Tứ sinh và Tứ đế
ttu sinh
Tứ sinh và Tứ đế
Chân Hiền Tâm
TỨ SINH
Tứ sinh là thai sinh, noãn sinh, thấp sinh và hóa sinh.
Loài hữu tình sinh ra đều thông qua bốn cách này.
Sinh, là trước không nay có, ngay khi có gọi là sinh.
Đã gọi là chúng sinh thì đều phải sinh ra, nhưng cách sinh ra không đồng nhất mà
theo bốn cách trên.
Thai sinh,
như loài người ở trong thai mẹ, thành tựu hình thể trong đó rồi sinh ra.
Kinh Tăng nhất A-hàm I, phẩm Tứ đế, trang 548
ghi: “Người và súc sinh, cho đến loài hai chân, gọi là thai sinh”. Nói
chung, người hay vật, khi sinh ra thấy có đầy đủ hình thể rồi thì thuộc thai
sinh.
Noãn sinh,
như gà, chim, quạ, bồ câu, rắn, cá, kiến….
Khi sinh ra ở dạng trứng, thành tựu hình thể trong trứng rồi sinh ra, gọi là
noãn sinh.
Thấp sinh,
chỉ cho trùng trong thịt thúi, trong cầu tiêu, trong thây chết….
Đây chỉ cho các sinh vật dựa vào chỗ ẩm thấp mới thụ hình được. Kinh Thập nhị
nhân duyên gọi loại thấp sinh này là hàn nhiệt hòa hợp sinh. Nghĩa là, loài
nào cần phải có chỗ ẩm thấp làm duyên mới xuất hiện và tồn tại được thì gọi là
thấp sinh.
Hóa sinh,
như chư thiên, đại địa ngục, ngạ quỷ, và chúng sinh thuở kiếp sơ.
Gọi là hóa sinh, vì loại này có khả năng sinh hiện tức thời với đầy đủ các bộ
phận cùng các căn mà không cần đến bào thai, tinh huyết.
Theo luận Câu-xá
thì:
- Người và bàng sinh có đủ cả bốn cách sinh.
Người sinh từ thai như tất cả loài người hiện nay.
Người sinh từ trứng như Thế-la (Saila) và Ô-ba-thế-la (Upásaila) sinh ra từ
trứng chim hạt v.v... Tích này được lấy từ luận Bà-sa: Xưa có một thương nhân
vào biển bắt được một con hạt mái. Hạt sinh ra hai trứng. Trứng từ từ hấp thụ
hơi nóng sinh ra hai đồng tử thông minh, đẹp đẽ. Đứa lớn tên là Thế-la. Đứa nhỏ
tên Ô-ba-thế-la. Lớn lên cả hai đều xuất gia và chứng quả A-la-hán.
Người sinh ra từ sự ẩm thấp như Mạn-đà-la, Già-lô v.v…
Người sinh ra do hóa sinh, như loài người thuở kiếp sơ.
Với loài vật thì ba loại đầu đều đã thấy. Riêng hóa sinh thì có Rồng (Nāga)
và Yết-lộ-trà (Garuda).
- Chư thiên, địa ngục và trung hữu chỉ có hóa sinh.
- Quỷ thì theo hai loại sinh là thai sinh và hóa sinh. Nói thai sinh là lấy từ
tích một quỷ cái nói với ngài Mục-kiền-liên rằng: “Ban đêm ta sinh được 5 đứa
con trai, sinh được đứa nào ta liền ăn đứa đó. Ban ngày cũng sinh được 5 đứa,
cũng ăn hết, nhưng vẫn không no”.
Chỉ là duyên quyết định xuất hiện
Theo cách diễn giải đó thì tứ sinh là duyên giúp chúng sinh xuất hiện, không
phải là nhân tạo tác ra chúng sinh. Nhân tạo ra chúng sinh chính là nghiệp tập
nơi mỗi chúng sinh ấy. Luận Thành duy thức ghi: “Các nghiệp hữu lậu
thiện và bất thiện, do thế lực của phiền não chướng làm duyên trợ giúp mà chiêu
cảm ra quả Dị thục thô phù trong ba cõi với thân mạng sống lâu hay chết yểu. Do
sức nhân duyên mà có sự hạn định đó nên gọi là Phần đoạn sinh tử”.
Các nghiệp hữu lậu này cũng quyết định chúng sinh sinh theo cách nào.
Các loài thấp sinh là trùng trong cầu tiêu hay trong thây chết, nay gọi là giòi,
thì chỗ ẩm thấp dơ bẩn là duyên quyết định giúp chúng xuất hiện, không có duyên
ấy thì chúng không xuất hiện và tồn tại được, nên nói thấp sinh. Có bạn khi nghe
nói giòi thuộc thấp sinh, do rác rưới, thây chết phân hủy v.v… sinh ra, đã lắc
đầu không chấp nhận. Vì “khoa học đã chứng minh giòi là do trứng ruồi sinh ra,
do mầm trứng này có điều kiện ẩm thấp trợ duyên mà giòi xuất hiện, không phải do
ẩm thấp rác rưới tạo ra. Nếu không có mầm trứng này thì dù ẩm thấp bao nhiêu,
giòi cũng không xuất hiện được, nên nói giòi từ các thứ ẩm thấp như rác rưới,
thây chết phân hủy tạo thành là phản khoa học”.
Luận như vậy hoàn toàn chính xác. Nhưng nếu hiểu về duyên khởi thì sẽ thấy lời
Phật dạy không trái với khoa học, cũng không hề mâu thuẫn với lập luận đó. Nhân
tạo ra giòi là trứng ruồi, nhưng không có điều kiện ẩm thấp như phân dơ, thây
chết phân hủy v.v… thì mầm trứng ấy không thể nảy
sinh thành giòi. Tuy chỉ là duyên nhưng nó lại là duyên quyết định để chúng sinh
ấy xuất hiện, nên giòi tuy được sinh từ trứng ruồi, vẫn không được liệt vào noãn
sinh mà liệt vào thấp sinh. Nói thấp sinh là nói cách thức sinh của một sinh vật
có tên là giòi, không nói ruồi. Đó là lý do vì sao giòi tuy là một giai đoạn
trong quá trình tiến hóa của ruồi, nhưng không nói tam sinh mà nói tứ sinh, và
sự ẩm thấp dơ bẩn được nhấn mạnh như một cái nhân tạo ra giòi. Đây cần nên hiểu,
khi nói đến thấp sinh là đang nói về cái duyên quyết định việc xuất hiện của một
chúng hữu tình, nhấn mạnh sự xuất hiện này tồn tại trong một giai đoạn nào đó,
không phải nói hết thảy quá trình tiến hóa hay luân hồi của chúng sinh ấy.
Cách sinh chiếm ưu thế
Theo luận Câu-xá, trong Tứ sinh, hóa sinh là cách sinh tối thắng nhất,
cũng là cách có nhiều chúng sinh nhất. Vì nó bao gồm toàn bộ địa ngục, toàn bộ
các cõi trời, tất cả trung hữu, cộng thêm một phần các cõi khác.
Hậu thân Bồ-tát, vốn có lực tự tại đối với sinh tử, vào lần sinh cuối cùng, có
thể sinh ra theo cách hóa thân, nhưng chư vị chọn thai sinh, là vì lợi ích cho
chúng sinh ở thế gian. Luận Câu-xá ghi: “Bởi Bồ-tát nhìn thấy được lợi
ích lớn: Nhờ có liên hệ thân thuộc với Bồ-tát nên dòng tộc Thích-ca mới có thể
nhập vào
Chánh
pháp. Nhờ biết được Bồ-tát sinh từ dòng tộc Chuyển luân thánh vương nên mọi
người sinh tâm kính mộ. Nhờ thấy rằng Bồ-tát dù là người vẫn đã chứng đắc viên
mãn nên chúng sinh phát khởi tâm tăng thượng…”.
TỨ ĐẾ
Nói đến Tứ đế khi nói về Tứ sinh, vì trong kinh Phật dạy: “Này các Tỷ-kheo!
Muốn xa lìa bốn thứ sinh này, hãy tìm phương tiện thành tựu pháp Tứ đế. Như thế,
này các Tỷ-kheo, hãy học điều này”.
Muốn liễu thoát sinh tử, tức thoát bốn cách sinh thì cần tìm phương tiện thành
tựu pháp Tứ đế này.
Tứ đế là khổ, tập, diệt, đạo.
Tùy tâm chúng sinh mà cùng là khổ, tập, diệt, đạo mà có thô tế không đồng.
Gọi là đế vì nó có ở thế gian này, thật có, không hư dối, là lời của Thế Tôn,
nên gọi là đế.
Nói “thật có” là trong cái duyên ở thế gian. Đã nói trong duyên thì Tứ đế là
pháp nhân duyên, tức “thật có” là ứng với với cái duyên chúng sinh thế gian mà
hiện. Không có duyên đó thì cái “thật có” ấy cũng mất. Cho nên nói “thật có” mà
không nên chấp vào “thật có”. Nếu chấp thì Tứ đế thành có tánh. Song pháp nhân
duyên thì không tánh. Vì thế Trung luận
phá
Tứ đế, là phá tướng Tứ đế để hiển tánh của Tứ đế, chính là tánh không, tánh của
tất cả vạn pháp, cũng gọi là Phật tánh mà Phật và chúng sinh đồng sở hữu.
Khổ đế
Cùng là khổ, nhưng tùy tâm chúng sinh
mà có thô tế không đồng. Có cái khổ của Phần đoạn sinh tử. Có cái khổ của Biến
dịch sinh tử. Phần đoạn sinh tử là cái khổ của phàm phu. Biến dịch sinh tử là
cái khổ của A-la-hán, Bích chi Phật và Bồ-tát ý sinh thân.
Thánh nhân mà nói khổ, là so với cái lạc rốt ráo của chân thể thanh tịnh mà nói.
Chư vị vẫn còn chịu sự biến dịch vi tế của dòng chủng tử, quả chẳng lìa nhân,
nên nói khổ. Không phải khổ có định tánh. Trong phạm vi bài này, chỉ khai triển
cái khổ của phàm phu.
Khổ của phàm phu là sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, lo buồn khổ, oán ghét
gặp gỡ khổ, thương yêu xa lìa khổ, cầu không được khổ, ngũ ấm bất hòa khổ. Nói
chung, thứ gì ở thế gian này cũng dễ dẫn đến khổ nếu tâm chưa hết dính mắc. Bởi
khổ duyên khởi với sướng. Tìm cầu sướng thì khổ khó thoát. Thành sinh khóc, tử
khóc. Sinh không khóc cũng đập cho khóc, cho thích ứng với cái khổ ở thế gian
này. Nói khổ đế, vì thật có những cái khổ đó ở thế gian, nhất là với thế giới
Sa-bà. Cõi trời, tuy mọi thứ đều được như ý nhưng cũng không thoát được tử. Đó
là khổ. Chưa kể cái như ý ấy lại là đầu mối của những khổ nạn sau này. Vì tâm
chúng sinh, mọi thứ khi đã như ý thì đa phần ít nghĩ đến thiện nghiệp, cũng
không có điều kiện để tạo thiện nghiệp. Sướng quá thì khi khổ, khổ thành
gấp
bội. Như ý quá, nhẫn thành không lực. Mọi thứ đều được lưu giữ trong tạng thức.
Khi hết phước cõi trời, thọ sinh vào nhân gian, có bất như ý xảy ra dù chỉ một
chút, tâm cũng dễ sinh bất mãn hay sân hận. Sướng và khổ ở thế gian duyên khởi
với nhau như thế, nên một khi chưa tự thoát khỏi thế đối đãi ấy thì khó mà không
khổ, nên nói khổ đế.
Giờ muốn thoát khổ thì phải tìm ra nguyên nhân của khổ, giải quyết cái gốc ấy
thì khổ mới dứt. Như đau bụng thì phải tìm ra nguyên nhân do đâu đau bụng. Do
trúng thực mà đau bụng hay do sán lãi mà đau bụng.
Nhân tương ưng với quả phải được tìm thấy chính xác thì bệnh trị mới lành, khổ
theo đó mới dứt. Phàm phu khổ nhưng do không nắm được chính xác nhân duyên khiến
mình khổ nên chạy từ khổ này sang khổ kia, khổ này nối tiếp khổ khác.
Tập đế
Phật nói Khổ là do Tập, và gọi là Khổ tập đế. Đó là “ái và dục tương ưng, tâm
thường nhiễm trước”.
Tập trong phạm vi bài này được nhấn mạnh ở mặt ái dục và thường nhiễm trước. Đây
là nói về tập của phàm phu, nhân duyên đưa đến cái khổ Phần đoạn sinh tử của
chúng sinh.
Tập, nghĩa của nó là tích tụ. Mọi nhân duyên đều được tích tụ lại trong tạng
thức. Mọi hành vi, lời nói, tạo tác… một khi được huân tập hoài sẽ thành có lực,
có thể dẫn chúng sinh luân hồi trong sinh tử. Tức các tạo tác ấy nếu được lặp đi
lặp lại thành thói quen hoặc được trợ duyên bằng các lời nguyện thì sẽ xuất hiện
thế giới và chúng hữu tình. Nguyện là một hình thức khác của dục. Dục là mong
muốn. Khi dục đi liền với ái thì những dục ấy có liên quan đến ái, mang tính
chất của ái nghiệp. Hành dâm là một trong các hình thức của dục khi dục đi liền
với ái.
Ái, là yêu thương, mà mặt duyên khởi của nó là ghét. Vì thế nói đến yêu thương
cũng là nói đến ghét. Khi đã nói đến thương hay ghét, tức đã có sự nhiễm trước.
Thương ghét nói đây, không phải chỉ nói ở đối tượng là con người mà đối với lục
trần còn lại
(trong đó có ngũ dục).
Còn thương ghét là còn nhiễm trước. Còn nhiễm trước thì còn sinh tử.
Phần đoạn sinh tử của chúng sinh là do nghiệp hữu lậu làm nhân, phiền não chướng
làm duyên mà thành hình. Nghiệp hữu lậu là các nghiệp thiện và bất thiện được
tạo tác thông qua ba nghiệp thân, khẩu, ý. Phiền não chướng là tham, sân, si.
Tham và sân đều do ái mà có. Thương thích thì sinh tham, muốn nắm giữ. Ghét bỏ
mà cận kề thì sinh sân, muốn đẩy đi. Nhiều việc đáng tiếc xảy ra là do thương và
ghét. Thương mà không thỏa mãn cũng giết. Ghét mà phải thân cận cũng giết. Nên
vợ giết chồng, hàng xóm láng giềng giết nhau. Với lục trần còn lại cũng vậy.
Nghe một tiếng không vừa lòng liền sinh tâm oán hận, giết toàn bộ gia đình gia
chủ. Thích tiền bạc, nhà lầu, xe hơi, ăn ngon, mặc đẹp, nên sinh cửa quyền, tham
ô, trộm cướp, hàng gian, hàng giả, nẩy sinh bao điều đáng tiếc. Tất cả đều do
dục ái và nhiễm trước mà ra. Biết bao cái khổ hiện khởi khi ái là nhân duyên,
dục ái là nhân duyên.
Ái cũng là một chi trong Thập nhị duyên sinh. Do Vô minh mà có Ái, do Ái mà sinh
Thủ, do Thủ mà sinh Hữu, từ đó có sinh, lão, bệnh, tử. Trong giai đoạn sinh tử
ấy, đối duyên tiếp cảnh, như ý và không như ý xuất hiện mà tạo nghiệp vô vàn.
Kinh Thắng Man phu nhân hội phân phiền não chướng thành hai là Trụ địa
phiền não và Biến khởi phiền não. Gọi là Trụ địa vì nó là nền tảng để Biến khởi
phiền não xuất hiện. Biến khởi phiền não là những phiền não hiện hành mà chúng
ta có thể cảm nhận được như vui, buồn, khổ, lo v.v… Từ những biến khởi đó mà ta
tạo nghiệp thiện hay bất thiện.
Biến khởi phiền não thì dễ nhận thấy nhưng Trụ địa phiền não thì khó biết.
Trụ địa phiền não có bốn: 1/ Kiến nhất xứ trụ địa. 2/ Dục ái trụ địa. 3/ Sắc ái
trụ địa. 4/ Hữu ái trụ địa.
- Kiến nhất xứ trụ địa chỉ cho kiến hoặc trong tam giới. Tam giới là Dục giới,
Sắc giới và Vô sắc giới (Hữu giới). Đó là những định kiến hay quan điểm được lưu
giữ trong tạng thức qua bao đời do kinh nghiệm, học hỏi, tu chứng v.v… Kiến
nhất xứ trụ địa là kim chỉ nam dẫn đường cho Ái trụ địa thuộc ba cõi sinh khởi.
- Dục ái trụ địa là nói đến tư hoặc ở Dục giới. Ở cõi Dục thì dục ái là nặng nên
nói Dục ái trụ địa. Chính là phần dục ái Phật đã nói trên. Do phần huân tập lưu
giữ này mà nảy sinh sự nhiễm trước khi căn tiếp xúc với trần. Như người miền Bắc
có gu ăn uống khác người miền Nam. Cái gu đó là thứ được huân tập thành thói
quen của từng miền. Người miền Nam khi ra Bắc sống, nếu thấy chướng ngại trong
việc ăn uống, là do bị phần Dục ái trụ địa này chi phối, thói quen được huân tập
đã có lực, nên gặp duyên không đồng, liền sinh chướng nghịch. Đi đâu xa trở về
quê hương, thấy trong lòng như có cái gì thân thương quen thuộc, đều là hình
thức của Biến khởi phiền não mà Dục ái trụ địa là nền tảng.
- Sắc ái trụ địa và Hữu ái trụ địa là Ái trụ địa thuộc Sắc giới và Vô sắc
giới.
Kiến hoặc thì dễ trừ mà tư hoặc thì không thể một lần dứt diệt. Cho nên, trong
hai loại kiến và ái nói đây, kiến dù thay đổi rồi thì ái có khi vẫn chưa giải
quyết xong. Tức lý thông rồi, trên sự vẫn còn vướng. Là do phần Dục ái trụ địa
này. Tu hành rồi, thông được thế gian là vô thường, có sinh là có tử, mạng sống
chỉ tính trên từng hơi thở… nhưng đối diện với cái chết của người thân hay bạn
bè, vẫn nảy sinh việc đau lòng là do kiến hoặc thì thông mà tư hoặc thì chưa
giải quyết được. Dục ái trụ địa vẫn còn nên Biến khởi phiền não như đau buồn,
thương xót xuất hiện. Việc này có liên quan ít nhiều đến những mối nhân duyên đã
tích tụ trong tạng thức. Cho nên, có cái chết không làm ta đau xót mà cũng có
cái chết làm ta đau xót. Đều do Dục ái trụ địa phiền não này trợ lực.
Như vậy, muốn liễu thoát sinh tử, muốn không còn sinh thì trước hết phải hiểu từ
đâu có sinh. Đó là do Tập, chính là Tứ trụ địa phiền não nói trong kinh Thắng
Man. Tứ trụ địa phiền não còn thì khi đủ duyên Biến khởi phiền não sinh
khởi. Biến khởi phiền não sinh khởi thì biết cái gốc Tứ trụ địa phiền não chưa
giải quyết xong. Tất cả đều lấy Căn bản vô minh làm chỗ y chỉ. Căn bản vô minh
này y nơi chân thể thanh tịnh mà có. Do chân thể không tánh, bất giác huân thành
vô minh mà tâm biến thành thức, Tam tế và Lục thô hiện khởi.
Do việc y chỉ đó, diệt Ngũ trụ địa thì thể nhập lại nguồn cội chân thể của chính
mình, không rơi vào ngoan không.
Cần phải hiểu về Tập, về nguồn gốc của Tập, về sinh khởi của Tập thì mới biết mà
diệt Tập. Diệt được tập thì khổ mới hết, Tứ sinh mới dứt. Đó là lý do nói đến
Diệt đế.
Diệt đế
Diệt đế, còn gọi là Khổ diệt đế. Kinh nói: “Diệt đế là dục ái diệt hẳn không
còn và không tạo lại nữa. Đó là Khổ diệt đế”. Khi Dục ái được diệt tận,
không còn duyên để sinh khởi tạo tác thì hành giả đạt được thứ gọi là liễu thoát
sinh tử. Đó là quả chứng tối cùng của hàng Thanh văn và Duyên giác.
Với hàng Bồ-tát, do thấu được tánh vạn pháp là không, ta và người cùng thể không
hai, khởi đại bi hành Bồ-tát đạo, diệt ái là do trí hiện mà ái thành bi, nên
lòng thương xót đối với chúng sinh thì còn mà không nhiễm trước dính mắc. Do đó,
liễu thoát sinh tử của Bồ-tát là không bỏ sinh tử mà cầu Niết-bàn, lưu hoặc dùng
nguyện độ sinh, ngay khi sinh mà vẫn không sinh.
Luận Thành Duy thức
nói: “Niết-bàn vô trụ xứ là chân như thoát cả sở tri chướng, có đại bi
và Bát-nhã thường phụ giúp. Do đó không trụ sinh tử cũng không trụ Niết-bàn, lợi
lạc hữu tình tột cùng đời vị lai. Tuy ứng dụng mà thường tịch lặng, nên gọi là
Niết-bàn”.
Muốn được Niết-bàn này, chúng ta phải chứng cho được cái nhân Phật tánh, nhà
thiền gọi là kiến tánh. Kinh Lăng-già nói: “Phật tánh là nhân.
Niết-bàn là quả”. Cũng nói: “Tướng tự giác thánh trí cứu cánh, là ở tất
cả chỗ, chứng được cảnh giới tự tâm hiện lượng, đạt tất cả pháp không ngăn ngại,
được thân như huyễn, viên mãn Phật địa”.
Muốn
thành tựu Diệt đế thì phải có phương tiện giúp chuyển diệt dục ái và nhiễm
trước. Đó là lý do nói đến Đạo đế.
Đạo đế
Đạo là phương cách giúp hành giả diệt Tập, còn có tên là Khổ xuất yếu đế. Trong
phạm vi bài viết này, Đạo được nói đến là Bát chánh đạo. Đó là chánh kiến, chánh
tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh
định.
Thực hiện được chánh kiến, chánh tư duy, chánh niệm, chánh định thì thanh tịnh
được ý nghiệp.
Thực hiện được chánh ngữ thì thanh tịnh được khẩu nghiệp.
Thực hiện được chánh mạng, chánh nghiệp thì thanh tịnh được thân nghiệp.
Chánh tin tấn thì thông cả ba nghiệp. Không có phần chánh tinh tấn này thì khó
mà thanh tịnh được tam nghiệp. Bởi nghiệp sinh tử huân tập đã lâu, lực dẫn đã
mạnh, không có chánh tinh tấn thì khó mà ngược dòng hoàn tịnh, tiêu trừ ái dục
nhiễm trước.
Nêu chánh kiến đầu vì ý nghiệp là chủ trong ba nghiệp. Thiền sư Huyền Giác nói:
“Tà niệm làm nhân duyên hay sinh ra muôn điều ác. Nhờ chánh quán làm nhân
duyên hay khởi lên vạn điều thiện”.
Thiện này, không trụ ở nghiệp sinh tử mà giúp giải thoát khỏi tam giới, nên nội
dung của chánh kiến, chánh tư duy v.v… cũng tập trung cho phần tu giải thoát.
Chánh kiến,
là cái thấy chân chánh. Cái thấy nào phù hợp với lý thật ở thế gian thì cái thấy
ấy được gọi là chánh kiến. Chánh kiến nói đây không chỉ dừng trụ ở phước báu
trời người mà để liễu thoát sinh tử, nên nó phải được y chỉ trên viễn ly, vô
dục, diệt và hướng đến xả.
Tin nhân duyên, nhân quả, tin có các quả vị tu chứng, tin hiểu Tứ đế, Thập nhị
duyên sinh v.v… đều gọi là có cái thấy chân chánh.
Với hàng Bồ-tát tịnh tu thánh đạo thì chánh kiến còn là sự tin nhận chúng sinh
và Phật đồng một tánh thể, thấy mình và người không khác, sắc và tâm không hai,
Bồ-đề phiền não bản tánh không khác, sinh tử Niết-bàn bình đẳng nhất chiếu.
Cũng thấy “Diệu tướng thì bặt danh. Chân danh thì chẳng phải tự. Vô vi tịch
diệu vi diệu tột cùng bặt tướng lìa danh, đường tâm ngôn dứt…”.
Cũng thấy “Ba cõi không có pháp riêng, chỉ do một tâm tạo tác. Tâm là căn bản
của vạn pháp, lìa ngã, ngã sở…” v.v… Tin hay quán thấy vậy, gọi là chánh kiến.
Chánh tư duy,
là chỉ cho những tư duy phù hợp với chánh lý. Tư duy, là đối với cảnh trước mắt,
y lý mà suy xét nhận định cho thấu đáo. Đối với việc nghe pháp hay đọc kinh thì
nên suy xét và chọn lọc những điều đã đọc và nghe, sao cho phù hợp với căn cơ
của mình để còn ứng dụng. Vì pháp thế gian là pháp Duyên khởi. Pháp môn hay kinh
luận là do ứng cơ với chúng sinh mà lập. Nên tuy kinh luận là vô số, pháp môn là
vô lượng, nhưng không phải thứ nào cũng ứng dụng được. Muốn có lợi ích, đòi hỏi
phải có sự suy xét chọn lọc các pháp phù hợp với căn cơ của mình. Dụng pháp sai
cơ, vừa không có lợi ích, có khi còn sinh bệnh. Chẳng hạn, Thiền sư Huyền Giác
nói: “Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân/ Chẳng trừ vọng tưởng, chẳng cầu chân”.
Nếu không tư duy kỹ càng, kẻ sơ cơ cứ theo pháp ấy mà dụng, thì vọng chẳng trừ,
nghiệp thế gian cứ thế mà tương tục, nhưng vẫn cho mình đang công phu. Đến khi
đối duyên tiếp cảnh, nội lực chẳng có, sự sinh rồi sinh sự, dễ mất niềm tin vào
Chánh pháp mà đọa lạc. Cho nên, phần Chánh tư duy này được lập thành một
chi trong Bát chánh đạo và quan trọng không kém phần Chánh kiến. Tư duy ở
đây là phải thấy cái duyên đi kèm với việc “chẳng trừ vọng tưởng” chính là
“Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân”. Nên pháp ấy không phải dành cho kẻ sơ cơ mà
dành cho hàng đạo nhân tuyệt học, là hàng mà vọng tưởng hiện hành không còn
tương tục.
Chánh tư duy được thì chánh niệm, chánh ngữ v.v… hình thành.
Chánh ngữ,
là lời nói phù hợp với chánh lý. Phù hợp với chánh lý thì không thể bỏ qua mặt
duyên khởi của pháp, chính là mặt tùy duyên của pháp.
Lời nói chánh lý là lời nói được sử dụng đúng thời, đúng đối tượng, mang lại lợi
ích cho người hữu duyên. Vì thế, trong phần “Thế nào là tịnh tu khẩu nghiệp?”,
tuy ngài Huyền Giác dạy bốn pháp chánh là lời ngay thẳng, lời dịu dàng, lời hòa
hợp, lời đúng như thật, nhưng trên sự, chúng ta vẫn thấy chư vị thiền sư la,
hét, đánh, mắng. Đó là do ứng với duyên của chúng sinh mà có pháp, không phải
dạy một đường làm một nẻo. Chỉ là tùy duyên mà dụng pháp sao cho chúng sinh được
lợi ích nhất. Khi đang còn trong duyên tu hành thì cần dụng pháp đối trị tập
bệnh của bản thân. Khi tập bệnh hết, trong cái duyên là giáo hóa thì tùy căn cơ
chúng sinh mà có pháp. Pháp nào mang lại kết quả tốt, pháp ấy được dùng, chẳng
kể là nghịch hay thuận. Nên hiện thân của bi từ có thể là Quán Thế Âm, cũng có
thể là Tiêu Diện Đại sĩ (Ông Ác được thờ trong các chùa).
Bốn pháp chánh dùng để đối trị bốn pháp tà là:
1/ Lời ngay thẳng, là lời nói đúng pháp khiến người nghe tin hiểu rõ ràng, nói
đúng lý kiến người nghe trừ hết nghi lầm. Dùng để trừ lời thêu dệt.
2/ Lời dịu dàng, là lời an ủi khiến người nghe vui vẻ gần gũi, lời thanh nhã
khiến người nghe yêu thích tu tập. Dùng để trừ lời hung ác.
3/ Lời hòa hợp, là thấy người đấu tranh thì can gián khuyên nên xả bỏ, thấy
người thối tâm Bồ-đề thì khéo nói việc mê ngộ cho người hiểu. Dùng để trừ nghiệp
hai lưỡi.
4/ Lời đúng như thật, là có thì nói có, không thì nói không, phải thì nói phải,
quấy thì nói quấy, cần nói đúng thời. Dùng để trừ lời nói dối.
Thực hiện được bốn pháp ấy thì có chánh ngữ.
Chánh nghiệp,
là lìa sát, đạo, dâm, thường tu hạnh thanh tịnh. Ngày đêm chuyên cần hành đạo lễ
bái. Tiết kiệm thân miệng không sinh sự xa hoa thái quá. Ít muốn, biết đủ. Thân
mặc y phục như che ghẻ lở. Miệng ăn thức ăn ngon như dùng thuốc trị bệnh, không
theo sự mà tham đắm. Quý pháp khinh thân. Siêng năng cầu pháp tối thượng. Đó gọi
là chánh nghiệp. Tại gia hay xuất gia, muốn tự tại với sinh tử đều phải y đó mà
hành.
Chánh mạng,
là thuận theo Chánh pháp mà nuôi thân mạng, chẳng cầu nghiệp bất chánh để nuôi
thân mạng. Với hàng Sa-môn, vì để trị bệnh mà nhận bốn sự cúng dường, không vì
tham đắm chất chứa, không dùng chú thuật bùa ngãi mà nuôi thân, chất chứa tài
vật.
Chánh niệm,
kinh Tương ưng bộ ghi: “Ở
đây, này các Tỷ-kheo! Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm, với mục đích điều phục tham ưu ở đời. Tỷ-kheo sống quán thọ trên các
thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời.
Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích
điều phục tham ưu ở đời. Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh niệm”.
Đây là ứng dụng bài kinh Tứ niệm xứ trong tu tập hằng ngày để có chánh
niệm, lấy đó làm chánh niệm.
Ngài Huyền Giác nói, người mới phát tâm chẳng nên có ba thứ ác, thiện và vô ký.
Đó là không nghĩ tưởng đến các nhân duyên như ngũ dục thế gian, cũng không nghĩ
đến các việc tạp thiện ở thế gian, cũng không rơi vào hôn trầm.
Cũng nói, hành giả lúc mới tọa thiền, chẳng nên nghĩ đến việc thiện ác ở thế
gian, cũng không rơi vào vô ký. Dụng công ngay chỗ này, gọi là tức tịnh. Một
niệm tức tịnh là thuốc, dùng đó trị các niệm cố khởi, quán tập, tiếp tục và biệt
sinh. Cố khởi, là khởi tâm nghĩ đến ngũ dục thế gian và các việc tạp thiện. Quán
tập, là vô tâm chợt nghĩ các việc thế gian. Tiếp tục, là tập quán chợt khởi,
thấy tâm dong ruổi tán loạn mà chẳng chế ngự cho dừng lại, vẫn nghĩ tưởng theo
các niệm trước.
Giờ dùng niệm tức tịnh trị bốn niệm kia. Hành được, ấy là chánh niệm. Có thể y
đó mà hiểu chánh niệm và thực hành chánh niệm.
Chánh định,
với kinh Tương ưng bộ là trạng thái tâm khi hành giả an trú Sơ thiền cho
đến Tứ thiền. Với cái nhìn của Đại sư Hiền Thủ, Tổ thứ ba tông Hoa Nghiêm thì
“Tham, sân, si dần nhạt mỏng, ấy là chánh định”. Định mà gọi là chánh định
thì định này phải có chánh kiến, chánh niệm v.v… đồng hành. Không sẽ rơi vào tà
định của ngoại đạo. Đó là, lóng lòng dứt vọng trí tuệ phát sáng, nước định lóng
trong soi tỏ muôn tượng, diệu tánh thiên nhiên vốn chẳng phải động.
Định như vậy mới gọi là chánh định.
Mọi pháp môn của Phật Tổ đều không ra ngoài việc giúp chúng sinh thành tựu Bát
chánh đạo. Thành tựu được Bát chánh đạo cũng là thành tựu pháp Tứ đế, giúp Thanh
văn và Duyên giác chấm dứt luân hồi sinh tử, giúp Bồ-tát vững nguyện bi từ, an
vui trong sinh tử khổ đau.
Luận Câu-xá. Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakosá của Bồ-tát
Thế Thân. Bản dịch Hán là A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền
Trang. Đạo Sinh Việt dịch.
https://www.yumpu.com/xx/document/view/15913569/download-chua-vien-giac/17
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakosá của Bồ-tát Thế Thân. Bản dịch
Hán là A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang. Đạo Sinh Việt
dịch.
https://www.yumpu.com/xx/document/view/15913569/download-chua-vien-giac/17
Luận Câu-xá. Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakosá của Bồ-tát
Thế Thân. Bản dịch Hán là A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền
Trang. Đạo Sinh Việt dịch.
https://www.yumpu.com/xx/document/view/15913569/download-chua-vien-giac/17