Những điều cần biết về tham thiền của Phật giáo
nhung dieu
Tinh Vân
–
Nhã Tuệ dịch
Kinh nói: “Ninh tĩnh an tường giả, thiền định trung lai.” Nghĩa là
người điềm tĩnh khoan thai, là đến từ thiền định. Tham thiền tu định
là pháp môn tu trì quan trọng của Phật giáo. Thông qua công phu của
thiền định, Chân như (tathata) Phật tính (buddha-dhatu) vốn có trong mỗi
con người, sẽ hiển lộ. Đây là con đường tu trì xưa nay mà các tông phái
lớn Phật giáo đều thực hành.
Thiền, Phạn ngữ là dhyana (thiền-na), Pali ngữ là jhana, Hán dịch
(dịch ý) là tĩnh lự (tịnh tâm suy xét/gột sách tất cả tạp niệm).
Thiền, có mặt khắp nơi, xưa nay hệt như nhau. Thiền sư Thanh Nguyên nhà
Đường nói: Thiền chính là tâm của chúng ta. Cái tâm này là chỉ cho
“chân tâm” - trái tim chân thật trú ẩn dưới đáy sâu thẳm tâm hồn chúng
ta. Chân tâm này, siêu vượt hết thảy sự tồn tại hữu hình, lại lộ bày
trong vũ trụ vạn hữu, cho dù là cuộc sống hằng ngày trông giống như
rất đỗi bình thường, nhưng khắp nơi tràn ngập thiền cơ. Vì thế, Lục
Tổ Đại sư Huệ Năng nói: “Đạo do tâm ngộ, khởi tại tọa dã?” (đạo được
bừng tỉnh từ tâm, há chỉ ở tư thế ngồi?) chính là nói rõ rằng tham
thiền cầu đạo, quan trọng là ở chỗ giác ngộ chân tâm bản tính, nhưng
hoàn toàn không phủ nhận vai trò của ngồi thiền (tĩnh tọa). Thế nên,
đối với kẻ sơ học, tọa thiền vẫn là phương pháp nhập môn quan trọng
lúc tham thiền. Thiên Thai tiểu chỉ quán cho biết, người mới bắt
đầu học đạo thì phải ngồi thiền, phải điều hòa năm việc: điều hòa
việc ăn uống (điều thực), điều hòa việc ngủ nghỉ (điều thụy), điều
hòa thân thể (điều thân), điều hòa hơi thở (điều tức), và điều hòa
tâm (điều tâm).
Về phương diện điều hòa thân, theo Tỳ-lô
(Vairocana) thất chi tọa pháp,
chia làm bảy nội dung chính: (1) hai chân đan chéo vào nhau (thế kiết
già), ngồi xếp bằng gác một chân lên bắp vế chân kia (thế bán giá);
(2) sống lưng thẳng đứng, không được dựa vào vách tường; (3) tay kết
định ấn, đặt ở dưới rốn; (4) hai bả vai ngang bằng, thả lỏng tự
nhiên; (5) đầu mặt ngay ngắn, hàm dưới thu vào bên trong; (6) hai môi
khép lại, lưỡi chạm nhẹ vào hàm răng trên; (7) hai mắt khép lại, quán
chiếu thân tâm.
Trong đó “kiết già phu tọa” tục gọi là “bàn thối tọa” (hai chân xếp
chéo nhau đặt đều trên đệm). Lại chia làm đơn bàn
và song bàn.
Những người mới học nếu không thể song bàn, thì có thể đơn bàn, hoặc
ngồi đan chéo hai chân vào nhau, hoặc có thể ngồi trên ghế (giường)
đặt hai chân trên mặt đất (thảm), tư thế áo quần ngay ngắn.
Về phương diện điều hòa hơi thở, hơi thở (tức) chính là thở ra hít
vào. Thông thường, thở hít có bốn hiện tượng: gió (hít vào thở ra có âm thanh),
thở (ngẹt không thông), hơi (ra vào khò khè), hơi thở (không thanh không ứ
không ồ). Ba hiện tượng trước đều là tướng của hơi thở chưa điều hòa, không nên
ngồi thiền, chỉ có hơi thở nhẹ nhàng thoải mái, cõi lòng mới có thể vững chãi an
ổn.
Điều hòa hơi thở là phương pháp nhập môn của tu định. Phương pháp điều hòa hơi
thở có sổ tức
và tùy tức.
Sổ tức là một trong “ngũ đình tâm quán”.
Sổ tức có năm công đức như giảm bớt giấc ngủ, là nền tảng của tu định; đối trị
tâm tán loạn có công đức nhất. Nó và bất tịnh quán được cho là “nhị cam lộ môn”.
Sổ tức cũng là một trong nhân tướng (cái tướng nguyên nhân vạn pháp)
của “lục diệu môn”.
Lục diệu môn tức là sáu loại diệu pháp của tu định, gồm: sổ, tùy,
chỉ, quán, hoàn, và tịnh. Trong pháp môn của tất cả tập định,
“an-na-bát-na (anapana) thiền pháp” là căn bản nhất, đồng thời cũng là
vững chắc, an toàn nhất. Thiền pháp an-na-bát-na tức là thông qua việc
tu trì lục diệu môn, khiến tâm dừng lại ở một cảnh giới (nhất cảnh),
sau đó nương định theo vào chánh lý quán sát thực tướng các pháp,
theo đó đoạn hoặc chứng chân (đoạn trừ tất cả phiền não tham sân si,
chứng ngộ chân lý vũ trụ nhân sinh). Đức Phật xưa kia ngồi xếp bằng
ngay ngắn dưới cội cây Bồ-đề (bodhi-druma), bắt đầu nội quán an-bát
(an-na-bát-na), cuối cùng được vạn hạnh mở mang, đối trị được ác ma
và thành đạo, sau đó cũng lấy thiền pháp an-bát dạy bảo cho mọi
người, là phương tiện chủ yếu của nhập môn.
Về phương diện điều hòa tâm, kinh Phật di giáo nói: “Chế tâm
nhất xứ, vô sự bất biện.” Nghĩa là nếu có thể khống chế tâm vào một
chỗ, thì không có việc gì không làm được. Điều tâm chính là đem tạp
niệm, vọng tưởng, tâm tán loạn chuyên chú vào một chỗ, khiến vọng tâm
dừng lại mà bước vào thanh tịnh, minh giác, quên cảnh của ta, đây cũng
là mục đích căn bản của tọa thiền.
Điều tâm là phương pháp quan trọng của tu định. Bình thường mới tham
thiền thường sẽ xuất hiện hai trạng thái tâm lý, một là hôn trầm (hôn
mê muốn ngủ), hai là trạo cử (dao động xao xuyến, vội vàng bất an),
điều tâm ngoài việc phải điều phục tâm tán loạn, không để phóng dật,
còn phải làm cho những trạng thái khác nhau của tâm đạt đến an ổn
thích hợp; ví như lúc hôm trầm thì quán tâm ở đỉnh mũi hoặc mí tóc,
khởi lên chánh niệm (samyak-smrti/những ý nghĩ chân chính), khiến tâm ý
tập trung; lúc trạo cử thì quán tâm ở đan điền (vùng dưới rốn),
khiến tâm nóng nảy nông nổi chìm xuống.
Ngoài ra cũng có thể quán tưởng các tướng tốt của Đức Phật, hoặc
là niệm Phật, trì chú; hoặc là tham nhập thoại đầu, công án,… chỉ
cần phù hợp với phương thức tu thiền tu (thiền tư/thiền định/thiền
quán) của giới đức, định đức, tuệ đức. Tùy vào căn cơ của mình mà ta
chọn một pháp tu thích hợp.
Nói chung, mục đích chủ yếu của thiền tu là ở chỗ tu tâm đạt được
định, theo đó (nhờ có định) mà khai phát trí tuệ. Tập thiền tu định
không thể chóng thành, không thể vượt qua thứ bậc. Kinh nói “y giới tu
định, y định phát tuệ”. Đây là học trình (chương trình học) rõ ràng
đúng đắn không được xem nhẹ. Nhất là quá trình tu học từ sơ học
nhiếp (nắm/giữ) tâm, đến chánh định thành tựu, cần chú trọng dưỡng
thành thiền định cơ bản, cũng là dựa vào chín tâm trụ
mà luận Du-già-sư-địa (Yogācāra-bhūmi-śāstra) nói, hoặc dựa vào
tám đoạn hành mà luận Biện trung biên (Madhyānta-vibhāga)
nói để mà tu tập, từ từ sẽ diệt trừ những sai lầm như vọng niệm,
tán loạn, trạo cử, hôn trầm, khiến tâm an trú ở cảnh sở duyên, dần
dà thì tâm không trầm (sa sầm) không trạo (xao động), thăng bằng cân
đối, an trú tùy vào sự vận động tự nhiên các pháp. Đây chính là tâm
trụ thứ chín cao nhất trong Dục giới, có tên là “đẳng trì tâm” (giữ
tâm ở thế thăng bằng; tên gọi khác là định).
Từ “đẳng trì” mà tiến vào “xa-ma-tha”
(śamatha), cũng tức là “vị đáo định” (chưa được định) trong Sắc giới,
thời kỳ cần phải tu Tứ thiền Bát định,
hoăc tu tứ đế thập lục hành tướng…
Phật giáo đặc biệt chú trọng tu học về văn tư tuệ. Văn tuệ, tư tuệ,
tu tuệ là học trình thứ lớp trí tuệ và năng lực tu học pháp Phật.
Người thiền hành sau khi tu được căn bản thiền định chín loại tâm trụ
thì phải thêm bước nữa, dốc sức vào việc nghiên cứu những lời dạy
trong kinh điển, đạt được những thành tựu “pháp trụ trí”
của văn tuệ và tư tuệ, mới có thể chứng đắc thánh quả “Niết-bàn
trí”
của tu tuệ.
Thiền, là cần chúng ta không trụ sinh tử, cũng không trụ Niết-bàn
(nirvana). Không trụ ở sinh tử, là muốn chúng ta dùng trí tuệ của
Bát-nhã (prajna) vượt qua sinh tử luân hồi; không trụ vào Niết-bàn, là
muốn chúng ta lấy tâm từ bi phục vụ quần chúng, cứu độ chúng sinh.
Vì thế, tập thiền hẳn không nên xem nhẹ việc giữ tịnh giới, tu từ bi.
Có thể giữ gìn tịnh giới, thân tâm thanh tịnh (trong sạch), tập định
sẽ dễ dàng thành tựu; có tâm từ bi, trong lòng thường khởi lên tâm
thương cảm, thì sẽ không đọa vào thiền cảnh khô mộc.
Chọn lựa môi trường (điều kiện) tọa thiền cũng là yếu tố vô cùng
quan trọng. Ví dụ, không nên ngồi thiền ở những nơi ẩm ướt hoặc nóng
nực, không khí phải lưu thông, độ sáng tối cần vừa phải, không ngồi ở
dưới đầu (nguồn) gió, đệm (bồ đoàn/tọa cụ) không nên quá mềm mại
hoặc quá cứng… Người mới học giả sử còn ở giai đoạn điều hòa thân,
để thích nghi dần, trong một ngày nên “ngồi nhiều lần, với thời gian
ngắn”. Tọa thiền có thể bố trí vào buổi sáng lúc mới thức dậy, ban
đêm trước khi đi ngủ, hoặc vào những ngày nghỉ lễ lúc nghỉ ngơi, đồng
thời nên tránh ăn uống quá no, thân thể mệt mỏi rã rời, hoặc ngồi
thiền sau khi vận động mạnh. Thêm nữa, người mới học tốt nhất nên
thường xuyên đến chùa viện tu chung với đại chúng, đợi sau khi hoàn
thành khóa huấn luyện cơ bản, hẵng ở nhà tu một mình.
Ở nhà tu thiền nên có nhân duyên trợ đạo (hỗ trợ tu hành) đầy đủ,
như: gần gũi thiện tri thức, bồi dưỡng từ bi, dừng ác làm thiện,
không bấu víu vào ngoại duyên (đến từ bên ngoài), khéo điều tiết việc
ăn uống, khéo điều phục việc ngủ nghỉ, trừ bỏ trạo hối cái,
lòng tin kiên định, lễ Phật sám hối, phát khởi Bồ-đề tâm mỗi ngày…
Trong quá trình tập thiền, nếu gặp phải nghiệp chướng hiện tiền, cần
phải khởi tâm sám hối hành vi đó, cũng như hành thiện pháp công đức,
bồi dưỡng hạt giống thiện, điều càng quan trọng hơn cả là, trong tư
tưởng phải nghe nhiều huân tập vô thường và giáo nghĩa Phật pháp duyên
khởi tính không; lập thời khóa biểu cố định khi ngồi thiền, phải
thường xem thân tâm của tự ngã ngay tại bây giờ như là đối tượng thiền
quán, tiến hành thể sát (quan sát, theo dõi và thể nghiệm) đối với
vấn đề vô thường, vô ngã, một khi phát hiện ra trí tuệ bát-nhã thì
nghiệp chủng khô héo, nghiệp chướng tự diệt vong. Đặc biệt tốt nhất
có thể tự lập ra biểu tu thiền và biểu ưu khuyết điểm, mỗi ngày tự
mình yêu cầu, đồng thời xem tọa thiền như là khóa học thông lệ. Nếu
có thể nương vào phương pháp tọa thiền đúng đắn, bền chí luyện tập,
với một khoảng thời gian dài, sẽ có một ngày tọa xuất yên tĩnh,
khinh an (prasrabdhi/ung dung an tường), hỷ duyệt (vui vẻ), tự nhiên có
thể thu được lợi ích của tọa thiền, kiến lập lòng tin của tọa
thiền.
Nguồn: Tinh Vân (2008), Phật giáo và thế tục, Nxb. Từ thư Thượng Hải,
tr.133-136.
Tứ thiền còn gọi là tứ tịnh lự, sắc giới định, tức là chỉ
cho sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, và tứ thiền của cõi Sắc
giới. Tứ thiền với tứ vô sắc định gồm: không vô biên xứ định,
thức vô biên xứ định, vô sở hữu xứ định, phi hữu tưởng phi vô
tưởng xứ định, hợp lại thành bát định. Tám phép định trên vượt
khỏi cõi Dục giới. Bốn phép đầu thuộc cõi Sắc giới, bốn phép sau thuộc
cõi Vô sắc giới, cho nên người ta gọi chung là Tứ thiền Bát định. Hành
giả khi nhập định siêu quá bát định trên là tu tiếp diệt tận định, thoát
ra khỏi ba cõi, không còn lăn lộn sanh tử, tức đắc quả Thánh A-la-hán,
Duyên giác, Phật.
Là một trong năm thứ phiền não che đậy (cái) tâm tánh, không cho
pháp thiện nảy nở, gồm:
1. Tham dục : tham muốn mọi thứ nhất là tình dục.
2. Sân nhuế : giận hờn, nóng nảy.
3. Thụy miên : biếng nhác mê ngủ.
4. Trạo hối : xao động, buồn rầu nơi tâm tướng.
5. Nghi pháp : nghi ngờ, nghi hoặc chánh pháp.