Tuyệt tác đích thực của văn học Phật giáo
tuyet tac
TUYỆT TÁC ĐÍCH THỰC CỦA VĂN HỌC
PHẬT GIÁO
Tiến sĩ Thích Hạnh Tuệ - Thích Thanh Quế
1.
Văn học Phật giáo là một bộ phận cấu thành quan trọng của văn học Việt Nam, bộ
phận này gắn với triết học Phật giáo và mỹ học Phật giáo nói chung, thiền học và
mỹ học thiền nói riêng, thường tập trung phản ánh những vấn đề liên quan đến bản
thể luận và giải thoát luận. Phật giáo Thiền tông quan niệm “Pháp tính bình đẳng”,
“Nhất chân pháp giới”, thực tính bản thể của mọi chúng sinh bao gồm cả các loài
hữu tình và vô tình đều không khác nhau. Truy thấu, ngộ nhập, sống trọn vẹn với
con người thật, với chân tâm Phật tánh trong mỗi chúng sinh là mục tiêu lý tưởng
cả cuộc đời của các văn sĩ Phật giáo. Đây chính là sự giải thoát với ý nghĩa cao
nhất, tuyệt đối nhất, thoát ra ngoài mọi sự trói buộc. Những tuyệt tác văn học
thiền, hình như xuất phát từ cái tâm giác ngộ, đạt đến sự tự do tự tại một cách
tuyệt đối.
Ngôn từ là một yếu tố quan trọng trong sáu điều cốt yếu dùng để đánh giá đúng
một tác phẩm văn học theo quan điểm của Lưu Hiệp trong tác phẩm lý luận văn học
kinh điển của châu Á Văn tâm điêu long: “Một là xem tác phẩm chọn thể tài
nào; hai là xem nó bố trí lời văn (ngôn từ); ba là xem nó tiếp thu những gì của
người đi trước và sáng tạo những gì; bốn là xem phương pháp nó biểu hiện; năm là
xem ý nghĩa các điển tích nó dùng; sáu là xem âm nhạc của nó. Nếu đã thực hiện
các phương pháp này thì thấy được chỗ hay chỗ dở của tác phẩm”*.
Bản thân ngôn từ nghệ thuật mang trong mình kinh nghiệm, thể nghiệm, trải nghiệm
của chủ thể sáng tác. Căn cứ trên văn bản ngôn từ, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều
tầng ý nghĩa của tác phẩm chưa được phát hiện ra; chẳng những không bị ảnh hưởng
bởi ấn tượng của những nhà nghiên cứu uy tín đi trước, mà còn phát hiện được
những ý nghĩa mới nằm ngoài dụng tâm chủ quan của chính tác giả.
Một trong những đặc trưng khu biệt của văn học Phật giáo với những dòng văn học
khác chính là ở cách sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật. Với quan niệm “ngôn ngữ đạo
đoạn”, lời nói, ngôn từ hữu hạn ở đây không thể diễn tả trọn vẹn và đầy đủ cái
chân lý vô cùng, thể hiện rõ nét quan điểm mỹ học phương Đông. Ngôn ngữ thông
thường khó có thể diễn tả, thể hiện được trọn vẹn những thứ như: cái tĩnh mà
động, thường mà biến, hư mà thật, một là tất cả, tất cả là một của vạn pháp.
Ngôn ngữ văn học thiền Phật giáo được dùng đạt đến đỉnh điểm của tính hàm súc.
Mặc dù vậy, cái hiện ra qua bề mặt ngôn ngữ cũng chỉ là một phần nổi của tảng
băng trôi, phần chính yếu, ngôn ngữ không thể diễn tả hết được chẳng khác nào
như chín phần còn chìm dưới mặt nước của tảng băng, ẩn tàng sau lớp từ ngữ. Cho
nên ngôn ngữ của văn học thiền Phật giáo không có quá kỳ vọng diễn đạt một cách
trọn vẹn đối tượng mình hướng đến mà cốt chỉ khơi gợi hướng tới chiếm lĩnh đối
tượng. Điều này cũng góp phần tạo nên sự lung linh kỳ ảo, lôi cuốn hấp dẫn người
đọc.
Hơn nữa, các văn sĩ Phật giáo hiểu một cách thấu đáo rằng, từ ý tưởng phát sinh
trong đầu, cho đến khi dùng nghệ thuật ngôn từ diễn đạt thành lời thơ, lời văn
còn có một khoảng cách vô hình. Đối với những tác gia thiên tài, thì cái khoảng
cách vô hình từ ý tưởng đến ngôn từ chỉ có thể tiệm tiến dần đến số không chứ
hoàn toàn không thể xóa bỏ hẳn. Đó là chưa nói bản thân ngôn ngữ vốn không thể
nào thể hiện được một cách trọn vẹn đối tượng, nếu miễn cưỡng thì có lẽ sẽ không
bao giờ tiếp cận chân lý đích thực. Những tuyệt tác của thi ca phương Đông
thường là những tác phẩm dường như chưa hoàn tất, chưa đầy đủ, chưa viên mãn,
chưa kết thúc. Chính điều này tạo nên sự lung linh mờ ảo, huyền bí, có sức sống
vô hạn, sức cuốn hút vô biên không thể cưỡng lại đối với người thưởng thức.
Những tác phẩm ấy, không những khắc phục được sự nhàm chán, mà còn tạo được sức
kích thích lớn lao của tính hấp dẫn trong việc khám phá được sự kỳ diệu và bí ẩn
của thi ca đích thực. Đúng như cách nói của nhà Phật: Mỗi người uống nước sẽ tự
cảm nhận được sự nóng lạnh của nó; ai ăn sẽ tự cảm nhận được mùi vị của món ăn,
dù có diễn tả hay cách mấy cũng không nói hết được.
Ngoài những nét chung của ngôn ngữ nghệ thuật phương Đông thời trung đại, ngôn
ngữ nghệ thuật của các tác phẩm văn học Phật giáo thời kỳ này chịu ảnh hưởng sâu
sắc của tư tưởng Tam giáo nói chung, triết học Phật giáo và mỹ học Phật giáo nói
riêng, nhất là thiền học, nên được dùng đạt đến đỉnh điểm của tính hàm súc và
gợi mở. Tính chất ý ở ngoài lời không thể chỉ hiểu theo nghĩa lời ít ý nhiều, có
nhiều tầng ý nghĩa; đối tượng tiếp nhận có thể hiểu được theo cơ chế của sự liên
tưởng, mà lắm khi vượt ra ngoài khuôn sáo ngữ nghĩa thông thường vốn có của ngôn
ngữ. Nói như vậy nghĩa là thông điệp của tác giả phát ra khó có thể đạt tới bằng
tư duy luận lý thông thường, mà phải dùng đến trực ngộ. Một trong những mục đích
cứu cánh của các tác phẩm văn học thiền Phật giáo là dồn đối tượng tiếp nhận đến
tuyệt lộ của tư duy lý tính, tạo nên một khối bế tắc, khối “nghi lớn”. Khối nghi
lớn này là điều kiện cần, dẫn đến sự bùng vỡ, khai thông tiềm lực vô biên của
trí tuệ, khiến độc giả lĩnh hội trực tiếp được thông điệp của tác giả một cách
chính xác nhất có thể.
2.
Dưới nhãn quan của các tác giả nhà thiền, ngôn ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm
văn học thiền Phật giáo được xem như một “pháp” bình đẳng với các “pháp khác”,
vượt ra ngoài mọi quy ước về mặt ý nghĩa tạo nên một kiểu ngôn ngữ nghệ thuật
mới: ngôn ngữ thiền, một loại siêu ngôn ngữ. Bước đột phá quan niệm nghệ thuật
về ngôn ngữ này bổ túc cho sự bất toàn của ngôn ngữ trong việc phản ánh, biểu
hiện, tái tạo hiện thực khách quan và nhất là chiều sâu vô tận của tâm hồn
người, của con người thật trong con người, mà ngôn ngữ thông thường khó có thể
thể hiện được, nếu không muốn nói là không thể hiện được.
Thứ siêu ngôn ngữ này không những khắc phục được những giới hạn tất yếu của ngôn
ngữ nghệ thuật được sử dụng trong phạm vi ý nghĩa vốn có, mà còn mở rộng khả
năng biểu hiện của ngôn ngữ đến mức tối đa, phát huy công năng của ngôn ngữ nghệ
thuật đến vô giới hạn. Chỉ với siêu ngôn ngữ này mới có thể đáp ứng được được
nhu cầu phản ánh biểu hiện sự muôn màu muôn vẻ của cuộc sống, mà chiều sâu bí ẩn
của tâm hồn người là mảnh đất màu mỡ nhất.
Tính phi luận lý của thiền ngữ kích thích mãnh liệt sự tò mò và lòng ham hiểu
biết chân lý, đó là cách thức giải phóng, khai thông những tiềm lực to lớn vô
biên ẩn tàng trong sâu thẳm ở mỗi con người. Tính chất ý ở ngoài lời, âm thanh
ngoài dây đàn không thể chỉ hiểu theo nghĩa lời ít ý sâu, có nhiều tầng ý nghĩa
để đối tượng tiếp nhận, có thể lĩnh hội theo cơ chế của sự liên tưởng mà là lắm
khi còn vượt ra ngoài khuôn sáo ngữ nghĩa thông thường của ngôn ngữ.
Chúng ta cùng đọc một đoạn đối thoại giữa Thiền sư Hải Lượng và đồ đệ trong
chương Ngộ thanh của tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh:
“Học trò thưa với thầy rằng: Lý không thể noi theo hết được, còn ham muốn có
thể cắt đứt hết được không?
Thầy trả lời: Không cắt thì đứt, muốn cắt đứt thì không đứt. Nước chảy cuồn
cuộn, chảy hoài sẽ cạn. Lửa cháy lốm đốm, dập thì cháy bùng lên.
Học trò thưa tiếp với thầy: Có nước gì không phải là nước không?
Thầy nói rằng: Nếu nước được xem là nước thì không phải nước thật.
Trò lại hỏi: Có lửa gì không phải là lửa không?
Thầy đáp: Nếu lửa được xem là lửa thì đó là lửa giả. Nước thật thì nóng được,
lửa thật thì lạnh được. Cho nên người nào có ham muốn thì không ham muốn, ai
không có lòng ham muốn thì ham muốn.”
Nói cách khác, thông điệp thật sự mà thiền ngữ phát ra không thể nào cảm nhận
trọn vẹn bằng tư duy luận lý thông thường mà chỉ có thể đạt tới bằng phương
pháp Thiền trực hội. Như có người hỏi:
“Ngôn ngữ đạo đoạn là thế nào?”
Thiền sư Viên Chiếu đáp:
“Giác hưởng tùy phong xuyên trúc đáo, Sơn nham đới nguyệt quá tường lai.” (Tiếng
sừng theo gió xuyên tre đến, Vách núi mang trăng hiện vượt tường) (Viên Chiếu,
Tham đồ hiển quyết).
Hai câu thơ đầy hình ảnh sinh động này nếu dùng tư duy lý tính, suy luận theo
cầu trường liên tưởng thì sẽ dễ rơi vào suy diễn tư biện, không thể đạt đến
thông điệp mà tác giả muốn thể hiện.
Đọc những tác phẩm văn học thiền Phật giáo, ta không phải chỉ đọc những gì ở ý
nghĩa của ngôn ngữ thông thường mà là lĩnh hội trực tiếp thông điệp bằng cách
“lấy tâm hội tâm”, bằng trực cảm, trực hội, không thông qua tư duy lý tính. Chỉ
có như vậy mới có thể đọc được cách nói nghịch lý khác thường, phi luận lý,
không thể thấy được trong cuộc sống:
Dục tri đoan đích ý, Thạch hổ giảo kim ngưu.
(Muốn biết nghĩa đích thật, Hổ đá cắn trâu vàng) (Tuệ Trung, Thị đồ đệ).
Để trả lời câu hỏi: Thế nào là bản ý? Thiền sư Viên Chiếu đáp bằng hai câu thơ
tuyệt diệu:
Xuân chức hoa như cẩm,
Thu lai diệp tự hoàng.
(Xuân dệt hoa như gấm,
Thu về lá tự vàng) (Viên Chiếu, Tham đồ hiển quyết).
Những câu thơ với hình ảnh tuyệt mỹ, giàu sức gợi cảm này mới nghe tưởng chừng
như chẳng ăn nhập gì với câu hỏi đặt ra. Có biểu đạt kiểu ngôn ngữ phi luận lý
như trên thì mới đủ sức đập tan những cố chấp, vướng mắc của người học, nhằm
khai thông trí tuệ chân thật của họ.
Một đặc trưng nữa của ngôn ngữ thơ thiền là vô ngôn. Để biểu lộ, hiển bày chân
tâm trong sáng, u huyền, tịch diệu, không màu không mùi, không hình không dáng,
không vuông không tròn, hoặc diễn tả trạng huống giác ngộ, bùng vỡ chân lý,
giây phút thăng hoa trí tuệ không gì hơn là vô ngôn. Cùng với thiền ngữ (siêu
ngôn ngữ), vô ngôn sẽ bổ túc thêm cho sự bất toàn, bất cập của ngôn ngữ.
Ngôn ngữ nghệ thuật, dù được sử dụng tuyệt diệu đến đâu đi chăng nữa, cũng mang
một ý nghĩa giới hạn nhất định nào đó, vô ngôn đưa nó đến cảnh giới vô cùng vô
tận.
Hãy lắng lòng cùng Trần Quang Triều hòa mình vào cảnh chiều hôm nơi ngôi chùa cổ
trong bài Đề Gia Lâm tự:
… Xuân vãn hoa dung bạc,
Lâm u thiền vận trường.
Vũ thu thiên nhất bích,
Trì tĩnh nguyệt phân lương.
Khách khứ Tăng vô ngữ,
Tùng hoa mãn địa hương.
(Xuân chày hoa mỏng mảnh,
Rừng vắng tiếng ve ngân.
Mưa thu trời xanh biếc,
Áo lạnh hiện bóng trăng.
Khách về Tăng không nói,
Hoa tùng ngát cả sân)
Lúc này, thật không một ngôn ngữ nào diễn tả hết được cái không gian trong sáng
của cảnh vật thanh u, tĩnh lặng, không khí mát mẻ, một sự thanh khiết vô biên
tuyệt diệu của đất trời khiến cho con người thanh lọc hết mọi ưu tư phiền não,
vướng mắc, để đạt tới sự yên bình, an lạc, thanh thản vô hạn.
3.
Với tuyệt tác “Cáo tật thị chúng” của Thiền sư Mãn Giác, ta càng thấy được cái
hay đến mức tuyệt kỳ ảo diệu của thơ thiền. Chúng tôi cho rằng đây là một tuyệt
tác chân thật của thi ca. Bài thơ, bài kệ nhà thơ đọc trong lúc có bệnh, sắp thị
tịch. Vì đây là một bài thơ thiền, nên ngoài chất thơ, còn chất thiền, với nhiều
tầng nghĩa xuyên qua ngôn ngữ, nên ta từ góc độ văn hóa lịch sử, trên bình diện
thi pháp học, đặc biệt là phương pháp “dĩ tâm truyền tâm’’, tức là dùng tâm mình
hội tâm người thông qua “phương tiện ngôn ngữ”. Tinh thần của thơ thiền là “trực
chỉ nhân tâm… bất lập văn tự’’, nghĩa là chỉ thẳng tâm người… không lập văn tự,
bắt nguồn từ công án “Niêm hoa vi tiếu”. Đức Phật trên hội linh sơn, Ngài không
nói mà chỉ đưa một cành hoa lên cao. Toàn thể đệ tự không ai hiểu ý chỉ của
Ngài, chỉ có Đại Ca Diếp mỉm cười, tức là chỉ có mình Đại Ca Diếp ngộ được ý chỉ
Phật mà thôi. Tuy vậy, nhà thiền với tâm chỉ “bất chấp bất xả” không lấy cũng
không bỏ, nên dùng ngôn ngữ chỉ bày thật tương ứng mà không chấp vào ngôn ngữ.
Ngôn ngữ ở đây như “ngón tay chỉ mặt trăng”. Cái thông điệp mà thiền sư muốn gửi
lại như là mặt trăng, không phải là ngón tay, nhưng phải nương ngón tay thì mới
thấy được mặt trăng cho nên gọi là “không lấy, không bỏ”.
Mở đầu bài thơ, tác giả viết:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai.
Nghĩa:
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa nở.
Thời gian mùa xuân và hình tượng hoa là những đối tượng ta thường gặp trong văn
thơ cổ điển. Mùa xuân là thời gian tràn đầy nhựa sống của cây cối muôn vật, trăm
hoa đua nở, trăm bông nghìn tía, vạn vật sinh sôi nảy nở, là thời gian làm cho
con người vui vẻ, hỷ lạc. Hoa là tinh túy của muôn vật, là biểu tượng của cái
đẹp, là trú tâm nhìn vào vạn hữu, đem màu sắc, hương thơm dâng hiến, làm đẹp cho
đời. Tác giả còn chọn hình tượng hoa không phải là ngẫu nhiên. Mùa xuân mà không
có hoa thì còn gì là mùa xuân nữa. Ai lại không muốn giữ mãi thời gian mùa xuân
đừng cho qua mất, giữ mãi cho hoa kia không phai tàn, rơi rụng. Nhưng hỡi ơi,
quy luật tự nhiên theo thời gian mà trôi đi, để lại sau lưng nó bao nhiêu tiếc
nuối.
Xuân đi trăm hoa rụng
Chỉ mới hai câu, mười chữ, mà tác giả đã ba lần dùng điệp từ: xuân, bách, hoa.
Ẩm hưởng nhạc tính từ những điệp từ này càng tạo ấn tượng cho người nghe như
thấy, như nghe, như cảm được thời gian qua nhanh, không thể nắm bắt. Chữ “bách”
nghĩa là trăm. Trăm hoa ở đây chỉ muôn vật, chỉ ra cho ta thấy quy luật tuần
hoàn như bánh xe luân hồi không dứt này chi phối toàn bộ giới tự nhiên không thể
nào tránh khỏi. Đây là quy luật sinh, trụ, dị, diệt trong triết học Phật giáo.
“Sinh” là được sinh ra, xuất hiện; “trụ” là tồn tại và phát triển; “dị” là thay
đổi, biến dị, “diệt” là mất đi. Quy luật này là quy luật tuyệt đối.
Hoa hồng có nở ắt hoa hồng phải rụng là giai luật bất biến của tự nhiên. Nhưng
Thiền sư Mãn Giác lại nói hoa rụng trước, rồi hoa nở sau. Nói hoa nở rồi hoa
rụng thì ta chỉ thấy một vòng đời của hoa, còn nói hoa rụng rồi hoa nở gợi cho
chúng ta thấy vòng tuần hoàn luân hồi bất tận, như bánh xe quay mãi không ngừng.
Tác giả không chỉ thấy hoa nở rồi hoa rụng, mà còn thấy cái rụng trong cái nở,
cái nở trong cái rụng, cái sinh trong cái diệt, cái diệt trong cái sinh. Đây là
điểm vô cùng quan trọng, nếu không thấy được điểm này, thì có người cho rằng tư
tưởng của tác giả là bi quan, yếm thế.
Hai câu trên tác giả đề cập tới quy luật tuần hoàn luân hồi ở vạn vật, hai câu
tiếp tác giả đề cập đến quy luật này ở người.
Sự việc qua trước mắt
Cái già đến trên đầu
Quy luật tuần hoàn, luân hồi ở vạn vật là “sinh, trụ, dị, diệt”, còn quy luật
luân hồi ở người là “sinh, lão, bệnh, tử”, tức là có sinh ra, phải đến lúc tóc
bạc, da nhăn, già cả, bệnh tật, rốt cùng là phải chết. Hình ảnh tóc bạc, da nhăn
chính là hình ảnh của cái tuổi gần đất xa trời, giống như hoa lúc phai tàn, rơi
rụng. Một loạt các cặp đối câu: xuân khứ – xuân đáo, hoa khai – hoa lạc, nhãn –
đầu, tiền – thượng, quá – lai… càng làm cho chúng ta thấy được quy luật vô
thường có đến, có đi, có nở, có tàn của vạn vật và con người. Hơn nữa tác giả
chỉ với bốn câu hai mươi chữ mà đã sử dụng đến tám động từ đối nhau, càng nhấn
mạnh ý thức về thời gian đi qua nhanh chóng. Con người càng ý thức thời gian hoa
rụng, hoa khai nhanh bao nhiêu thì càng ý thức cái già đến nhanh bấy nhiêu, ý
thức về cuộc sống hiện hữu của mình. Hoa trước khi rụng, nó đã đem màu sắc,
hương thơm dâng hiến cho cuộc đời, chẳng lẽ con người chẳng có gì cống hiến cho
cuộc sống sao? Đây là câu hỏi lớn, dù Thiền sư không trực tiếp hỏi, liên quan
trực tiếp đến thông điệp chính của bài thơ. Phải chăng cuộc đời con người rồi
cũng đi về phía hủy diệt? Câu hỏi này tác động mạnh mẽ vào người nghe, buộc
người nghe phải tư duy cao độ, khơi gợi, kích thích người nghe tập trung suy tư
như là đề mục công án nhà thiền, là điều kiện cần cho sự bùng vỡ giác ngộ.
Nhà thiền xem trọng tính tự giác. Phật nói: “Các ngươi hãy tự thắp đuốc lên mà
đi”, Đức Phật hay các bậc sư phụ chỉ là “Đạo sư”, tức là người hướng dẫn, người
chỉ đường mà thôi. Muốn đến đích, muốn tìm ra chân lý thì mình phải tự cố gắng,
tự nỗ lực mà thôi, không ai có thể giúp được mình cả. Đây chính là cách thức,
khơi gợi, kích thích, khai mở dòng thác trí tuệ của mỗi con người. Trí tuệ này
có được không phải nghe người khác dạy mà có được, chỉ có tự mình suy tư, chiêm
nghiệm cho đến lúc bừng vỡ mới thôi. Hơn nữa cái đích mà người học thiền muốn
đạt tới chính là giác ngộ, tức là thông suốt “thực tướng của các pháp”, chân lý
của vũ trụ, quy luật của vạn hữu. Muốn đạt được điều này, phải đạt tới “Nhất
thiết trí”, tức là ngoài trí tuệ sẵn có, kiến thức do học mà có, trí tuệ này có
được chỉ nhờ qua thiền định mà thôi. Bởi vậy nhà Phật nói “Duy tuệ thị nghiệp”
(Chỉ có trí tuệ mới là sự nghiệp). Ai cũng đọc được thơ thiền, ai cũng hiểu được
thơ thiền, nhưng không phải ai cũng “ngộ” được thơ thiền. Hiểu là hiểu được một
tầng nghĩa nào đó, mang tính triết lý thiền học, còn “ngộ” được thơ thiền trước
tiên cần phải đạt tới cảnh giới “Tâm như chỉ thủy” (Tâm trong sáng như nước,
không có gợn sóng, không chút bụi bặm), tức là tâm không bị ngoại duyên tác
động, câu thúc, ảnh hưởng.
Bốn câu trên tác giả ngầm nêu lên một câu hỏi lớn về số phận, tương lai và giá
trị chân thực của cuộc đời con người. Hai câu cuối tác giả trả lời cho câu hỏi
đó, câu trả lời thật là độc đáo, kỳ diệu:
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một nhành mai.
Có người cho rằng hai câu dưới này là sự phủ nhận những điều đã nói ở bốn câu
trên, hay là cành mai đầy hoa nở rộ trong đêm mặc cho mùa xuân đã đi qua mang ý
nghĩa phủ định quy luật vô thường của vạn vật, con người. Không hẳn như vậy. Tại
sao ở đây tác giả không dùng hình tượng khác mà lại dùng hình tượng một cành
mai. Mai là một trong “tứ quý” (tùng, cúc, trúc, mai) trong văn học thường dùng
để chỉ cái thanh cao, thuần khiết, quý phái. Cao Bá Quát từng thốt: “Nhất sinh
đê thủ bái mai hoa” (Một đời của ông chỉ cúi đầu trước hoa mai). Mai còn một đặc
tính khác nữa. Một nhà thơ Trung Quốc đã viết:
Bảo kiếm phong tùng ma lệ xuất
Mai hoa hương tự khổ hàn lai.
(Mùi kiếm bén, phải dày công mài mới được, hương của hoa mai, sở dĩ bay xa, thơm
lâu là nhờ trải qua thời gian chịu đựng rét mướt mới được).
Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ này có kết cấu lạ. Bốn câu trên mỗi câu năm
chữ, nó như không vững chãi, dễ ngã, nhưng hai câu cuối mỗi câu bảy chữ, như đế
bằng vững chắc, giữ vững thế đứng của bốn câu trên và chính là cái hồn của bà
thơ. Mới đọc lên, ta tưởng đây chỉ là cách nói gở, hay chỉ là sự an ủi mà thực
tế thì không thể xảy ra. Nhưng đây là thơ thiền, là tinh hoa, trí tuệ của cả một
đời Thiền sư. Hành trang của các Thiền sư ta thấy rõ qua bốn câu thơ sau:
Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô lưu tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.
(Nhạn bay qua không trung
Bóng in dưới nước lạnh
Nhạn không có ý lưu dấu tích
Nước cũng không có tâm giữ hình chim nhạn).
Thiền sư làm tất cả mọi chuyện, ở trong các nơi nhưng không bị dính mắc ở chỗ
làm, không lưu lại dấu vết. Thơ thiền cũng như “ngón tay chỉ mặt trăng”. Ngôn
ngữ thơ thiền chỉ như ngón tay, còn thông điệp của Thiền sư như mặt trăng vậy.
Nếu chấp vào ngón tay, chỉ nhìn ngón tay thì không thấy được mặt trăng. Chỉ có
nương theo ngón tay, không chấp vào ngón tay thì mới thấy được mặt trăng. Nhà
thơ dùng ngôn ngữ làm phương tiện chỉ ra chân lý mà không dính mắc vào ngôn ngữ,
vì vậy muốn lĩnh hội được chân lý thì cũng phải dùng mà không chấp vào ngôn ngữ.
Thơ thiền cũng mang những đặc tính của thơ cổ điển, ngôn ngữ vừa tinh luyện, hàm
súc, điển cố, mang đậm nét “ý tại ngôn ngoại”, “huyền ngoại chi ân”, “can dư chi
vị”. Ngôn ngữ thơ thiền đạt tới đỉnh điểm của “ý tại ngôn ngoại”. Không lời và
có lời không loại trừ nhau, ngôn ngữ diêu ngôn ngữ. Một cành mai trong “Đêm qua,
sân trước một cành mai” không khác gì cành hoa của Đức Phật đưa lên trên hội
Linh Sơn, không khác gì tiếng hét của Thiền sư Lâm Tế làm tan vỡ si mê, cố chấp
của người học, khởi dòng trí tuệ, không khác gì cây gậy của Thiền sư Đức Sơn,
đập tan vọng tưởng điên đảo, cũng như ly trà của Thiền sư Triệu Châu, mọi người
uống, thèm cảm nhận mùi vị của nó. Đó chính là chân như Phật tính, là diệu tâm
viên giác, là con người chân thật, vượt qua khỏi tham lam, sân hận, si mê, như
hoa mai tinh khiết, cao quý, đem hương thơm làm đẹp cho đời, chính là con người
cao quý vượt ra khỏi con người tầm thường với bao nhục dục, ích kỷ, cố chấp,
chính là con người nhân cách. Trí tuệ, thông suốt thực tướng của các pháp, thông
suốt quy luật tự nhiên, chính là chân như bất biến, chính là tính Phật trong mỗi
con người, cũng chính là con người bất diệt vượt ra khỏi mọi giới hạn tầm thường
của thời gian, không gian, vượt ra khỏi quy luật hữu hạn của cuộc đời (ở trong
đó nhưng không bị dính mắc, câu thúc), vượt ra khỏi cố chấp, thành kiến, biên
kiến bình thường. Đứng ở vị trí giá trị đích thực của “con người’’ tồn tại mãi
mãi với thời gian. “Cành mai trí tuệ”, một tượng đài nghệ thuật của Thiền sư Mãn
Giác và cả “con người chân thật” của Ngài vẫn mãi mãi tồn tại, âm vang của ngài
vang vọng mãi, vượt trên không gian và thời gian, nhắn lại với bao thế hệ con
người hãy vươn đến giá trị làm người đích thực, không bị nô lệ bởi hoàn cảnh,
không bị nô lệ bởi những tính “con” trong mỗi con người.
Tác giả mở đầu bài thơ với hình ảnh “trăm hoa rụng”, kết thúc bài thơ với hình
tượng “một cành mai” nở trong đêm tối, với bài thơ được viết lúc nhà thơ bị bệnh
sắp thị tịch (mất), đây không chỉ là cái nhìn lạc quan, tin tưởng yêu đời, ca
ngợi sức sống mạnh mẽ, kiên định trước sự biến đổi của trời đất, vạn vật và thời
cuộc mà còn chỉ ra con người tự do, con người chân thật trong mỗi con người,
giải thoát vượt ra khỏi giới hạn tầm thường, vượt qua chính mình, vươn tới giá
trị loài người đích thực, giải phóng con người với ý nghĩa cao nhất, mang ý
nghĩa nhân bản từ xưa tới nay chưa có ai vượt qua được. Nhà thơ đã dựng lên
tượng đài nghệ thuật nhân bản “Một cành mai”, thể hiện tinh thần bất diệt của
con người sẽ trường tồn mãi với thời gian .
4.
Những tác phẩm được gọi là tuyệt tác văn học thiền, không những nội dung tư
tưởng và hình thức nghệ thuật đạt đến mức tuyệt diệu, mà quan trọng nhất là “Con
người chân thật”; “Con người Phật tính”; “Thiền ngữ” và “vô ngôn”… Đó là những
đối tượng đặc biệt, là mảnh đất vô cùng màu mỡ, có sức hấp dẫn và lôi cuốn lạ kỳ,
mang lại cảm hứng vô cùng đặc biệt, tạo thành lực hấp dẫn, khiến cho các văn sĩ
thiền sư Phật giáo sáng tác những tuyệt tác để đời. Phải chăng những đối tượng
này cần được giới nghiên cứu văn học, sáng tác văn học, chú ý khai thác, sáng
tạo hầu làm cho đời sống văn học Phật giáo nói riêng, văn học dân tộc Việt Nam
nói chung càng thêm đa dạng, phong phú.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhiều tác giả (1989), Thơ văn Lý Trần, quyển thượng, Nxb KHXH. HN.
2. Lưu Hiệp (1999), Văn tâm điêu long, Nxb Văn học, Phan Ngọc dịch và
chú thích, trang 273, 274.
3. Trần Đình Sử (2005), Trần Đình Sử tuyển tập 1, 2. Nxb Giáo dục. Nguyễn
Đăng Điệp giới thiệu.
4. Ngô Thì Nhậm (2005), Ngô Thì Nhậm toàn tập. tập 5. Nxb KHXH. HN.
5. Phạm Công Thiện (1970), Ý thức mới trong văn nghệ và triết học. Nxb An
Tiêm, tái bản lần thứ tư.
6. Mười tuyệt tác văn chương vĩ đại nhất mọi thời đại.
(m. ngaynay.vn)