tái sanh trong các nẻo
luân hồi. Tuy nhiên, một vấn đề lớn thường được đặt ra là các vị thánh sẽ ở đâu
sau khi bỏ thân tứ đại. Đức Phật lấy ví dụ “củi hết lửa tắt”để trả lời. Củi hết
là nghiệp hết, lửa tắt là chấm dứt sanh tử. Hết nghiệp là hết sanh tử.
Sau khi giải thoát sanh tử
Phải chăng giải thoát sanh tử là không còn sanh trở lại?! Như vừa trình
bày, giải thoát sanh tử là giải thoát nghiệp dẫn đi sanh tử luân hồi khổ
đau. Ở đây, cần phân biệt sanh tử luân hồi khổ đau và sanh tử như là một quy luật.
Đối với bậc Thánh, tuy thân chịu sanh tử như là một quy luật duyên sanh vật lý
nhưng tâm luôn tự tại không bị nghiệp chi phối. Trường hợp sanh tử sau đồng
nghĩa với Niết-bàn hữu dư
của các thánh A-la-hán hay thânthị hiện độ sanh của hàng Bồ-tát. Có thị hiện là
có sanh, có sanh thì phải có tử. Sự khác biệt là sự sanh tử của các vịBồ-tát
theo nguyện chứ không theo nghiệp.
Sự sanh tử theo nguyện có thể kể đến là sự thị hiện của
Đức Phật Thích Ca, của Bồ-tát Di Lặc và Bồ-tát Quán Thế Âm. Trongkinh Tiểu bộ có rất nhiều chuyện tiền thân Đức
Phật được ghi chép lại. Các nhân vật trong các câu chuyện tiền thân đều được
tin là Bồ-tát thị hiện. Đã là Bồ-tát thì tất nhiên đã giải thoát sanh tử. Thế
thì, Thái tử Tất-đạt-đa giáng sinh, tu tập, chứng Phật quả, tịch diệt là một
trường hợp sanh tử (thuộc thân) xảy ra sau khi đã giải thoát sanh tử từ nhiều
kiếp trước.
Về Bồ-tát Di Lặc, cả Nam truyền và Bắc truyền đều tin
rằng Bồ-tát hiện ở cõi trời Đâu Suất (Tusita) và được tin rằng sẽ giáng sinh
trong tương lai ở cõi Ta-bà để tiếp tục tu tập chứng ngộ Phật quả, kế thừa Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni. Còn Bồ-tát Quán Thế Âm, kinh Đại bi tâm Đà-ra-nighi rằngNgài đã thành Phật hiệu Chánh Pháp Minh
nhưng vì nguyện lực đại bi nên mới hiện thân là Quán Thế Âm để độ chúng sanh.
Khi một vị Bồ-tát hay vị thánh thị hiện tức là sanh,
là xuất hiện. Tất nhiên, thân thị hiện đó sẽ phải diệt (tử)theo quy luật duyên
sanh. Chỉ có chân tâm thanh tịnh, không bị sanh diệt theo trần cảnh và luôn tự
tại. Phật giáo Đại thừa chủ trương thuyết độ sanh theo hình thức này. Từ đó, có
thể giải thích thông suốt rằng Phật hay các bậc Thánh theo nguyện lực tùy duyên
vào sanh ra tử để hóa độ chúng sanh nhưng tâm luôn tự tại, không bị khổ đau.
Có sự sống là có sanh tử
Về sanh tử, có hai phần cần phải phân biệt. Một là tâm sanh diệt. Hai là
thân sanh diệt. Tâm sanh diệt, như Hòa thượng Thanh Từ nói, là vọng tâm. Còn
chân tâm thì thanh tịnh hằng hữu ví như cái thấy của con mắt lúc nào cũng hằng
hữu dù mắt nhắm hay mở. Thân tứ đại sanh diệt thì ai cũng có thể hiểu vì nó thuộc
nguyên lý vật lý. Trongkinh Phật tự thuyết(Udana)
thuộc Tiểu bộI, Đức Phật dạy về lý
duyên khởi như sau: “Do cái này có mặt nên cái kia có mặt, do cái này không có
mặt nên cái kia không có mặt, do cái này sinh nên cái kia sinh, do cái này diệt
nên cái kia diệt.” Thân tứ đại đã sanh thì nó phải diệt, theo lý duyên khởi.
Theo lịch sử Đức Phật Thích Ca, Ngài chứng Niết-bàn thành Phật sau 49
ngày đêm thiền định. Kể từ khi ấy, tâm Phật luôn thanh tịnh không còn sanh diệt
như vọng tâm của chúng sanh. Tuy nhiên, thân tứ đại của Phật vẫn chịu sự chi phối
bởi nguyên lý sanh diệt. Suy rộng ra, khi có sự sống hiện hữu bằng thân tứ đại
thì tất yếu có sự sanh tử. Đó là quy luật tự nhiên, là lý duyên khởi. Do đó, giải
thoát sanh tử không có nghĩa là hoàn toàn không tồn tại ở cõi đời này hay thế
giới khác.
Đạo Phật hướng đến giải thoát sanh tử, chứng Niết-bàn để sống tự tại trong
cuộc đời mà làm lợi lạc quần sanh. Quan niệm giải thoát sanh tử, chứng Niết-bàn
ở thế giới nào đó và chỉ đạt được sau khi chết là một quan niệm cần đánh giá lại.
Vì nói như thế là phủ nhận cuộc đời và giá trị đóng góp to lớn của Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni. Đồng thời, quan niệm ấy cũng làm cho Phật
giáo trở nên siêu hình và xa lánh cuộc đời hiện hữu. Do vậy, nhận thức đúng
khái niệm để hiểu đúng và tu tập đúng là quá trình rất cần đối với bất cứ ai tu
tập Phật pháp.