Khái niệm trung đạo của Phật giáo Nguyên thủy và những phát triển về sau
khai niem
Khái niệm trung đạo của Phật giáo Nguyên thủy và
những phát triển về sau
David J. Kalupahana* – Nguyên Hiệp dịch
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo
và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái
diễn trong lịch sử tư tưởng Phật giáo. Như những người nghiên cứu triết học Phật
giáo biết rõ, những tông phái khác nhau của truyền thống A-tỳ-đàm (Abhidharma),
bất chấp những bất đồng giáo thuyết đáng kể giữa họ, tất cả đều tuyên bố rằng họ
bảo lưu giáo thuyết của Đức Phật nguyên gốc nhất. Những tông phái Đại thừa, chấp
nhận những quan điểm triết học phần nào khác với quan điểm triết học của
A-tỳ-đàm, cho rằng họ trình bày những giáo thuyết chân thực của Phật. Nhiều học
giả hiện đại cũng cố gắng đưa ra một mối liên hệ mật thiết giữa tông phái mà họ
chấp nhận và Phật giáo Nguyên thủy. Trong bài viết này, tôi sẽ chỉ ra rằng Phật
giáo sơ kỳ, như được thể hiện nơi các Nikāya và A-hàm Hán ngữ, mà chúng được tất
cả những tông phái khác nhau thừa nhận như là đại diện cho những nguồn tài liệu
sớm nhất cho việc nghiên cứu Phật giáo, phần nào khác với tất cả những tông phái
này, ít nhất là nơi nội dung triết học có liên quan ở bài viết này.
Mặc dù một số tông phái phát triển về sau không
thừa nhận tất cả những bản kinh có mặt trong các Nikāya và A-hàm
là chân thực, may mắn là có ít nhất một bản kinh thể hiện tính chân thực đến độ
tất cả những tông phái Phật giáo, cả Tiểu lẫn Đại thừa, nghiên cứu nó với sự tôn
kính. Ngay cả triết gia Đại thừa xuất chúng như Nguyệt Xứng (Candrakīrti) cũng
thừa nhận nó.
Thêm nữa, bản kinh này đề cập đến học thuyết căn bản nhất trong Phật giáo, và do
đó, bất kỳ những khác nhau nào mà nó có thể được ghi nhận liên quan đến việc
giải thích những quan điểm này được đưa ra ở đây sẽ chỉ ra sự khác nhau tồn tại
giữa những hình thức sơ kỳ và về sau của Phật giáo. Bản kinh này được gọi là
kinh Chánh kiến (Kaccāyanagotta-sutta; Long Thọ [Nāgārjuna] gọi nó là
Kātyāyanāvavādasūtra) và được đưa vào trong Tương ưng bộ
(Samyutta-nikāya)
và Tạp A-hàm.
Bản kinh này, như được thấy trong Nikāya Pāli, là như sau:
“Trong khi Đức Thế Tôn ở tại Sāvatthi, Tôn giả
Kaccāyana (Ca-chiên-diên) đến viếng thăm Ngài; và sau khi đảnh lễ Ngài, thầy
ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, thầy bạch Đức Thế Tôn, “Bạch Đức
Thế Tôn, con nghe cụm từ ‘chánh kiến, chánh kiến’. Vậy thế nào là chánh kiến?
Này Kaccāyana, thế giới này thường y cứ vào hai
thái cực/cực đoan này: có (atthitā)
và không có (n’tatthitā). Này Kaccāyana, ai với chánh trí tuệ thấy như
chơn thế giới tập khởi, vị ấy không chấp nhận thế giới là không có. Này
Kaccāyana, ai với chánh trí tuệ thấy như chơn thế giới đoạn diệt, vị ấy không
chấp nhận thế giới là có.
Này Kaccāyana, chấp thủ phương tiện và bị thiên
kiến trói buộc, phần lớn thế giới này là vậy. Và ai với tâm không trú trước,
chấp thủ phương tiện ấy, không chấp thủ thiên chấp tùy miên ấy, không có chấp
trước, không trú trước, vị ấy không có nghĩ: ‘Đây là tự ngã của tôi’. Khi khổ
sanh thì xem là sanh, khi khổ diệt thì xem là diệt; vị ấy không có nghi ngờ,
không có phân vân, không duyên vào ai khác, trí ở đây là của vị ấy. Cho đến như
vậy, này Kaccāyana là ‘chánh tri kiến’.
Này Kaccāyana, ‘tất cả có’ (sabbaṃ
atthi) là một cực đoan. ‘Tất cả không có’ (sabbaṃ n’tatthi) là cực
đoan thứ hai. Xa lìa hai cực đoan ấy, này Kaccāyana, Như Lai thuyết pháp theo
trung đạo. Vô minh duyên hành. Hành duyên thức... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này
tập khởi. Nhưng do ly tham, đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn, nên các hành
diệt. Do các hành diệt nên thức diệt... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn
diệt.”
Bản kinh này đề cập đến hai học thuyết triết học,
hiện hữu hay có (atthitā, Sk. astitā, Hán:有/hữu)
và không hiện hữu hay không có (n‘atthitā, Sk. nāstitā, Hán:無有前後/vô
hữu tiền hậu). Không khó khăn gì trong việc
nhận diện hai học thuyết này.
Học thuyết đầu là của Upaniṣad truyền thống mà nó chủ trương rằng vạn vật trong
cuộc đời này đều lấp đầy (pūrṇa) với một thực tại mà nó là cơ sở sau cùng
của hiện hữu (astitva). Nó là “cái ngã” thường hằng, vĩnh cữu và thật có,
gọi khác là Ātman hay Brahman. Do đó, Đức Phật phê bình rằng học thuyết “hữu”
này đưa đến niềm tin vào sự thường hằng (sassata, Sk. śaśvat, Hán:常住/thường
trụ). Thứ hai là học thuyết của những nhà
Duy vật, bất chấp học thuyết định mệnh tự nhiên (svabhāva-vāda) của họ,
là những người được xem theo thuyết đoạn diệt (ucchedavādin) bởi vì họ
phủ nhận nhân quả của hành xử đạo đức v.v… Ngoài ra, những nhà Duy vật cũng phủ
nhận sự hiện hữu của một thực tại, điều mà những nhà tư tưởng Upaniṣad thừa
nhận, và do đó được gọi phổ biến là “những người theo thuyết hư vô” (n‘atthika-vāda).
Đức Phật, trong khi tránh phê bình quan niệm định mệnh tự nhiên của họ,
xem học thuyết của họ như là học thuyết hư vô chính yếu bởi vì sự phủ nhận tự do
ý chí và trách nhiệm đạo đức của họ. Những lý do của Đức Phật đối với việc bác
bỏ cả hai thuyết này rất quan trọng.
Hai thái cực có và không bị bác bỏ bởi vì chúng
trái ngược với nhận thức của một người mà họ hiểu các sự vật như chúng là, tức
là, nhận thức về sự chấm dứt (nirodha) và sinh khởi (uppāda). Sinh
khởi và chấm dứt, rõ ràng, là những sự thật thực nghiệm và do đó, luận cứ cho
việc bác bỏ hai thái cực là theo kinh nghiệm. Đức Phật không chỉ phải viện đến
những luận cứ thực nghiệm cho việc bác bỏ hai thái cực siêu hình này, mà Ngài
cũng thay thế chúng bằng một quan điểm kinh nghiệm. Như vậy, “con đường trung
đạo” (majjhimā paṭipadā, Sk. madhyamā pratipat, Hán:
中道)
ở giữa hai thái cực có và không được trình bày theo quan hệ nhân quả hay “duyên
sinh” (paṭiccasamuppāda) mà nó giải thích cách các pháp trong thế giới
sinh khởi và diệt mất. Khái niệm “tùy thuộc” (pratītya) có thể giúp Đức
Phật tránh hai giả định siêu hình về quan hệ nhân quả, đó là (a), sự có mặt tiềm
tàng của quả ở trong nhân, do đó có sự nối kết có thật giữa chúng; hoặc (b), sự
không có mặt của quả và do đó không có mặt bất kỳ sự nối kết nào giữa nhân và
quả.
Không có bất kỳ sự tranh cãi nào về thông điệp của
bản kinh. Đây là một phát biểu dễ hiểu và rõ ràng về một học thuyết quan hệ nhân
quả thực nghiệm mà nó tránh xa hai quan điểm siêu hình là thường hằng và đoạn
diệt. “Thuyết tùy thuộc”, trong một ngữ cảnh như vậy, giải thích liên hệ nhân
quả trong số những yếu tố hiện hữu vô thường.
Đây là “con đường Trung đạo” mà Đức Phật tuyên bố
đã khám phá ra dưới cội bồ-đề. Chính quan điểm triết học Trung đạo này đã trở
thành cơ sở của con đường đạo đức về sự “tiết độ” giữa hai thái cực khổ hạnh ép
xác và thụ hưởng dục lạc, điều hình thành nên chủ đề bài pháp đầu tiên của Ngài,
kinh Chuyển pháp luân (Dhammacakkapavattana-sutta).
Trong những bản kinh sơ kỳ, Trung đạo này không bao giờ được giải thích như là
điều không thể định nghĩa được (anirvacanīya) hay là không thể diễn tả
được (avācya). Nhận xét duy nhất là rằng nó “vượt qua phương diện logic”
(atakkāvacara, Sk. atarkāvacara), nhưng vì những lý do rất cụ thể.
Nó là một học thuyết “thâm sâu, khó hiểu, khó lĩnh hội, tịch tịnh, vi diệu, vượt
qua suy biện, vi tế, nhưng dễ học”, tuy nhiên là một “vấn đề không dễ hiểu bởi
những người say mê trong chấp thủ, những người hân hoan trong chấp thủ.”
Luận điểm dường như rằng nếu một người quá chấp chặt vào một học thuyết nào đó,
thì khó có thể thuyết phục vị ấy về sự thật của bất kỳ học thuyết nào khác. Do
đó, đối với những ẩn sĩ hay Bà-la-môn chìm sâu trong những quan kiến siêu hình (diṭṭhi,
Sk. dṛṣṭi, Hán:見/kiến),
“duyên khởi” (paṭiccasamuppāda) là một học thuyết khó chấp nhận. Cũng như
vậy “Trung đạo” trong Phật giáo sơ kỳ.
Những truyền thống A-tỳ-đàm mà chúng đã phát triển
học thuyết về sát-na (kṣaṇa) và cực vi (paramāṇu) đối mặt với
nhiệm vụ phần nào khó khăn trong việc giải thích sự tương tục nhân quả.
Một trong những cách thức mà ở đó những học giả cố gắng giải quyết vấn đề tương
tục của thế giới hiện tượng (dharma) tồn tại chóng vánh là bằng việc chấp
nhận học thuyết tánh (svabhāva; tự tính) và tướng (lakṣaṇa; đặc
điểm) nhị nguyên. Họ cho rằng các tướng có mặt nơi một trạng thái tuôn chảy,
thay đổi trong mỗi sát-na, trong khi tánh vẫn không thay đổi qua ba thời quá
khứ, hiện tại và tương lai. Điều này đưa đến thuyết được gọi là “nhất thiết pháp
hữu” (sarvam asti) mà nó được những người Nhất thiết hữu bộ
(Sarvāstivādin) chủ trương. Cần lưu ý rằng chính thuyết này hình thành nên một
trong những thái cực được đề cập đến trong kinh Chánh kiến
(Kaccāyanagotta-sutta) và bị Đức Phật phê bình. Những nhà Kinh lượng bộ
(Sautrāntika) bác bỏ học thuyết về tự tánh (svabhāva) này, điều mà họ
đánh đồng với quan điểm về ‘linh hồn’ hay ‘tự ngã’ (ātman).
Những nhà Nhất thiết hữu bộ đã phản công lại sự phê
bình này như thế nào? Đương nhiên, bằng việc giải thích lại những hàm ý của kinh
Chánh kiến. Trong Vibhāṣāprabhāvṛtti, một luận giải về
Bhidharmadīpa mà nó được viết để giảng giải quan điểm chân thật của Nhất
thiết hữu bộ trong việc chống lại những quan điểm được thể hiện trong
Abhidharmakośa với khuynh hướng Kinh lượng bộ, chúng ta thấy việc định giá
lại này về kinh Chánh kiến.
Ở đây tác giả chỉ ra rằng trong bản kinh Đức Phật dạy một “con đường trung đạo”
mà theo đó (1) tất cả những pháp được hợp thành (samskārāḥ) là không (śūnyāḥ)
có những khái niệm giả tưởng sai lầm chẳng hạn như “con người” (puṛuṣa)
hay “tàng thức” (ālaya-vijсāna) và những sự tưởng tượng khác, và (2) tất
cả những thứ được hợp thành thì không phải không và không phải không (aśūnyāḥ)
những tướng riêng và chung (svasāmānyalakṣaṇa). Điều này hàm ý rằng sự
nhận thức về một thực tại chẳng hạn như con người (puṛuṣa) được thừa nhận
bởi phái Sāṅkhya hay bởi những người “theo thuyết nhân cách” (pudgalavādin)
của truyền thống Phật giáo, hay “tàng thức” (ālaya-vijсāna) của những nhà
Duy thức (Yogācārin) mà họ góp phần cho một lý thuyết về sự hiện hữu vĩnh hằng (astitva)
và một sự phủ nhận về những tướng riêng và chúng (svasāmaanyalakṣaṇa) của
các pháp, như được những người Nhất thiết hữu bộ thừa nhận, sẽ đưa đến sự vô hữu
(nāstitva, hư vô).
Tự tướng (svalakṣaṇa,自相:
đặc điểm riêng) của một pháp được đồng nhất với “tự tánh” (dravya, svabhāva,
自性,
thực thể) mà nó được những nhà Nhất thiết hữu bộ xem như “thực tại tối hậu”.
Khi những nhà Trung quán (Mādhyamika) bác bỏ tự tánh (svabhāva) như là
một “thực tại tối hậu”, họ rõ ràng đang bác bỏ khái niệm pháp của Nhất thiết hữu
bộ.
Do đó dễ dàng thấy rằng trong mắt của những nhà Nhất thiết hữu bộ, học thuyết
“tánh Không” (śūnyatā) của những nhà Trung quán không khác gì hơn một học
thuyết về sự không hiện hữu hay hư vô (nāstitva,
無/vô).
Như vậy, đối với những nhà Nhất thiết hữu bộ, hai thái cực được đề cập trong
kinh Chánh kiến là thuyết “tàng thức” (ālayavijсāna) của Duy thức/
Du-già tông (Yogācāra) và khái niệm “tánh Không” (śūnyatā) của Trung Quán
tông.
Mặc dù những nhà Nhất thiết hữu bộ cố gắng phân
biệt giáo thuyết của họ với giáo thuyết của Số luận (Sāṅkhya), Duy thức và Trung
quán tông, tuy nhiên việc thừa nhận một thực thể vĩnh hằng (svabhāva, dravya,
svalakṣaṇa) như thực tại sau cùng của các pháp (dharma) là trái ngược
với những đặc điểm hiện tượng của chúng (lakṣaṇa/ tướng hay
sāmānyalakṣaṇa/ cộng tướng) đã đặt họ ở sát bên những nhà “thực thể luận” (sad-vadī).
Vì lý do này, học thuyết của họ về quan hệ nhân quả ngang qua tự tánh (svabhāva)
không hoàn toàn khác với thuyết đồng nhất quan hệ nhân quả (satkāryavāda:
nhân quả đồng nhất) của Số luận.
Sự thực, những nhà Nhất thiết hữu bộ thừa nhận thuyết quan hệ nhân quả với mười
hai chi phần duyên khởi, như được trình bày trong kinh Chánh kiến, nhưng
thuyết của họ liên hệ quá mật thiết với khái niệm tự tánh mà nó không còn là học
thuyết quan hệ nhân quả kinh nghiệm trong Phật giáo sơ kỳ nữa mà là một quan
điểm siêu hình.
Ngược lại, những nhà Kinh lượng bộ, trong khi chủ
trương một học thuyết sát-na (kṣaṇa), đã kịch liệt bác bỏ sự hiện hữu của
bất kỳ tự tánh hay tự thể nào (svābhāva hay dravya). Những nhà
Kinh lượng bộ, những người thừa nhận có hai sát-na tách rời, có mặt (sthiti,
住/trú)
và phân rã (jarā), nhưng xem chúng có cùng một đặc điểm (ekam eva
lakṣaṇam),
chắc chắn không chấp nhận khái niệm “tự tướng” (svalakṣaṇa) mà nó được
đồng nhất với tự tánh thường hằng và vĩnh cữu (svabhāva, dravya). Nhưng
như những người theo chủ nghĩa kinh nghiệm mà họ thừa nhận sự nắm bắt những đối
tượng ngoại tại không theo khái niệm về sát-na nhận thức đầu tiên (pratyaksa),
ít nhất họ nói về những “tự tướng” (svalakṣaṇa)
mà không đồng nhất chúng với tự tánh (svabhāva). (Điều này xác chứng quan
điểm của chúng tôi rằng, như được nói ở đầu, đối với những nhà Nhất thiết hữu
bộ, những người hư vô luận (nāstika) được đại diện bởi những nhà Trung
Quán, chứ không phải những nhà Kinh lượng bộ).
Sự bác bỏ tự tánh (svabhāva) của Kinh lượng
bộ khiến họ trở thành những đại diện thành tín của Phật giáo sơ kỳ – do đó tuyên
bố của họ là những người gìn giữ truyền thống kinh điển (sūtrapramāṇikā).
Rõ ràng, họ là những người chống lại thuyết thực thể. Nhưng đáng tiếc, thuyết vô
thực thể (anātmavāda, niḥsvabhāvavāda) của họ được trình bày trên nền
tảng của một thuyết sát-na siêu hình và do đó chúng không tính đến quan hệ nhân
duyên (pratītyasamutpāda). Thuyết hiện tượng có mặt chóng vánh này buộc
họ chấp nhận một nguyên lý nhân quả mà nó liên quan đến những giả định siêu
hình. Họ khẳng định rằng một hiện tượng sinh khởi trong một sát-na và biến mất
trong sát-na kế tiếp, không kéo dài ngay cả nơi một sát-na, bởi vì nó không có
sự hiện hữu thực sự.
Quan điểm này đã chia sẽ tất cả những đặc điểm quan trọng của thuyết quan hệ
nhân quả không đồng nhất (asatkāryavāda) của phái Thắng luận (Vaiśeṣika).
Thuyết này không chỉ không nói đến sự xuất hiện tạm thời của quả, mà nó cũng hàm
ý sự biến mất hoàn toàn (vinaśa) của qủa ngay lập tức sau khi xuất hiện.
Như vậy, trong khi nỗ lực của Nhất thiết hữu bộ trong việc giải thích quan hệ
nhân quả trên nền tảng của học thuyết về các sát-na đã đưa họ đến một quan điểm
thực hữu, học thuyết của Kinh lượng bộ về vô tự tính (anātma, niḥsvabhāva)
đặt họ vào quan điểm của những người theo thuyết đoạn diệt (ucchedavādī, đoạn
kiến).
Bây giờ ta hãy xem xét “Trung đạo” như được phát
biểu trong Trung quán tông. Những học thuyết của hai tông phái A-tỳ-đàm – Nhất
thiết hữu bộ và Kinh lượng bộ – rõ ràng cung cấp nền tảng triết học trực tiếp
cho tư tưởng Trung quán. Tuy nhiên, dù hai tông phái này với thuyết nhân quả của
chúng cung cấp cơ sở cần thiết cho phép biện chứng Trung quán, triết học Trung
quán không nên chỉ được xem như một sự phản ứng đối với hai tông phái này. Ngược
lại, tông phái này ít nhất nơi hình thức ban đầu của nó, có sự tồn tại độc lập
trước khi Long Thọ (Nāgārjuna) tổ chức nó thành một hệ thống chặt chẽ. Giai đoạn
chưa phát triển này được trình bày bởi văn học Bát-nhã (Prajñāpāramitā), và đặc
biệt bởi kinh Kim cương bát-nhã ba-la-mật-đa
(Vajracchedikā-prajñāpāramitā).
Ở đây chúng ta cần đi ra ngoài việc thảo luận về
Trung đạo một chút. Khái niệm Phật là chủ đề thảo luận quan trọng nhất trong văn
học Bát-nhã. Đức Phật Gotama là một con người lịch sử. Những bản kinh trong các
Nikāya Pāli và A-hàm Hán ngữ cung cấp cho chúng ta rất nhiều chứng
cứ về điều đó.
Ngài đã ảnh hưởng đời sống và tư tưởng của dân chúng Ấn Độ vào thời của Ngài đến
mức người ta quy cho Ngài những đặc tính siêu phàm, không chỉ sau khi Ngài diệt
độ mà ngay trong khi Ngài còn sống. Những đặc tính này – trí tuệ, đạo đức và
ngay cả thân thể vật lý – nhanh chóng đưa Ngài đến vị trí của một vị thiên (deva)
trong mắt của những người theo Ngài. Kết quả là chính những tín đồ đã trở nên
bối rối về bản chất chân thực của con người Đức Phật. Khi câu hỏi về con người
Đức Phật được đưa ra, chính Đức Phật đã trả lời rằng Ngài không phải là một con
người (manussa), cũng không phải là một thủy thần (gandhabha,
càn-thát-bà), không phải là một ác thần (yakkha, dạ-xoa), thậm chí
cũng không phải là một vị trời (deva) hay một vị Phạm thiên (Brahma),
mà rằng Ngài chỉ là một vị Phật.
Những câu hỏi tương tự được đặt ra thậm chí hai thế kỷ sau Đức Phật diệt độ, vào
thời vua Aśoka của triều đại Maurya, thế kỷ III tr.TL.
Như vậy, điều này trở thành một trong những chủ đề thảo luận quan trọng trong
lịch sử tư tưởng Phật giáo.
Sự diệt độ của Đức Phật đã tạo ra một khoảng trống
lớn trong đời sống của những tín đồ và những người kính mộ Ngài. Kinh Đại bát
Niết-bàn (Mahāparinibbānasuttanta), bản kinh đề cập đến những sự kiện trong
những ngày sau cùng của Đức Phật, cho ta thấy điều này. Để tưởng nhớ Đức Phật,
chính Đức Phật đã đề nghị những đệ tử nên đến bốn địa điểm hành hương.
Mong muốn của những đệ tử thành tín lấy Đức Phật làm đối tượng thờ phụng đã góp
phần cho việc phát triển khái niệm về một thân thể tâm linh vĩnh cữu (dharmakāya:
pháp thân) của Đức Phật.
Trong các Nikāya Pāli và A-hàm Hán ngữ, câu hỏi Đức
Phật có tồn tại sau khi chết hay không được xem là một câu hỏi siêu hình và
không được trả lời. Nó không được trả lời không phải bởi, như một số học giả
Phật giáo nghĩ, Đức Phật tiếp tục tồn tại sau khi chết trong một hình thức siêu
nhiên, do đó không thể định rõ và diễn tả được, mà bởi vì trên cơ sở kinh nghiệm
con người ta không có cách nào để biết (na pamāṇam atthi) là Ngài có tiếp
tục tồn tại hay không.
Nhưng trong truyền thống Đại thừa, đặc biệt như được nhân cách hóa trong những
bản kinh như Đại sự (Mahāvastu), Phổ diệu (Lalitavistara) và
Pháp hoa (Saddharmapuṇḍarīka), Đức Phật được xem như một người luôn mãi tồn
tại (sadā sthita),
và việc nhập Niết-bàn của Ngài được xem chỉ là một phương tiện.
Đức Phật trở thành một con người siêu nhiên và bất tử. Thân vật lý của Ngài (rupakāya:
sắc thân) không thể đại diện cho bản chất thực của Ngài. Do đó, kinh Kim
cang (Vajracchedikā) khẳng định: “Không thể nhận biết Như Lai bằng những
tướng trên thân thể của Ngài.”
Thân thể thật sự của Đức Phật là thân thể tâm linh (dharmakāya: pháp
thân). Thân thể chân thực của Đức Phật không chỉ thuộc tâm linh mà cũng thuộc về
vũ trụ. Trong khi thân thể tâm linh được đồng nhất với tất cả những thành phần
của vũ trụ (sarva-dharma), nó cũng được xem là giống với cái tối hậu (tathatā:
chân như). Xuyên suốt văn học Bát-nhã là sự xung đột giữa thực tại tuyệt đối
bất nhị (advaya), pháp thân (dharmakāya), và hiện tượng giới đa
nguyên. Để giải quyết sự xung đột này, chúng ta thấy kinh Kim cang chọn
lấy quan điểm rằng thực tại tối hậu thì vượt qua sự diễn đạt.
Việc đi chệch ra sự thảo luận về Trung đạo này là
cần thiết để hiểu quan điểm của Trung quán. Những nhà Trung quán, như tên gọi
của họ hàm ý, khẳng định đi theo Trung đạo. Nhưng bản văn Đại thừa đầu tiên đề
cập đến Trung đạo và nó thường được chính những nhà Trung quán trích dẫn là phẩm
Ca Diếp sở vấn (Kāśyapaparivarta) thuộc kinh Đại Bảo Tích
(Ratnakūṭasūtra). Nó là một bản kinh quan trọng của Đại thừa và được hầu hết
những bậc thầy của Đại thừa rất mực kính trọng; và theo hiểu biết của chúng tôi,
đây là bản kinh đánh dấu sự chuyển đổi từ Phật giáo sơ kỳ đến Trung quán. Ở đây
chúng ta bắt gặp hai phiên bản của kinh Chánh kiến (Kaccāyanagotta),
nhưng với một người đối thoại khác – Ca Diếp (Kāśyapa). Một trong hai phiên bản
này trung thành với bản gốc kinh Chánh kiến hơn. Bản kinh viết:
“Này Ca Diếp, ‘[tất cả] có’ là một cực đoan.
‘[tất cả] không có’ là một cực đoan khác. Này Ca Diếp, ở giữa hai cực đoan này
là trung đạo, bởi vì đây là một sự nhận thức đúng đắn về sự vật…”
Trung đạo xa hơn được định nghĩa theo mười hai chi
phần duyên khởi trong trình tự tăng tiến và thoái lui của nó. Bằng việc giữ lấy
phiên bản này, phẩm Ca Diếp sở vấn (Kāśyapaparivarta), mặc dù là một bản văn rất
mực quan trọng của Đại thừa, dường như bảo chứng tính chân thực của kinh
Chánh kiến (Kaccāyanagotta) như được tìm thấy trong các Nikāya Pāli và A-hàm
Hán ngữ. Ở đây, như phát biểu trong Nikāya và A-hàm, hai thuyết siêu hình bị bác
bỏ và một quan điểm Trung đạo tiêu biểu cho một diễn đạt nhân quả về thế giới
hiện tượng được trình bày.
Bản thứ hai được tìm thấy nơi phẩm Ca Diếp sở vấn,
mặc dù đề cập đến một Trung đạo giữa hai cực đoan, rất khác với bản ở trên. Đoạn
này viết như sau:
“Này Ca Diếp, ‘ngã (ātma)’
là một cực đoan. ‘Không có ngã’ (nairātmya) là một cực đoan khác. Ở giữa
hai cực đoan này là quan điểm Trung đạo mà nó không hình tướng, không biểu lộ,
không chống đỡ, không thực thể, không ký hiệu và không khái niệm. Này Ca Diếp,
đây được gọi là Trung đạo, sự nhận thức đúng đắn về các sự vật.”
Mặc dù hai thái cực, ‘ngã’ và ‘không có ngã’ có thể
liên quan đến hai thái cực có và không có được đề cập trong kinh Chánh kiến,
tuy nhiên đoạn kinh như vậy dễ nhận thấy là không có mặt trong các Nikāya và
A-hàm. Rõ ràng rằng bản thứ hai là một sự cách tân, nổ lực giảng giải sự phát
triển học thuyết. Trong khi những tông phái Ấn giáo cũng như Nhất thiết hữu bộ
chấp nhận một học thuyết về ‘ngã’ (āma) hay điều gì đó gần với một học
thuyết về ‘ngã’, Kinh lượng bộ của Phật giáo cương quyết chủ trương một học
thuyết ‘vô ngã’ (nairātmya hay niḥsvabhāva). Dĩ nhiên, học thuyết
về thực tại tối hậu của Đại thừa, giống như Đại thừa sơ kỳ với pháp thân của
Phật, đã trình bày quan điểm “Trung đạo”. Nhưng quan điểm trung đạo này không
phải thuộc hiện tượng giới. Nó siêu việt; do đó phải sử dụng những đặc điểm phủ
định để miêu tả nó.
Trong Căn bản Trung luận tụng
(Mūlamadhyamakakārikā), Long Thọ đề cập đến kinh Ca-chiên-diên
(Kātyāyanāvavāda; tức là kinh Chánh kiến/Kaccāyanagotta) và khẳng định rằng ở
trong ngữ cảnh này, Đức Phật bác bỏ hai thái cực có (asti) và không có (nāsti).
Do đó, một đệ tử thâm tín như Nguyệt Xứng (Candrakīrti) buộc phải xem xét bản
kinh Ca-chiên-diên này. Sau khi nhận xét rằng bản kinh này được nghiên
cứu trong tất cả các tông phái Phật giáo, ông trích một phần bản kinh Chánh
kiến ở một bản kinh gốc nào đó (không phải ở nơi phẩm Ca Diếp sở vấn
được đề cập ở trên).
Nhưng khi bình luận về Trung đạo, ông bỏ qua tất cả những phiên bản mà chúng đề
cập đến mô thức mười hai chi phần duyên khởi và chuyển hướng vào phiên bản thứ
hai từ phẩm Ca Diếp sở vấn mà nó không giống nhiều với kinh Chánh kiến,
và nó miêu tả Trung đạo bằng những thuật ngữ phủ định.
Do đó, phẩm Ca Diếp sở vấn là một bản văn vô giá mà
nó giải thích một trong những chủ đề gây tranh luận trong lịch sử tư tưởng Phật
giáo, đó là việc chuyển từ Phật giáo Nguyên thủy sang Đại thừa. Trong khi phát
biểu về một học thuyết nhân quả kinh nghiệm được trình bày trên nền tảng của hai
quan điểm siêu hình, nó cũng đặt ra một khái niệm Trung đạo siêu việt ngôn ngữ,
qua đó nối kết chính nó với học thuyết Bát-nhã về thực tại cuối cùng không thể
xác định và diễn đạt.
Chúng ta hãy xem xét “thuyết siêu nghiệm” này chi
tiết hơn. Thuyết siêu nghiệm, như được chỉ ra ở trước, phát triển dần trong
truyền thống Đại thừa trong sự nối kết với khái niệm về Đức Phật và đạt đến cực
điểm của nó trong văn học Bát-nhã. Trong khi đó, những học giả A-tỳ-đàm, say mê
với những học thuyết sát-na và cực vi, trình bày những học thuyết siêu hình về
nhân quả trong nỗ lực giải thích thế giới hiện tượng. Cả hai khuynh hướng này đã
khiến Long Thọ thấy sự vô ích của việc phụ thuộc vào những quy ước (saṃvṛti)
ngôn ngữ như là phương tiện giảng giải thực tại (paramārtha), ngoại trừ
như một phương tiện cho việc đạt lấy một kết quả.
Căn bản Trung luận tụng
nỗ lực bác bỏ thực tại sinh khởi (utpāda) và biến mất (nirodha).
Điều này dường như cần thiết nếu ta xem khái niệm pháp thân (dharmakāya)
của Đại thừa như là thực tại thường hằng và vĩnh cữu, cũng được gọi là chân như
(tathatā), chân đế (paramārtha sat) v.v… Đối với Long Thọ, những
nhà Nhất thiết hữu bộ và Kinh lượng bộ đã tạo ra “sự xung đột nơi lý trí” qua
việc giải thích nhân quả theo một cách thức siêu hình như vậy, điều khiến ta
hoặc phải chấp nhận sự sinh khởi (utpāda) của các pháp trên cơ sở của một
thực thể hay tự tánh (svabhāva; tức là satkārya-vāda của những nhà
Nhất thiết hữu bộ) hay buộc phải phủ nhận một thực thể và do đó cũng là sự sinh
khởi (tức là kết luận hợp lý về asatkāryavāda của Kinh lượng bộ). Học
thuyết về sát-na không cho phép Long Thọ chấp nhận sự sinh khởi và biến mất mà
không thừa nhận một thực thể.
Không chỉ không thể giải thích sự sinh khởi và biến
mất, ngài cũng không chấp nhận tính tương đối như được trình bày trong đoạn văn:
“Khi cái này sinh, cái kia sinh” (asmin satīdam bhavati).
Đoạn này muốn nói rằng quan hệ nhân quả của bất cứ thứ gì không thể được giải
thích mà không rơi vào một trong hai cực đoan, có và không. Cùng quan điểm ấy,
Nguyệt Xứng nổ lực chứng minh bằng việc trích dẫn lập đi lập lại một bài kệ từ
một bản kinh mà ông gọi là Anavataptahṛdāpasaṃkramaṇa:
“Bất kỳ những gì sinh ra bởi các nguyên nhân thì
thật không sinh ra vì nó không sinh khởi nhờ vào tự tánh. Thứ gì mà nó tùy thuộc
vào các nguyên nhân là không. Người hiểu được tính không là người tinh tấn.”
Điều này được bổ sung thêm bằng hai đoạn trích, (a)
từ Văn Thù Sư Lợi vấn kinh (Mañjuśrīpāripṛcchā-sūtra)
và (b) từ Āryadhyāyitamuṣṭi-sūtra. Những trích dẫn này được tìm
thấy ở cuối luận giải của ông về phẩm rất quan trọng trong Căn bản Trung quán
luận tụng là “Quán Tứ đế” (Āryasatyaparīkṣā).
Cả hai trích dẫn giải thích cách thức mà ở đó người ta cố gắng lĩnh hội Tứ đế.
Bản văn khẳng định:
“Này Văn Thù (Mañjuśrī), những ai thấy tất cả
pháp là không sanh, sự không thỏa mãn được hiểu. Với những ai thấy tất cả pháp
là không sinh thì sự sinh khởi được đoạn trừ. Những ai thấy tất cả pháp là hoàn
toàn tịch diệt thì Niết-bàn được chứng biết. Những ai thấy tất cả pháp hoàn toàn
không thì đạo được tu tập.”
Điều này trái ngược sự lập luận trong những bản
kinh sơ kỳ, nơi các thứ được xem là không thỏa mãn chính yếu bởi vì chúng vô
thường (anicca), mà nó là một từ đồng nghĩa với sự sinh khởi và diệt mất
(uppādavaya).
Như tám sự phủ định cho biết, không chỉ sinh (utpāda) và diệt (nirodha),
mà thường hằng (śāśvata) và đoạn diệt (uccheda), đồng/giống nhau (ekārtha)
và khác (nānārtha), đến (āgama) và đi (nirgama) là những
khái niệm không thể áp dụng được đối với thực tại.
Như vậy, không chỉ những khái niệm siêu hình như thường và đoạn, mà ngay cả
những khái niệm không siêu hình như sinh và diệt cũng không thể áp dụng cho thực
tại. Giáo thuyết Bát-nhã về việc không thể diễn đạt thực tại tối hậu tìm thấy sự
biện minh triết học hoàn hảo ở đây. Bản chất và chức năng của ngôn ngữ xuất hiện
nơi một ánh sáng khác. Những thuật ngữ quy ước (sammuti), mà ở trong Phật
giáo sơ kỳ là những ký hiệu được chấp nhận dựa trên sự đồng ý chung để biểu thị
những kinh nghiệm hay sự kết hợp những kinh nghiệm khác nhau, bây giờ được xem
như những bức màng hư ảo (varaṇa) che đậy (samantād) bản chất thật
của các pháp: do đó nó là tục đế (saṃvṭṛti).
Ngay cả sự đối lập giữa sự biết và đối tượng của sự biết (jñānajсeya)
(không phải chủ thể và đối tượng) chỉ có giá trị ở cấp độ này. Thực tại cuối
cùng thoát khỏi sự lưỡng phân ấy.
Thực tại tối hậu (paramārtha) thì độc lập, bình an, không khái niệm, và
được trải nghiệm (vedya – không phải “biết”, jñeya) chính bên
trong (pratyātma) người trí. Nó không thể được cho biết [là thứ này hay
thứ kia] hay cũng không thể được biết (najñāyate).
Như vậy, những nhà Trung quán phủ nhận khả năng
nhận biết thực tại tối hậu như một hiện tượng khách quan. Sự lưỡng phân giữa
biết và người biết bị phủ nhận một cách triệt để. Nhưng khả năng nhận chân bản
chất của thực tại tối hậu bên trong mỗi người được thừa nhận. Điều này dường như
cũng là kết luận của phẩm rất quan trọng là “Quán lục chủng” (Dhātuparīkṣā) của
Căn bản Trung luận tụng mà nó nhấn mạnh việc làm tịch lặng đối tượng (draṣṭavya-upasama),
chứ không phải việc làm tịch lặng quan kiến (dṛṣṭiupasama), theo đó hàm ý
rằng việc làm tịch lặng quan kiến không thể đạt được mà không đạt được việc làm
tịch lặng đối tượng. Điều này cũng giải thích sự khác nhau cơ bản giữa Phật giáo
sơ kỳ và tư tưởng Trung quán dẫn đến một trong những khái niệm quan trọng khác
được quan tâm, đó là khái niệm papañca.
Thuật ngữ papañca trong Phật giáo sơ kỳ được
hiểu là “chướng ngại”. Do đó, papañcupasama như một định nghĩa về
Niết-bàn hàm ý sự làm tịch tịnh tất cả chướng ngại. Một người đã đoạn trừ những
chướng ngại này có thể tiếp tục không chỉ biết những pháp ở trong thế giới ngoại
tại như chúng là (yathābhūta) mà cũng sử dụng những quy ước ngôn ngữ (sammuti)
mà không vượt qua những giới hạn của chúng, tức là không sử dụng chúng để xác
định các pháp mà không dựa vào kinh nghiệm. Ví dụ, vị ấy có thể sử dụng thuật
ngữ ‘ngã’ (atta, Sk. ātman) như một đại từ phản thân mà không hàm
ý rằng có sự hiện hữu của một thực thể siêu nghiệm, thường hằng và vĩnh cữu. Đó
là bởi vì vị ấy đã đoạn trừ gốc rễ của tất cả chướng ngại, đó là ái (taṇhā).
Do đó, papañcavūpasama trở thành một từ đồng nghĩa với diṭṭhivūpasama,
“tịch lặng tất cả quan kiến”, ở đây diṭṭhi đề cập đến quan kiến. Vì mục
đích này, không cần thiết đạt lấy draṣṭavyopasama hay việc làm tịch tịnh
đối tượng, tức là việc đoạn trừ hoàn toàn đối tượng khỏi sự hiểu biết của ta.
Nhưng ở nơi hệ thống Trung quán, bởi vì có sự thừa nhận về một thực tại tối hậu
(paramārtha) mà nó không có khái niệm (nirvikalpa) như đối nghịch
với cái quy ước (saṃvṛti), papañca muốn nói đến việc làm tăng
trưởng khái niệm. Vì lý do này, những nhà Trung quán sẽ không thể nuôi dưỡng
chính quan điểm “đối tượng”, do đó nó là draṣṭavyopasama. Cần lưu ý rằng
việc làm tịch tịnh đối tượng được Long Thọ trình bày như một quan điểm Trung đạo
giữa hai thái cực là hữu (astitva) và vô (nāstitva). Quan điểm này
liên quan như thế nào đến quan điểm của Duy thức rằng đối tượng (ālambana)
là không thật có dường như là một câu hỏi thú vị.
Nơi ánh sáng của những gì được nói ở trên, tôi sẽ
phân tích ý nghĩa và tầm quan trọng của phát biểu về Trung đạo của Căn bản
Trung luận tụng. Bộ luận nói như vậy:
“Bất kỳ thứ gì sinh khởi tùy thuộc, ta gọi đó là
không. Đó (tức là không) là một khái niệm tùy thuộc và rằng chính nó là Trung
đạo.” (Yaḥ pratītyasamutpādaḥ śūnyatāṭāṃ
pracakṣmahe. Sā prajñaptir upādāya pratipat saiva madhyamā).
Sự giúp đỡ của Nguyệt Xứng trong việc tháo gỡ ý nghĩa phần nào khó hiểu này là
vô cùng giá trị. Chúng ta đã đề cập đến luận cứ của Trung quán rằng bất kỳ thứ
gì được tạo ra hay sinh khởi tùy thuộc thì thật sự không được sinh hay tạo ra
bởi vì nó không xuất hiện như một kết quả của ‘tự tánh’ (svabhāvenānutpatti).
Nhân quả không thể được giảng giải mà không thừa nhận một tự thể. Nhưng một tự
thể không tồn tại trong thực tế. Do đó, nhân duyên quả hay duyên khởi là không.
Nhưng tánh Không (śūnyatā) này chính nó là gì? Có phải tánh Không là một
khái niệm trống không và quy ước (saṃvṛti)? Đây là điều cuối cùng mà
những nhà Trung quán tông muốn thừa nhận. Sự thực, một phần lớn của chương “Quán
tứ đế” (Āryasatyaparīkṣā) được dành cho phản luận về quan điểm rằng ‘không’ (śūnyatā)
là ‘không có gì cả’ hay ‘hư vô’ (nāstitva). Như vậy, những nhà Trung quán
bị buộc chấp nhận ít nhất một khái niệm mà nó ‘tùy thuộc’ hay biểu hiện (upādāya
prajсapti), và đó là śūnyatā. Śūnyatā không phải là một khái niệm quy
ước (saṃvṛti) mà chân lý cuối cùng (paramārtha satya), và do đó,
việc sử dụng thuật ngữ upādāya prajсapti thay vì saṃvṛti để đề cập
nó (mặc dù, dĩ nhiên, thuật ngữ sammuti, ở nơi nghĩa gốc của nó, và
paссatti được sử dụng đồng nghĩa ở trong Phật giáo sơ kỳ). Nó được đồng nhất
với tathatā, dharmakāya, Phật, và ngay cả pratītyasamutpāda (bất
chấp sự phê bình ở trước), tất cả trong đó đều siêu việt và do đó được mô tả chỉ
bằng những đặc điểm phủ định. Nó cũng là điều được kinh nghiệm hoặc nếm trải (vedya)
bởi chính người (pratyātman) chứng đạt giác ngộ viên mãn (samyaksambodhi).
Có phải điều này muốn nói rằng ‘tánh Không’ (śūnyatā) là tự tánh? Trả lời
của Trung quán tông chắc chắn sẽ theo thể phủ định. Tánh Không không phải là tự
tánh theo cùng cách như tự tánh là tự tánh. Tương tự, tánh Không không phải là
không cùng cách như tự tánh là không. Tánh Không là không có sự gia tăng khái
niệm (papañcaśūnya), và do đó là không có khái niệm (nirvikalpa).
Có một phát biểu quan trọng khác về thực tại tối hậu xin được trích dẫn ở đây:
“Không tùy thuộc, an tịnh, không gia tăng khái niệm, không có khái niệm, không
đa dạng – đây là đặc điểm của thực tại
(tattva)”. (Aparapratyayaṃ śāntaṃ aprapañcitaṃ nirvikalpaṃ anānārtham etat
tattvasya lakṣaṇaṃ).
Bây giờ chúng ta hãy phân tích bản chất Trung đạo (madhyamā pratipat)
được đề cập đến trong bài kệ bốn câu được trích dẫn ở trên. Trong hai thái cực,
phần nào khó khăn trong việc xác định thái cực đầu, đó là có (astitva).
Đối với Long Thọ và đối với tất cả những nhà Trung quán, “có” có nghĩa là sự
hiện hữu của một thực thể thực có (một ātma hay svabhāva) nơi thế
giới hiện tượng (dharma). Do đó, “không” có nghĩa là sự văng mặt của bất
kỳ một thực thể thực có nào như vậy, nói cách khác, hoàn toàn không hiện hữu hay
hư vô. Do đó, con đường Trung đạo mà nó thoát ra khỏi hai thái cực này là thực
tại (tathatā, paramārtha sat) mà nó siêu việt tất cả những diễn đạt bằng
ngôn ngữ (saṃvṛti). Điều này giải thích đặc điểm Trung đạo của Trung
quán, hay ngay cả Đại thừa với những tính từ chẳng hạn như vô tướng, không biểu
lộ, không chống đỡ, không ký hiệu, không khái niệm. Điều này không khác mấy với
triết học Bát-nhã mà nó nhấn mạnh sự siêu việt ngôn ngữ của thực tại tối hậu (paramārthasatya).
T. R. V. Murti được cho đã viết nên một tác phẩm có thẩm quyền nhất về triết học
Trung quán. Do đó, giải thích của ông theo cách này hay cách kia đã ảnh hưởng
việc hiểu về những học thuyết của tông phái này. Đáng tiếc, mặc dù có những phân
tích tuyệt vời về tư tưởng Trung quán, một giải thích sai lầm của Murti nơi tác
phẩm này đã ảnh hưởng cách hiểu của phương Tây về triết học Trung quán. Sự giải
thích sai lầm là về bài kệ bốn câu sau:
“Có và không có là hai thái cực
Tịnh và bất tịnh cũng là hai thái cực
Do đó, từ bỏ hai thái cực này
Người trí không nắm giữ quan điểm nào nơi Trung đạo.”
(Astīti nāstоti ubhe ’pi antā
suddhī asuddhоti ime 'pi antā
tasmād ubhe anta vivarjayitvā
madhye 'pi sthānaṃ na karoti paṇḍitaḥ.)
Kết luận mà Murti đưa ra dựa trên cơ sở của phát biểu này được diễn tả trong
trích dẫn sau: “Có thể nghĩ rằng trong việc tránh hai thái cực, Trung quán tông
chủ trương một quan điểm Trung đạo giữa hai thái cực. Không, vị ấy không chủ
trương bất kỳ quan điểm Trung đạo nào. Hay, quan điểm Trung đạo là không có quan
điểm…”
Phân tích này dường như là cơ sở của quan điểm rất phổ biển: “Quan điểm của
Trung quán là không quan điểm.”
Đáng tiếc, kết luận của Murti dường như là một kết luận kỳ lạ. Nói rằng một
người từ bỏ hai thái cực và cũng từ bỏ quan điểm Trung đạo thì điều này không
đồng nghĩa với việc nói không có quan điểm Trung đạo. Nếu nói vậy, rõ ràng rằng
đây dường như là một sự nhầm lẫn (viparyāsa) không chỉ trong việc sử dụng
ngôn ngữ mà cũng ở mặt lô-gic. Trong khi ở đây nói rằng người ta không nên nắm
giữ một quan điểm về trung đạo, thì Murti nói rằng không có quan điểm Trung đạo.
Sự thực, kỳ lạ vì nó dường như là, chính Murti sau đó tiếp tục nói, trên cơ sở
của những đoạn trích từ Kāśyapaparivarta và Mādhyamikavṛtti được
trích dẫn ở đầu, rằng quan điểm Trung đạo thì siêu việt mà ở đó nó siêu việt
khái niệm và ngôn ngữ.
Sự giải thích triết học Trung quán của Murti đã cuốn hút nhiều học giả phương
Tây, những người để tâm nghiên cứu truyền thống Phật giáo Trung Quốc, đặc biệt
là Thiền. Thiền nói chung được hiểu như là sự phủ nhận bất kỳ hình thức siêu
việt nào mặc dù nó dường như góp phần cho một học thuyết siêu việt ngôn ngữ của
thực tại tối hậu. Sự ảnh hưởng của tư tưởng Trung quán vào sự phát triển Thiền
là không thể tranh cãi.
Do đó, giải thích của Murti về triết học Trung quán như một học thuyết “không có
quan điểm” đã được chấp nhận rộng rãi, đặc biệt bởi vì nó tương thích với giải
thích hiện nay về Thiền.
Ngoài phân tích không xác đáng ở trên về phát biểu của Trung quán, giải thích về
triết học Trung quán như một triết học “không quan điểm” dường như xuất phát từ
việc nhấn mạnh quá mức vào, hay cụ thể hơn, sự hiểu sai về mục đích của phương
pháp bác bỏ luận đề (prāsaṅgika) mà Long Thọ đã chọn. Đúng là trong việc
bác bỏ hai thái cực có và không, Long Thọ đã sử dụng phương pháp bác bỏ luận đề
không chấp nhận bất kỳ quan điểm nào, nhưng chỉ sử dụng quan điểm này để bác bỏ
quan điểm khác. Việc sử dụng phương pháp này của ngài được giới hạn nơi một sự
bác bỏ chỉ thực tại hiện tượng. Nhưng không cho thấy ngài đã sử dụng nó để bác
bỏ hai chân lý, quy ước (saṃvṛti) và tối hậu (paramārtha), mặc dù
những điều này theo cách nào đó có thể cấu thành nên hai thái cực như ‘tịnh’ và
‘bất tịnh’ được đề cập trong bài kệ được trích từ Nguyệt Xứng. Ngược lại, ngài
khẳng định dứt khoát sự có mặt của thực tại hay chân lý tối hậu (paramārtha
sat), mặc dù ngài cho nó là vượt qua suy nghĩ theo khái niệm. Mọi thứ khác,
hữu hoặc vô hữu, rơi vào phạm trù quy ước (saṃvṛti).
Tóm lại, có thể nói rằng tông phái quan trọng lớn cuối cùng của Phật giáo Ấn Độ
- Duy thức như được trình bày nơi Trung biên phân biệt luận
(Madhyāntavibhāga; xem xét về Trung đạo và các thái cực) của Di Lặc (Maitreya) –
công khai thừa nhận sự hiện hữu (sat) của quan điểm Trung đạo giữa hai
thái cực là hữu (sat) và vô hữu (asat).
Tuy nhiên, đối với họ hữu là ‘ý tưởng cấu trúc’ (abhūtaparikalpa, tức ý
tưởng liên quan đến hiện tượng phi hữu). Phi hữu là thực thể (dravya =
svabhaava). Ở giữa hai thái cực này, Thế Thân (Vasubandhu) nói ở trong
Madhyāntavibhāgahaṣya của ông, là sự hiện hữu (sattva) của tánh Không
(śūnyatā), mà nó là con đường Trung đạo giữa không tuyệt đối (ekāntena
śūnya) và không không tuyệt đối (ekāntenāśūnya). Theo Thế Thân, điều
này phù hợp với những phát biểu của Bát-nhã chẳng hạn như: “Tất cả không phải
không cũng không phải không không”.
Phân tích này về Trung đạo tạo ra vấn đề khác. Nếu tuyệt đối không là một thái
cực và tuyệt đối không không là một thái cực khác, quan điểm Trung đạo có thể là
gì? Những nhà Trung quán cho rằng quan điểm Trung đạo là không khái niệm và do
đó, không thể định nghĩa và diễn đạt. Nhưng đối với những nhà Duy thức, điều này
có mặt, tức là có mặt siêu việt (paramārtha sat). Nếu vậy, những gì còn
lại là hiện tượng mà những nhà Trung quán xem là quy ước (saṃvṛti). Đối
với những nhà Duy thức, đây không phải là một quan điểm sắc bén, vì hiện tượng
không phải luôn đồng nhất với quy ước mà nó được xem là tuyệt đối không (śūnya).
Mặt khắc, có những quy ước mà chúng tuyệt đối không, do đó abhūtaparikalpa,
tức chỉ là cấu trúc khái niệm. Cách khác, có những quy ước mà chúng thể hiện
thực tại hiện tượng. Cấp độ thứ ba của chân lý hay thực tại này là thực tánh (dravyataḥ
sat), mặc dù nó không giống với “tự tánh” (svabhāva) của Nhất thiết
hữu bộ.
Điều này có thể so sánh với khái niệm “tự tướng”
(svalakṣaṇa) của Kinh lượng bộ (đã được thảo luận ở trên).
Thừa nhận cấp độ chân lý hay thực tại thứ ba này dường như được thúc đẩy bởi nhu
cầu thỏa hiệp với thực tại hiện tượng mà những nhà Trung quán đã phủ nhận khi họ
xem tất cả khái niệm (ngoại trừ những khái niêm như śūnyatā mà nó chỉ cho
thực tại tối hậu) là không và không thật. Do đó, Madhyāntavibhāga đề cập
đến ba mức độ chân lý – (1) sat hay hữu, tức là thực tại tối hậu (paramārtha
sat); (2) asat hay vô hữu, tức là tánh không liên quan đến tự tánh (svabhāva)
hay ngã (ātman), tức là cấu trúc khái niệm; và (3) sat hay hiện
hữu, tức là sự có mặt của những tự tướng (svalakṣaṇataḥ sat). Đây là
những mức độ rất giống nhau của chân lý được biểu hiện nơi ba cấp độ phổ biến
hơn – (1) tối hậu (pariniṣpanna); (2) khái niệm (parikalpita); và
(3) tương đối (paratantra). Quan điểm Trung đạo này độc đáo ở chỗ nó
không phải quan điểm Trung đạo nằm giữa hai thái cực bị bác bỏ, mà là một quan
điểm thứ ba.
* David J. Kalupahana (1936–2014) là một học giả Phật giáo người Sri Lanka. Ông
từng giảng dạy Pāli và Văn minh Phật giáo tại Đại học Ceylon, Sri Lanka, và về
sau là giáo sư triết học tại Đại học Hawaii, Hoa Kỳ. Ông để lại nhiều tác phẩm
nghiên cứu Phật học có giá trị, một trong số chúng là: Mulamadhyamakakarika
of Nagarjuna: The Philosophy of the Middle Way; A History of Buddhist
Philosophy: Continuities and Discontinuities; Buddhist Philosophy: A Historical
Analysis; Causality: The Central Philosophy of Buddhism; Nagarjuna's Moral
Philosophy and Sinhala Buddhism; The Principles of Buddhist Psychology; The
Buddha’s Philosophy of Language…
Nguồn: Journal of Chinese Philosophy, Vol. 7, tr. 73-90.