Đời sống tâm linh trong quan niệm Phật giáo

doi song

Đặng Công Hanh

 “Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt

Rọi suốt trăm năm một cõi đi về”

(Trịnh Công Sơn)

 ♦ Cuộc Hành trình Giác Ngộ – Tấm Gương sáng vĩ đại

Thái tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn và mẹ là Ma-da sau khi sinh ra được 7 ngày thì mẹ mất, Ngài sống với người dì là Ma-ha-bà-nà-bà-đề. Vua Cha Tịnh Phạn muốn con mình nối dõi, nên tìm cách dạy dỗ cho con, nhất là không để tiếp cận với cảnh khổ của con người. Vì vậy Ngài được sống cuộc đời vương giả của thời đại lúc bấy giờ. Tuy thế, sau bốn lần ra bốn cửa thành và thấy cảnh người già, người bệnh, người chết và một vị tu sĩ, Ngài khởi tâm từ biệt hoàng cung, sớm thoát ly thế tục, bằng con đường xuất gia. Thái tử nhất định rời bỏ cung điện đền đài để đi tìm chân lý, một cái gì thật sự an tịnh và trường cửu tối thượng.

Sau khi xuất gia đi tìm chân lý tối thượng, Ngài phát triển trước tiên về phẩm hạnh giới luật. thiền định dưới sự hướng dẫn của hai vị đạo sư nổi tiếng là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta trong sáu năm. Ngài phát hiện ra rằng chỉ với thiền định thuần túy thôi không thể chấm dứt vĩnh viễn được khổ đau và chính Ngài đã đưa vào một chiều hướng mới là thiền định có mục đích trí tuệ. Với sự khám phá này, Ngài đã đạt đến nhất tâm, hướng tâm vào sự hiểu biết bản chất của sự vật và thấu hiểu chân lý. Sự giác ngộ của Ngài chính là kết quả của sự phối hợp thiền định và trí tuệ.

Thời đại lúc bấy giờ, theo truyền thống tư duy của Bà-la môn giáo, thì các nhà thu khổ hạnh đã tu tập phương pháp luyện tâm là những người không lập gia đình, thường lang thang, ăn mặc quần áo rất sơ sài, không ở một nơi nào nhất định. Họ thực hành các pháp tu khổ hạnh ép xác hết sức ghê gớm nhằm chống lại những ham muốn của mình. Đối với Ngài, khía cạnh trí tuệ điển hình thường thể hiện trong đời sống. Một trong những số đó là quan điểm Trung đạo, tránh cả hai cực đoan là sự tham đắm những dục lạc giác quan và sự hành hạ thân xác quá đáng.

♦ Giờ phút Thành Đạo

Trong buổi sáng, trước ngày Thành Đạo, Ngài nhận bát sữa gạo do bà Sujãtã dâng lên. Sau khi thọ xong bữa ăn, Ngài bắt đầu thực hành thiền quán dưới gốc cây Bồ Đề. Vừa lúc bình minh, ngày thứ 49, Ngài chứng đắc Quả Vô Thượng Chánh Giác, và trở thành vị Phật lúc ba mươi lăm tuổi bằng những nỗ lực phi thường. Ngài đọc lên một bài kệ, hoan hỷ mô tả sự chiến thắng tinh thần vô cùng vẻ vang rực rỡ:

“…Này hỡi người thợ làm nhà Như Lai đã tìm được ngươi

Từ đây người không còn cất nhà cho Như Lai nữa

Tất cả sườn nhà đều gãy

Cây đòn đông của người dựng lên cũng bị phá tan

Như Lai đã chứng nghiệm

Quả Vô Sanh Bất Diệt

Và Như Lai đã tận diệt mọi Ái Dục”.

Như Lai chính là Đức Phật, người thợ làm nhà là ái dục, sự tự tạo ẩn sâu kín bên trong Ngài, một thành phần luôn luôn hiện hữu bên trong mọi người. Cái gì được tạo ra thì có thể bị tận diệt. Cái sườn nhà tự tạo chính là các ô nhiễm như tham lam, sân hận, si mê, ngã mạn, tà kiến, phóng dật, hành vi bất thiện… Cây đòn đông chống đỡ cho sườn nhà là vô minh, căn nguyên của mọi dục vọng. Sự phá vỡ cây đòn đông vô minh làm bằng chất liệu trí tuệ.

Khi toàn bộ vật liệu xây dựng không cần thiết, người làm thợ trở nên vô dụng, lúc đó mọi sự thể đều bị loại bỏ và chỉ còn lại cái tâm đã đạt đến trạng thái vô vi, vô sinh, bất diệt, Niết Bàn.

Với ý chí sắt đá, với trí tuệ siêu đẳng, lòng bi mẫn vô biên, đức vị tha vô lượng, sự truy tìm chân lý tối hậu của Ngài đã đưa đến sự ra đời của Phật giáo. Và từ đây ta nhận thức được rằng Phật giáo có nghĩa là “Giáo huấn của bậc Giác ngộ”. Mỗi vị Phật là một con người đã Giác ngộ, một con người đã nhìn thấy sự vật “như nó là“.  Phật giáo xuất hiện trên nền tảng quán sát thực tại và thấu hiểu thực tại như vậy nên là một tôn giáo trí tuệ, có mục đích giúp cho thế nhân loại trừ khổ đau và các nguyên nhân tạo nên khổ đau trong một chiều kích thật sâu rộng. Đức Phật không phải là Thiên Chúa. Đức Phật mô tả mình chỉ đơn giản là người hướng dẫn. Ngài chỉ cho chúng ta con đường và mỗi người trong chúng ta phải tự đi qua để giải phóng bản thân và người khác thoát khỏi khổ đau và đạt được hạnh phúc.

Vậy nhìn từ góc độ của Đạo Phật nguyên chất, mọi hình thức tôn thờ hướng vào các vật thể thiêng liêng bằng lễ lạc, nghi thức cúng bái hay cầu khẩn đều không phải là tính cách của Phật giáo. Có lần Đức Phật nói: “Nếu một người nào đó có thể loại được khổ đau của mình bằng cách cúng dường, bằng sự tôn kính và cầu nguyện, thì sẽ chẳng còn ai trong thế gian này phải chịu gánh khổ đau cả, bởi vì có ai mà lại chẳng biết bày tỏ sự tôn kính và cầu nguyện. Dù cho họ có thật ngoan ngoãn, biết tôn kính và thực thi nghi lễ đều đặn, thế nhưng trên thực tế thì họ vẫn cứ phải chịu khổ đau. Vì thé nên hết sức hiển nhiên, những thứ ấy nhất  định không phải là giải pháp hữu hiện giúp họ tìm thấy sự giải thoát khỏi những khổ đau của chính họ.”. (Giáo sư Buddhadasa, Đại học Queenland – Hoang Phong dịch).

Trên đại thể mà nói, trong kho tàng giáo lý đồ sộ, ngoài những giáo lý có tính cách của nền đạo đức thực tiễn, được lý giải bằng ngôn ngữ có tính thời đại phổ biến, vẫn còn đó cả phần lớn giáo lý thuộc thế giới bàn bạc cái không khí “huyền chi hựu huyền“, như thể một kính vạn hoa phản chiếu muôn vàn ảnh tượng như thực như hư, như có như không, mà con người với trí năng thông thường, giới hạn của mình không thể thành đạt sự kiến giải.

Chính vì thế, với tính cách uyên áo thăm thẳm mà giáo lý của Ngài tác động gợi nhiều cảm ứng cho các tầng lớp đại chúng lẫn hàng ngũ tri thức. Ta thử trích một số ý kiến của các học giả nổi tiếng đương đại trên thế giới đã nói:

─ “…Ngài là người đã dựng nên một hệ thống tôn giáo vô cùng cao thâm huyền diệu. Ngài thuộc về lịch sử tư tưởng thế giới. Ngài là kết tinh của người thiện trí. Bởi vì, đứng về phương diện trí thức, chắc chắn Ngài là một trong những vĩ nhân cao thượng nhất của lịch sử…” (Tiến sỹ Sri Radh krishman – Phạm Kim Khánh dịch)

─ “… Nơi Đức Phật ta thấy rõ ràng là một con người giản dị có tâm đạo nhiệt thành, một mình tự lực phát huy ánh sáng tươi đẹp, một nhân vật sống, một con người như mọi người chứ không phải là một nhân vật thần thoại ẩn hiện trong nhiều truyền thuyết hoang đường… Đức Phật dạy rằng tất cả những gian lao sầu khổ và bất hạnh trong đời đều do lòng ích kỷ sinh ra. Trước khi có thể trở nên vắng lặng, con người cần phải ngừng sống cho giác quan mình. Rồi từ đó, vượt lên trên tất cả mọi người, Ngài sống cuộc đời siêu nhiên… Đứng với tầm quan trọng của con người trong sự phục vụ, Ngài tỏ ra sáng suốt hơn, và đối với vấn đề trường tồn bất hoại của kiếp nhân sinh, Ngài ít lúng túng hơn trong biện thuyết mập mờ…” (Giáo sư  HG. Weel: Three Greatest Men in History – Phạm Kim Khánh dịch)…

─ “… Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, Đức Phật tuyên bố sự giải thoát, mỗi con người có thể đạt được do chính bản thân mình trong đời sống trên thế giới mà không cần đến sự giúp đỡ của Thượng đế hay thần thánh nào. Ngài nhấn mạnh về giáo lý như lòng tự tin, thanh tịnh, nhã nhặn, giác ngộ, an lạc và lòng thương yêu nhân loại. Ngài cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết của kiến thức, vì không có trí tuệ thì siêu linh nội tâm không thể xâm nhập vào đời sống của Ngài được”. (Giáo sư Eliot – Pháp Hiền dịch).

Từ lúc Thành Đạo, năm ấy Ngài đúng ba lăm tuổi, đến khi Đại Niết Bàn  lúc tám mươi tuổi. Trong suốt thời gian bốn mươi lăm năm, Đức Phật không ngừng phục vụ nhân loại bằng giáo pháp và bằng tấm gương chính đời sống Ngài.

Giáo pháp của Ngài là những lời dạy có nội dung bắt nguồn từ Chứng Pháp mà Chứng pháp là sự nội chứng sâu thẳm, thấu suốt đến tận rốt ráo vạn pháp (hiện tượng – sự vật), vượt quá so đo, tính toán của trí thế gian. Giáo pháp chỉ dạy những sự thật của cuộc sống an lạc, hạnh phúc, sự thật của phẩm giá cao thượng nơi con người, sự thật đó có sức mạnh chuyển hóa sự ham mê đời sống vật chất, tình tiền, nhục dục…

Vì Chứng pháp quá sâu thẳm, quá lớn rộng nên khi diễn đạt Đức Phật thường dùng các pháp dụ, tức là các ví dụ phù hợp với hoàn cảnh, với thời đại. Ngài là bậc Vô thượng giác, là trí tuệ siêu việt trần thế nên sự giảng dạy đạt đến mức toàn hảo, có công năng làm sống dậy bản chất cao thượng của tâm hồn, là phương thuốc trị bệnh tâm linh cho con người, một căn bệnh trầm kha do tâm lý khao khát ái dục, đã ăn sâu qua vô số đời sống tạo nên một hấp lực mang nặng chiều hướng bản năng nguyên thủy.

Ngài đi từ những kinh thành lộng lẫy đến những làng mạc xa xôi, ròng rã suốt 45 năm không mệt mỏi. Với hành trang gồm một bình bát, khất thực, với ba tấm y để che thân, đôi chân tần, đầu không nón suốt bốn mùa mưa nắng. Ngài thuyết pháp bằng đủ mọi phương tiện, đều không ngoài mục đích cứu độ chúng sinh  với lòng từ bi vô hạn.

Đức Phật Nhập Diệt năm 543 trước Tây Lịch vào ngày trăng tròn tháng Vesak, với lời di huấn tối hậu, “Hãy nghe đây, này các đệ tử, Như Lai khuyên các con. Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường. Hãy tận lực liên tục chuyên cần”. Đến bây giờ đã gần 26 thế kỷ trôi đi, Đạo pháp của Ngài vẫn cứ rực rỡ chiếu soi như đôi vầng nhật nguyệt.

♦ Xác Tín và Xác Thực

Sau khi Đức Phật Đại Niết Bàn, các luận sư Phật học lỗi lạc như ngài Vô Trước, ngài Mã Minh, ngài Long Thọ… đã phân định Pháp giới để giảng giải theo hai cảnh giới hay hai thực tại là chân thật giới và hiện tượng giới.

Chân thật giới hay thế giới tuyệt đối gồm các pháp “vô vi”mang tính cách siêu hình không thể nhận biết qua giác quan bằng khả năng tư duy biện giải mà chỉ qua nhận thức trực giác do công phu thiền định cấp độ cao, tạm gọi là trí vô phân biệt, không thể nghĩ bàn, và chỉ còn là sự im lặng.

Trung Quán Tông cho rằng thế giới tuyệt đối là Tánh Không. Khái niệm về Tánh Không có hai phạm vi khác nhau: một là mang tính triết học và khoa học nói lên bản chất tất yếu của hiện thực; hai là tính thực dụng xem như một phương tiện hiện hữu đến hóa giải mọi sự bám víu, dính mắc mang lại những rối loạn và khổ đau. Tánh Không, không có nghĩa là hư vô hay sự trống rỗng của không gian. Phật giáo dạy rằng, bản chất tối hậu của thế giới sự vật hiện tượng là Tánh Không, là thiếu vắng “sự tồn tại tự thân”. Tánh Không xuất phát từ ý tưởng sự tương liên của các hiện tượng, rằng mỗi sự vật hiện tượng không thể tồn tại tự thân, hay là nguyên nhân của chính nó hoặc một hiện tượng chỉ có thể biểu hiện được nếu nó được liên kết với các hiện tượng khác.

Một thực tại đều là kết quả hội tụ của vô hạn, các điều kiện và nguyên nhân không ngừng thay đổi. Tự thân của chúng không là gì cả. Sở dĩ chúng có được bản chất của mình là nhờ sự phụ thuộc lẫn nhau và phải được hiểu trên tính tổng thể. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tóm tắt mối quan hệ giữa khái niệm tương liên và Tánh Không như sau:

“Hiểu sự tương liên, sẽ hiểu được Tánh Không

Hiểu Tánh Không, sẽ hiểu được sự tương liên

Đó là Trung Đạo

Thoát khỏi vực thẳm khủng khiếp của chủ nghĩa hư vô và hiện thực”

Rõ ràng Phật giáo không ủng hộ chủ nghĩa hư vô, hư vô có nghĩa mọi thứ đều không tồn tại và chủ nghĩa hiện thực vật chất với ý nghĩa mọi thứ đều tồn tại và tồn tại nội tại một cách riêng rẽ độc lập. Tri thức Phật giáo giữ một quan điểm trung gian 2 cực đoan nói trên. Rơi vào ý niệm có là một cực đoan, rơi vào ý niệm không là một cực đoan khác. Đức Phật dạy giáo lý Trung Đạo để vượt thoát có và không. Ngài Long Thọ, một luận sư Phật học nổi tiếng tuyên thuyết một cách ngắn gọn trong một bài tụng rằng:

“Các pháp (hiện tượng sự vật) do Duyên khởi, nên ta nói nó là Không, là Giả danh, và cũng chính là Trung Đạo”.

Đối với Phật giáo, mô tả thế giới hiện tượng là một mạng lưới duyên sinh vĩ đại, trong đó tất cả hiện tượng đều là tương đối, quan hệ chằng chịt với nhau, nương tựa nhau mà tồn tại. Bởi vì bản chất cuối cùng của hiện tượng sự vật không có sự tồn tại độc lập và vĩnh hằng, thì các hiện tượng mới xảy ra. Thế giới hiện tượng có thể biểu hiện vô số cách bởi vì bản chất cuối cùng của nó là Tánh Không.

Giáo sư Trịnh Xuân Thuận, đồng thời là  nhà Vật lý Thiên văn nổi tiếng tại Mỹ, trong tác phẩm lớn Nguồn Gốc, ông có viết đại ý rằng: Chúng ta đều là các hạt bụi của các ngôi sao, chúng ta đều chia sẻ cùng một lịch sử vũ trụ như các con linh dương và những đóa hoa hồng. Chúng ta được kết nối với nhau qua không gian và thời gian và chỉ điều này có thể dẫn tới một ý thức sâu sắc về khái niệm sự tương liên.

Thông thường, biến một tri thức lý thuyết, thông qua trí não phân tích, có nguy cơ chỉ mang lại hiệu ứng ảo. Để vượt qua hiệu ứng  ảo đó, cần phải nỗ lực tinh thần đạt được sự chuyển biến sâu sắc trong cách nhận thức, cần phải đồng hóa được những hàm ý của sự phát hiện này bằng lòng trắc ẩn, không thể cưỡng nổi với mọi sinh vật. Chỉ có lòng trắc ẩn mới làm cho con người thay đổi sự tồn tại của mình tận gốc rễ, biểu hiện qua hành vi suy tính, lời nói và việc làm. Đức Phật nêu lên Tánh Không như một thể dạng tối thượng của tâm thức và chính Ngài đã xác nhận mình luôn luôn thường trú trong Tánh Không.

Song song với sự hình thành Phật giáo Đại Thừa và nhất là xuất hiện Trung Quán Luận của Ngài Long Thọ, Tánh Không được mở rộng liên quan đến mọi hiện tượng của vũ trụ. Như là một khái niệm siêu hình mang tính triết học với biện chứng trừu tượng và được đặt vào vị trí trung tâm của Đạo pháp. Tánh Không trở thành cốt lõi của Đạo Phật và việc tu tập phải hướng vào Tánh Không như một phương tiện hữu hiệu nhất.

Trên phương diện tu tập, người học Phật đã không ngừng kinh ngạc trước các khái niệm mà Đức Phật đã khám phá ra cách đây ngót 26 thế kỷ, nên đã đặt sự xác tín nơi những gì mà người đi trước đã trải nghiệm truyền đạt lại, trong đó chủ yếu là những lời dạy của chư Phật, chư Bồ Tát.

Đức Phật có lần dạy: “Tin ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta”. Vì thế cho nên từ lúc bước chân vào học đạo, chúng ta phải vận dụng lý trí để hiểu rõ lời Phật dạy, tiếp đó suy nghiệm xem lời dạy có phải là chân lý (sự thật) không. Và sau rốt lại, khi sự xác tín đã vững vàng, chúng ta nỗ lực hành trì để một ngày nào đó chúng ta chứng thực được niềm xác tín đó. Đây quả một sự thách đố cho chính bản thân những ai có tấm lòng tu học trên mỗi chặng đường tu chứng.

Rõ ràng, niềm xác tín của những thế hệ học Phật, tu Phật xưa nay vào những gì mà Đức Phật giảng dạy đã đem đến sự thành tựu lớn lao hơn nhiều so với những gì mà ta chấp là xác thực đem lại cho đời sống hiện thực.

Một ví dụ rất gần gũi có bản chất khoa học như tin vào Luật Nhân – Quả trên hai cấp độ:

– Ở cấp độ thô thiển: bây giờ ăn mặn nhiều thì lát sau sẽ thấy khát nước.

– Ở dạng sâu sắc siêu hình hơn, luật Nhân – Quả được thể hiện trong mối quan hệ giữa ba thời quá khứ – hiện tại – vị lai; giữa thế hệ trước và thế hệ sau: rau nào thì sâu nấy; con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh.

Có thể khái quát rằng cái gì “đang là” thế này thì phải tiến tới nó “sẽ là” thế ấy, nếu không có sự tác động nội tại hay ngoại tại nào tham gia.  Một tiến trình như thế sẽ hé lộ cho ta thấy: cái “sẽ là” ở trong cái “đang là” , và cái “đang là” lại có từ cái “đã là”. Mối quan hệ biểu trưng hình ảnh của Nghiệp và Chuyển nghiệp trong nhà Phật.

Hiện tượng giới hay thế giới tương đối bao hàm sự vật hiện tượng hữu hình hay vô hình mà giác quan con người cảm nhận được như tinh thần, ý chí, tình cảm… có thể khảo sát được qua phương pháp duy nghiêm. Đạo Phật gọi là pháp “hữu vi” biểu thị hiện tượng hình thành do nhân duyên và cũng là đối tượng của khoa học, trung tâm của ngành vật lý. Vì thế nên khoa học có cái cám dỗ mãnh liệt, cái cám dỗ của chân lý khách quan mà lý trí con người có thể vươn tới được. Thực tế cho thấy, khoa học đã đạt nhiều thành quả to lớn trong hơn thế kỷ này với sự trợ giúp của công nghệ. Đồng thời bộ mặt của nhân loại cũng thay đổi một cách nhanh chóng trong sự thụ hưởng những tiện tích thông qua các tiến bộ kỹ thuật, xây dựng được xã hội văn minh.

Tuy vậy, con người cần bình tĩnh lại để thấy rằng còn biết bao nhiêu câu hỏi cuộc sống mà vẫn chưa có lời giải đáp: Ngẫu nhiên, hỗn độn là cái gì? Làm thế nào mà trật tự lại có thể xảy ra trong một vũ trụ tuôn theo luật entropy tăng? Vấn đề “đa thế giới”của lý thuyết “Dây” hay “siêu màng“? Đâu là thực tại nhiều chiều (ít nhất là 10 chiều, có một phần của nó biểu hiện ra 4 chiều không – thời gian)?… Và các chân lý khách quan đó còn nhắc nhở con người giảm bớt lòng tự hào và loại trừ đi những ảo tưởng về khả năng tính của lý trí mà từ lâu đã nặng nợ với tất cả định luận, với những pháp suy luận duy lý và quy giản hay nói theo Phật học là còn bị ràng buộc trong tính chất chiêu cảm của Nghiệp lực, vì nó chỉ là sản phẩm của tâm trí.

♦ Sự hòa hợp giữa Tương Đối và Tuyệt đối

Đức Phật nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”; “Sắc bất dị không“; Tương đối – Tuyệt đối; Ngộ – Mê; đều thể hiện tính cách hòa hợp của hai cảnh giới đó. Hai cảnh giới này chẳng là một nhưng cũng không phải là hai.

Một hình mẫu rất gần với sự hòa hợp giữa các tương đối và cái tuyệt đối của nhà vật lý lượng tử đã quá cố David Bohm với ý tưởng thể hiện về cái “trật tự ẩn” và “trật tự hiện” theo thuật ngữ của ông. Ông là nhà vật lý nổi tiếng làm việc với S.Hawking, R-Penrose nhưng lại có cái nhìn gần với Đạo học Phương Đông.

Ông xây dựng thí nghiệm thế này: Có 2 ống hình trụ đáy kín, cùng trục quay. Ống ngoài cố định, ổng trong nhỏ hơn quay được. Đổ đầy glycerin vào phần giữa 2 ống. Nhỏ 1 giọt mực vào glycerin, rồi quay ống hình trụ trong. Giọt mực vẽ nên một đường cong mờ dần rồi mất hẳn. Lúc bấy giờ, mỗi điểm trong dung dịch trông thấy đồng nhất. Ông gọi đó là trật tự ẩn. Sau đó, quay ống bên trong theo chiều ngược với tốc độ thích hợp, giọt mực bất ngờ xuất hiện lại từ hư không, ông gọi đó là trật tự hiện.

Tiếp theo, cho thêm một giọt thứ 2 ở gần giọt mực thứ nhất, rồi quay, giọt thứ 2 và giọt thứ nhất quấn vào nhau và cứ như thế cho đến giọt thứ n. Bây giờ, quay ngược lại với tốc độ hợp lý, giọt thứ nhất tái xuất hiện và lần lượt tiếp thu bởi giọt thứ 2, 3… thứ n. Tất cả chúng đều ở đó.

Ông nói rằng mọi sự kiện quá khứ, hiện tại, vị lai ở ngay đây, ngay lúc này, nhưng chúng hiện ra tùy vào điều kiện theo cách nào đó. Một số sự kiện trở thành hiện thực, hoặc xảy ra đến, một số thì không. Nhưng về cơ bản chúng đều ở đó dù chúng ta không thực sự thấy chúng. Đó cũng có nghĩa là sự hòa hợp giữa thế giới tương đối và thế giới tuyệt đối. Và các biểu hiện trong thế giới hàng ngày có vẻ bề ngoài tách bạch chỉ là biểu hiện có điều kiện thích hợp của thế giới tuyệt đối. Chân không mà Diệu hữu, Không thức thị Sắc, Sắc tức thị Không (Bát Nhã Tâm Kinh). Hai thế giới này không phải là hai, nhưng chẳng phải là một.

Thật xúc động với thí nghiệm này (theo cảm nghĩ người viết). Một mẫu hình đối chiếu, ở đó Đạo Phật đã không còn xuất hiện như những “tín lý” mà đã xuất hiện dưới những yếu tố “xác thực”  như khoa học. Mò mẫm bước vào những chiều kích sâu thẳm tâm linh, thì trực giác và kinh nghiệm nội tại đóng vai trò hàng đầu trong cách tiếp cận chiêm nghiệm hơn là trí tuệ và lý trí. Phật giáo quan tâm tới bản chất tối hậu của thế giới vật chất không có mục đích tìm hiểu nguyên lý vận hành của nó, mà khi đạt được chân lý (sự thật) tuyệt đối để giải phóng mình khỏi những đau khổ do việc gắn kết sai lầm với thực tại biểu kiến của thế giới bên ngoài và nhờ đó mà đạt được tiến bộ trong sự hoàn thiện bản thân.

♦ Vọng Tâm

Trong thế  giới con người, chủng ta sống tràn ngập trong vọng tưởng và điên đảo. Vọng tưởng là do mê lầm. Do đó, vọng tưởng là bị dính mắc vào sự vật dính mắc vào sự phân chia và cái biết. Chúng ta không thể ở mãi trong cảnh giới tuyệt đối, cái Nhất thể, cái Phật tính, mà cũng không thể cứ dính mắc vào thế giới hiện tượng. Chúng ta phải thấy biết đồng thời cả hai cái tương đối và tuyệt đối và hoạt động tự do trong đồng thời cả hai thế giới đó. Đây là sự giải thoát.

Một câu chuyện Thiền: Trước Thiền, đầu tiên thấy núi là núi, sông là sông. Nghĩa là những gì ta nhận thức được là thế giới hiện tượng, mọi thứ được đặc trưng bởi sự khác biệt. Trong lúc đang hành trì Thiền sâu và nắm bắt được sự hòa hợp trong cuộc sổng thì đột nhiên núi không còn là núi mà sông cũng chẳng còn là núi mà sông cũng chẳng còn riêng sông, chỉ có nhất thể, chỉ có tính duy nhất và lúc này mọi khái niệm phân biệt đều rơi rụng. Khi đã thành tựu Thiền, ta lại thấy núi lại là núi, sông lại là sông như lúc ban đầu, nhưng không còn theo nghĩa tương đối trước khi thực chứng. Điều này nói lên rằng không phải nhận thức là vấn đề, mà sự bám chấp vào nhận thức đó là vấn đề.

♦ Duy Tâm Tạo

Trong các kinh điển đều nói lên khái niệm: Tất cả những gì mà chúng ta quán nhận được, hình dung được đều do tâm thức. Điều này có thể diễn dịch, mỗi khi nhận biết một sự vật hiện tượng nào đó thì ngay lúc đó tâm (ý thức và mạt na thức) đã gán cho sự vật hiện tượng một nhãn hiệu. Chẳng hạn về một lọ cắm hoa hồng. Nhiều người khi đối diện với lọ hoa đã nhào nặn và biến đổi trong tâm thức của từng người, rốt cuộc nó đã trở thành một sản phẩm của chính tâm thức của mỗi người và do đó có thể nói rằng đối tượng lọ hoa không thực sự hiện hữu như chính nó là.

Thông thường khi cảm nhận được các sự vật hiện tượng ở bối cảnh bên ngoài thì sự thu hút của nó sẽ khiến cho tâm thức  bám chặt vào hình tướng nó và ta có cảm giác là sự cảm nhận của mình là xác thực. Trạng thái này có hàm một ý nghĩa là tâm thức đã tương tác và hòa nhập với bối cảnh đó, đây chính là lúc tâm thức  bị lừa đối và nó sẽ dẫn đến sự duy trì bản chất sai lầm. Sự sai lầm này của tâm thức, một phần do ta đặt sự quan trọng quá mức vào thế giới bên ngoài; phần khác là sự chi phối thường xuyên bởi tư duy nuối tiếc quá khứ hay sự chiêu cảm của Nghiệp lực.

Thế cho nên hãy tập trung thường trú trong thể dạng tự nhiên là hội nhập với hiện tại. Phương cách này tỏ ra hiệu quả để thực hiện những kinh nghiệm nuôi dưỡng được trạng thái trong sáng của Tâm. Tỉ như hình ảnh mặt nước,  lúc bị khuấy động sẽ tạo ra sóng và bọt thì không thấy được sự trong suốt của nó. Vậy hãy hòa mình sống với tâm hồn nhiên, chỉ nghĩ đến thời khắc hiện tại và hòa nhập với thể dạng “phi khái niệm“. Ta thử nghe, điệu biến tấu chế tác của tâm:

“… Trên sóng lúa, nét chiều thấp thoáng

Một nét cong xao động tâm hồn

Trời khoáng đãng ngây thơ con diều giấy

Ta thấy mình, chưa dễ đã lớn khôn!…”

(Hồng Thế)

hay là:

“…Đưa người, ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng”

  (Thâm Tâm)

Khái quát rằng các đối tượng thật sự hiện hữu, thế nhưng chúng không hiện hữu đúng với phong cách mà ta tưởng tượng, cảm nhận về chúng. Nói cách khác, các đối tượng không hề mang thực thể nội tại, hay Tánh Không của chính sự hiện hữu là bản thể tối hậu của nó.

Hiểu biết Tánh Không về mặt trí thức chỉ thực sự có ích khi nhìn thấy thế giới này và cả chính mình đều thay đổi khác đi. Thay đổi để gỡ bỏ mọi bám víu vào sự vật hiện tượng dưới dạng hình tướng, để chúng biến đi, trả lại cho ta một bầu không gian trống không, trong sáng và thanh thoát, mở ra bước chân trên con đường dài thực hiện sự Giác Ngộ. Mong ước đạt được sự Giác Ngộ là nền tảng của tỉnh thức, nên việc khởi động nền tảng đó để đạt được mục tiêu mong cầu, chính là Bồ Đề tâm.

Sự hiểu toàn vẹn về Tánh Không sẽ có đủ khả năng loại bỏ được vô minh cơ bản (chấp cái tôi và cái của tôi), giải thoát dần những khổ đau, thấy được sự méo mó của tâm thức do hư vọng, do ích kỷ hẹp hòi.Từ đó Bồ Đề tâm được phát động và giữ vai trò hết sức quan trọng đối với người học Phật bước vào con đường tâm linh một cách quả quyết.

* * *

Kinh Pháp Cú có viết rằng:

“Tâm thức dẫn đầu các hiện tượng, tâm là chủ, tâm tạo tác”.

Rõ ràng, lời dạy của Đức Phật và lời giảng giải của kinh luận cho thấy bên trong mọi sự vật hiện tượng và phía sau sự dẫn đầu của tâm thức và sự tự t ạo dựng ra chính nó phải chăng là một không gian trống rỗng “Ở thể dạng hoàn toàn tinh khiết, vô song và tối thượng không có gì vượt hơn cả” mà chính Đức Phật đã thường trú trong đó.

Chúng ta cảm nhận được phương tiện thiện xảo của sự cụ thể hóa Tánh Không qua dung nhan sắc màu danh ngôn: Phật tính, Chân Như,. Niết Bàn, Pháp Thân, Trí Tuệ Như Lai, Bản Thể, Ánh sáng trong suốt trong Cận Tử Nghiệp… Tất cả đều thể hiện sự tương phản giữa dạng tâm thức giải thoát nhờ an trú trong Tánh Không và tâm thức vô minh ô nhiễm trần tục. Tu tập chính là nỗ lực kiên trì chuyên hóa của tâm thức trong chính chúng ta  mà thôi. 

 =================

Tài liệu tham khảo 

  1. Đại Lai Lạt Ma: Tu Tuệ, Hoang Phong biên dịch, NXB.Hồng Đức, 2013

  2. Bernie Glassman: Vòng tròn bất tận, Nguyễn Quyết Thắng dịch, NXB Hồng Đức, 2014

  3. David Bohm: Tư duy như một hệ thống, Tiết Hưng Thái dịch, NXB Tri Thức, 2011

 
 

REPORT THIS AD

 

REPORT THIS AD

Chia sẻ: facebooktwittergoogle
Các bài viết khác