Pythagore và thuyết luân hồi
py
Thích Nhuận Châu
Quan niệm tái sinh, luân hồi (saṃsāra)
của sinh mạng không phải chỉ riêng có trong tư tưởng Phệ-đà, trong Phật giáo hay
Ấn Độ giáo, và như xưa nay chúng ta thường nghĩ là chỉ có các quốc gia ảnh hưởng
nền minh triết phương Đông mới bị chi phối bởi quan niệm này. Triết học phương
Tây, mà chủ yếu là nhà toán học, triết gia Pythagore đã mang sắc thái này khá
đậm nét. Ông không chỉ có quan niệm rạch ròi về sự tái sinh, luân hồi (metempsychosis)
của con người, mà còn chỉ rõ đó là do linh hồn (soul) đi đầu thai, và ông
còn tin rằng có sự chuyển dịch linh thức từ con người sang con vật sau khi mạng
chung. Ông biết được số phận của linh hồn sau khi chết. Ông quan niệm linh hồn
là thường hằng, bất tử. Và từ niềm tin tưởng đó, ông duy trì cuộc sống bằng cách
ăn chay (vegetarian), chỉ ăn rau đậu, cây trái chứ không ăn thịt động
vật. Ông quan niệm trong sinh mạng động vật có sự tiến hóa từ linh thức con
người, nên thân xác con vật khi chết, biến thành thức ăn cho con người thì cũng
mang theo trong đó linh hồn của con người. Vậy nên, sự tin tưởng vào luân hồi (saṃsāra)
của linh thức con người đã có ảnh hưởng rất nhiều đến nhân sinh quan và vũ trụ
quan, dẫn đến những thành quả phát minh khoa học và toán học, âm nhạc, triết
học của Pythagore.
Trước ông, quan niệm này đã có trong triết gia như Thales (624-546 BC). Với
quan niệm Vũ trụ luận khoa học, Thales loại trừ các yếu tố thần thoại khi giải
thích các hiện tượng thiên nhiên, và ảnh hưởng đến Platon, với quan niệm hình
thành nên Cộng hòa quốc, một quốc độ được hình thành hoàn toàn do ý chí của con
người chứ không có sự can thiệp nào của thần linh, như trong tác phẩm
Republic của ông.
Bài viết sẽ bắt đầu từ con người Pythagore, các lĩnh vực ông đã thành tựu. Quan
niệm linh thức luân hồi, việc ăn chay, những ảnh hưởng đến vũ trụ luận và nhân
sinh quan của ông. Chúng tôi sẽ trình bày theo tinh thần đối chiếu giữa các hệ
tư tưởng chủ đạo đương thời là Phệ-đà và Phật giáo, cùng dẫn chứng thêm một số
triết gia Tây phương chịu ảnh hưởng quan niệm của ông. Bài viết hoàn toàn không
có ý định phê phán hay đánh giá về các truyền thống tín ngưỡng hay các trường
phái triết học có liên quan đến phạm trù này.
PYTHAGORE VÀ THỜI ĐẠI
Pythagore sinh tại
đảo Samos,
vùng bờ biển phía Tây Hy Lạp, cha là thương gia, mẹ là người ở đảo Samos. Thời
trẻ tuổi, ông đến thành phố
Crotone
phía Nam
Ý
để học và để trốn tránh chính phủ
chuyên chế
Polycrates.
Ở đây ông được học với bậc thầy toán học kỳ tài đương thời là Thales. Lúc đó,
Pythagore mới 16 tuổi. Thales rất thán phục về trí thông minh và tài năng của
Pythagore.
Ông đã khuyên Pythagore đến
Memphis
ở
Ai Cập
học tập môn tế lễ với các thầy tư tế nổi tiếng tài giỏi tại đó. Có lẽ ông đã
học một số nguyên lý hình học, sau này là cảm hứng để ông phát minh ra
định lý
toán học nổi tiếng mang tên ông ở tại nơi đây. Sau đó ông tiếp tục lên đường để
tìm hiểu những gì tinh túy của những quốc gia được xem là có sự phát triển về tư
tưởng, triết học, số học... đương thời. Pythagore đã đến Ấn Độ, Babilon, Ai Cập
và đã ở lại những nơi đó nhiều năm. Ông trở nên uyên bác trong hầu hết các lĩnh
vực quan trọng: số học, hình học, thiên văn, địa lý, y học, triết học khi tiếp
nhận thêm những kiến thức thu thập được từ các quốc gia này.
Đến lúc 50 tuổi, Pythagore mới trở về tổ quốc của mình. Ông thành lập một ngôi
trường ở miền Nam Italy, nhận hàng trăm môn sinh, kể cả phụ nữ, với thời gian
học 5 năm gồm 4 bộ môn: hình học, toán học, thiên văn, âm nhạc. Chỉ những học
sinh giỏi vào cuối năm 3 mới được chính ông trực tiếp dạy.
Các học trò của Pythagore tự gọi mình là mathematikoi (nhà toán học). Họ
sống trong trường nội trú, không được sở hữu cá nhân và
ăn chay
theo thầy mình. Các sinh viên khác sống tại các vùng gần đó cũng được cho phép
tham gia vào lớp học của Pythagore, được gọi là akousmatikoi (người
nghe). Các sinh viên đó được ăn thịt và có đồ sở hữu riêng.
Theo
Iamblichus,
các học trò của Pythagore sống một cuộc sống theo quy định sẵn với các môn học
tôn giáo, các bữa ăn tập thể, tập thể dục, đọc và học triết học.
Âm nhạc
được coi là nhân tố tổ chức chủ chốt của cuộc sống này: các môn đồ cùng nhau hát
các bài ca tụng
Apollo;
họ dùng đàn
lyre
để chữa
bệnh cho tâm hồn và thể xác, ngâm
thơ
trước và sau khi ngủ dậy để tăng cường trí nhớ.
Các mathematikoi được học chi tiết và tỉ mỉ hơn về triết học và toán học.
Còn nhóm ngoài, akousmatikoi, là những người chỉ được nghe giảng về các
tiêu đề rút gọn trong các lời dạy của Pythagore, và không được giảng giải rõ
thêm.
Mathematikoi
chú trọng nhiều tới
việc
hiểu tường tận vấn đề hơn
akousmatikoi,
thậm chí tới mức không cần thiết như ở một số quy định và các nghi lễ tâm linh.
Đối với
mathematikoi,
trở thành môn đồ của Pythagore là vấn đề về bản chất thiên phú và sự thấu hiểu
bên trong.
Akousmatikoi
chỉ được nghe các bài giảng do Pythagore đọc từ sau một bức màn. Họ không được
phép nhìn thấy Pythagore và không được dạy những bí mật bên trong của mọi sinh
hoạt. Thay vào đó, họ được truyền dạy các quy luật đối xử và đạo đức dưới hình
thức khó hiểu, những câu nói ngắn gọn ẩn giấu ý nghĩa bên trong. Akousmatikoi
coi trọng mathematikoi và xem đó là các môn đồ Pythagore chính thống.
Nhưng mathematikoi lại không coi akousmatikoi như vậy. Sau khi
lính của Cylon, một môn đồ bất mãn giết Pythagore và một số mathematikoi,
hai nhóm này hoàn toàn chia rẽ với nhau. Vợ Pythagore là Theano cùng hai cô con
gái lãnh đạo nhóm mathematikoi.
Vợ ông, Theano, con gái của Brontinus, là một nhà toán học. Bà
được cho là người đã viết các tác phẩm về toán học, vật lý, y học và tâm lý học
trẻ em, dù không còn tác phẩm nào tồn tại đến ngày nay. Tác phẩm quan trọng
nhất của bà được cho là về các nguyên lý trung dung. Ở thời phụ nữ thường bị coi
là vật sở hữu và chỉ đóng vai trò người nội trợ, nhưng Pythagore đã cho phép
phụ nữ có những hoạt động ngang quyền với nam giới trong tổ chức của ông.
PYTHAGORE NHÀ TOÁN HỌC
Mọi người đều biết đến Pythagore là nhà toán học với định lý mang tên ông:
-
Tổng diện tích của 2 hình vuông có cạnh góc vuông kề nhau (a và b) thì bằng diện
tích của hình vuông có cạnh là cạnh huyền của tam giác đó (c).
-
Tổng bình phương của hai cạnh góc vuông thì bằng bình phương cạnh huyền của tam
giác vuông đó.
-
Công thức:
Lịch sử của Định lý Pythagore mang tên ông còn nhiều điều đáng tìm hiểu thêm.
Việc Pythagore đích thân chứng minh định lý này hay không vẫn còn chưa chắc
chắn, vì trong thời cổ đại, khám phá của học trò cũng thường được gán với danh
xưng của thầy. Văn bản đầu tiên đề cập tới định lý này có kèm tên Pythagore xuất
hiện năm thế kỷ sau khi ông qua đời. Một điều đáng lưu ý là việc truyền dạy kiến
thức cho học trò của ông, Mathematikoi cũng như Akousmatikoi, là
chỉ bằng khẩu truyền, tức chỉ qua lời nói, chứ không được ghi chép bằng các ký
hiệu hay ngôn ngữ. Điều này có tương quan với sự truyền thừa tư tưởng và triết
học Phệ-đà ở Ấn Độ, và cả đối với giáo lý đạo Phật. Được biết, tư tưởng Phệ-đà
được quan niệm là sự khải thị (śruti) của Đấng tối cao (Brahman). Đây là
thẩm quyền tối cao. Sự truyền thừa đến các tầng lớp tối ưu được cho là hàng
Bà-la-môn chỉ qua sự khải thị bằng âm thanh (śabda), tức là lời nói. Đến
thời kỳ đạo Phật cũng vậy. Đức Phật giảng dạy giáo pháp giác ngộ cho hàng đệ tử
cũng bằng lời nói. Người nghe ứng dụng lời dạy đó vào việc hành trì, tu tập
chuyển hoá, đi đến giác ngộ. Lớp đệ tử đó được gọi là Thanh văn (Śrāvaka). Mãi
cho đến thời kỳ vua A Dục (Aśoka; 273 – 232 tr. TL), triều đại Khổng Tước (孔雀,
S: Maurya), mới có chữ viết.
QUAN NIỆM VỀ LUÂN HỒI
Pythagore tin tưởng có sự luân hồi, điều được cho biết qua nhiều thư
tịch còn lại đến bây giờ. Thuật ngữ Metempsychosis được ghi nhận rất sớm
trong tín ngưỡng Orphic, mà người sáng lập là Orpheus, xuất hiện đầu tiên ở vùng
Thrace, được cho là thừa hưởng một nền văn minh bán khai, thuộc vùng biên giới
Tây bắc Hy Lạp… Sau này du nhập vào vốn từ vựng Anh ngữ là transmigration
hay reincarnation. Thuật ngữ này đã có sự hạn chế của nó ngay trong nội
hàm vì nó gắn liền với linh hồn (soul), là đối tượng tái sinh hay luân
hồi. Orpheus trong thần thoại Hy Lạp là nhà thơ và nhạc sĩ. Vợ của ông mất sớm.
Quá thương tiếc vợ, Orpheus đã xuống âm phủ để tìm kiếm và gặp được bà, nhưng
không thể đưa bà trở về trần gian được. Orpheus cho rằng linh hồn (soul)
và thể xác (body) được kết hợp với nhau bởi mối liên hệ không bình
thường. Linh hồn (soul) thì thiêng liêng (divine), bất tử (immortal
) và khao khát tự do (aspires to freedom); trong khi thể xác (body)
bị ràng buộc như tù nhân. Cái chết giải quyết mối liên hệ này, nhưng chỉ kìm hãm
lại linh hồn tự do sau một thời gian ngắn, vì vòng quay sinh tử không có gì lay
chuyển được. Thế nên linh hồn tiếp tục cuộc hành trình của nó, qua lại giữa sự
hiện hữu riêng biệt không bị kiềm chế và sự tái sinh mới, đi quanh vòng tròn
rộng lớn của quy luật tất yếu, như là sự kết hợp của nhiều thân thể con người và
súc vật.
Như thế, thuật ngữ Metempsychosis chỉ được dùng trong ngữ cảnh triết học
Hy Lạp, nhưng cũng được các triết gia hiện đại như Schopenhauer
và Kurt Gödel
sử dụng. Nó có một vai trò nổi bật trong tác phẩm Ulysses của James Joyce
và nó cũng có liên hệ với tư tưởng của Nietzsche.
Một thuật ngữ khác đồng nghĩa đôi khi được dùng là Palingenesia.
Triết gia Hy Lạp có liên quan đến luân hồi (metempsychosis)
sớm nhất chính là Pherecydes xứ Syros,
nhưng Pythagore, được biết là học trò của ông, là người khoách trương triết lý
nổi bật này đầu tiên. Pythagore không phải là người phát kiến học thuyết này và
cũng chẳng phải đã du nhập từ Ai Cập, nhưng ông đã làm cho chính mình nổi tiếng
khi đưa quan niệm của Orphic từ miền Đông bắc Hellas đến Magna Graecia và bằng
vào việc nối kết những cộng đồng dành cho sự quảng bá học thuyết đó.
Heraclides Ponticus đã kể lại câu chuyện rằng Pythagore tuyên bố ông đã
trải qua bốn kiếp sống trước đây và ông có thể kể ra chi tiết từng kiếp sống đó.
Trong một kiếp sống, theo Aulus Gellius kể lại, Pythagore là một kỹ nữ xinh đẹp.
Theo Xenophanes, Pythagore đã nghe được tiếng khóc của người bạn ông trong tiếng
sủa của con chó.
Xenophanes chú ý đến câu chuyện Pythagore làm trung gian hòa giải thay cho
con chó bị đánh đập. Ông thú nhận rằng đã nhận ra trong tiếng kêu của con chó là
giọng nói của người bạn đã qua đời. Pythagore cho đó là tiếng nói của Euphorbus,
con trai của Panthus, đã mất trong trận chiến thành Trojan, cũng như những
cá tính khác của ông, là một thương gia, một kỹ
nữ
v.v... Trong tác phẩm The Life of Apollonius of Tyana, Philostratus viết
rằng Pythagore không những chỉ biết rõ ông là ai, mà còn biết rõ ông đã từng là
người như thế nào.
Thực ra, tầm quan trọng và sức nặng của học thuyết luân hồi (metempsychosis)
ở Tây phương là do sự thừa nhận của Plato. Trong thần thoại Mạt thế luận (eschatological)
khép lại tác phẩm Republic của mình, Platon đã trình bày cách mà Er, con
trai của Armenius, sống lại sau khi chết 12 ngày và kể lại những bí ẩn của thế
giới bên kia như thế nào. Er nói rằng sau khi chết, nó đi vào tòa Phán xét
(Judgment) và thấy có những linh hồn (soul) trở lại từ cõi trời (heaven),
và họ bắt đầu với cảnh giới tương ứng với chọn lựa kiếp sống mới của họ, làm
người hay loài vật. Er thấy linh hồn của Orpheus biến thành con thiên nga, linh
hồn Thamyras biến thành chim sơn ca, linh hồn những con chim biết hót chọn sự
tái sinh làm người, linh hồn của Atalanta chọn tái sinh thành một lực sĩ danh
giá. Con người biến thành loài vật. Loài dã thú và súc vật đã được thuần hóa
biến đổi cho nhau. Sau khi chọn lựa, linh hồn được uống nước sông Lethe,
rồi họ vụt tắt như sao băng qua kiếp sống mới. Có nhiều huyền thoại và giả định
về cùng một ấn tượng trong những cuộc đối thoại khác như về Phaedrus, Meno,
Phaedo, Timaeus và về luật pháp.
Chúng ta có thể tìm hiểu thêm về quan niệm linh hồn đầu thai của Pythagore qua
Platon, vì Platon chịu ảnh hưởng của Pythagore khá nhiều.
Theo quan niệm của Plato, số lượng của linh hồn là cố định; do vậy, sự tái sinh
không phải là sự sáng tạo nên một linh hồn mới, mà chỉ là sự chuyển di từ thân
nầy đến thân khác.
Nhưng quan niệm luân hồi (metempsychosis) của Plato lại bị phản bác bởi
nhiều học giả trong thời hiện đại, chẳng hạn như Marsilio Ficino trong luận đề
của ông Platonic Theology 17.3–4. Ở đó ông cho rằng ám chỉ của Plato về
luân hồi chỉ là phép phúng dụ (allegory).
Arthur Schopenhauer (1788–1860), nhà toán học kiêm triết gia người Đức nói về
luân hồi như sau: “Ta thấy rằng lý thuyết luân hồi khởi xuất từ thuở sơ khai,
trong thời kỳ vàng son của nhân loại, luôn luôn lan rộng trong nhân gian, được
coi là tín ngưỡng của phần lớn mà cũng là giáo lý của tất cả tôn giáo; ngoại trừ
tín ngưỡng của người Do Thái và hai tôn giáo xuất xứ từ hình thức thật tế nhị
của tín ngưỡng ấy (Hồi giáo và Cơ-đốc giáo). Các thuyết luân hồi đã biến chuyển
đến rất gần chân lý mà Phật giáo đề cập. Như vậy, trong lúc Cơ-đốc giáo tự an ủi
với ý tưởng sẽ tự gặp trở lại trong một thế gian khác, trong thế gian ấy sẽ tìm
lại trọn vẹn nhân cách của mình, và cũng sẽ tự nhận ra tức khắc, thì theo các
tôn giáo khác, sự gặp gỡ trở lại đã diễn tiến nhiều lần, nhưng ta không nhận
thức được. Trong những kiếp tái sinh liên tục tái diễn, những người đã có liên
quan mật thiết hoặc có tiếp xúc ngay với nhau sẽ gặp lại trong một kiếp sống vị
lai, cũng lại có sự liên hệ với nhau hoặc y hệt, hoặc tương tự, và những tình
cảm, thiện hay ác, đối với nhau như trong kiếp sống này…
Như được ghi chép nơi kinh Phệ-đà và tất cả các kinh sách khác ở Ấn Độ,
thuyết luân hồi được xem là nền tảng của Bà-la-môn giáo và Phật giáo. Cho đến
nay, phần lớn các dân tộc Á Đông không phải Hồi giáo, hơn phân nửa nhân loại,
vẫn tin vững chắc vào thuyết luân hồi và đời sống thực tế hàng ngày vẫn chịu ảnh
hưởng sâu sắc thuyết này. Đó cũng là tín ngưỡng của người Ai Cập và từ Ai Cập,
Orphée, Pythgore và Platon đã nhiệt liệt nhận lãnh. Theo như trên, sự tin tưởng
vào thuyết luân hồi tự nó là niềm tin quả quyết tự nhiên của con người mỗi khi
nghĩ đến vấn đề này mà không bị ám ảnh trước.” (The World As Will And
Idea)
Theo triết học Phệ-đà, tư tưởng cổ đại Ấn Độ, quan niệm luân hồi (saṃsāra)
mang ý nghĩa khác hơn. Đối tượng đi đầu thai, hay chịu luân hồi là Ātman. Theo
các nguồn thư tịch cổ xưa nhất thì Ātman có nghĩa là hơi thở (breath),
như trong
Ṛg-veda
X, 16, 3:
Sūryam cākṣuḥ
gacchatu, vātam ātmā.
Đây là lời đọc trước người chết, có nghĩa là “Nguyện cho con mắt
người đi cùng với mặt trời, hơi thở (ātmā) đi về cùng với gió.”
Thế nên Ātman có nghĩa là hơi thở sinh động, sức sống. Thế nên tinh thần hay hơi
thở, thường được dùng trong ý nghĩa mà chúng ta gọi là linh hồn (soul).
Từ đó, Ātman thường được hiểu là sự sống (life), tinh thần (spirit).
Từ linh hồn (soul) chỉ có một bước nhỏ để sang Ngã (Self), và bước
đó thường có ý nghĩa cấu trúc ngữ pháp hơn là thực tế. Chúng ta đọc được trong
Atharva-veda IX, 5, 30:
Ātmānaṃ
pitāraṃ
putraṃ
paiitraṃ
pitllmahaṃ,
Jāyāṃ
jānitrim mātāraṃ
ye priyās tān ūpa hvaye.
“Chính tôi, (đối với) cha, con, ông nội, vợ, mẹ, bất cứ người nào cũng là thân
thiết. Tôi mong họ được như vậy.”
Nhưng ở đây Ngã (Self) còn có thể được dịch là linh hồn (soul)
XE "linh hồn (soul)"
hay người (person). Lại nữa, trong
Ṛg-veda
XE "Ṛg-veda"
IX, 113:
Balām dādhānaḥ
ātmāni,
có nghĩa là đặt sức mạnh trên chính mình.
Và sn
XE "Ātman"
trở thành đại danh từ chuẩn mực chỉ cho tự thân. Và từ đó có quan niệm chính
Ātman, tự cái Ta chịu luân hồi (saṃsāra).
Ātma
ở đây có thể dịch là tinh thần của cuộc sống. Nhưng trong một đoạn văn
khác, Ātman
XE "Ātman"
đơn giản biểu thị cho bản chất nội tại của vạn vật, và đặc biệt hơn là của con
người, để cuối cùng nó có nghĩa rất giống những gì các triết gia thời trung cổ
gọi là bản thể (quiddity), hay các triết gia Ấn Độ gọi là Idantā
of things (sự đâm chồi của vạn vật). Như thế, chúng ta đã đọc trước tiên câu:
ātmānam ātmanā, paśya
XE "ātmānam ātmanā, paśya"
, có nghĩa là “Thấy cái Ngã của mày bằng cái Ngã của mày”; hoặc câu: ātmaiva
hy ātmanaḥ
sākṣī
XE "ātmaiva hy ātmanaḥ
sākṣī"
, có nghĩa là “Ngã chính là chứng nhân của Ngã”. Trong ý nghĩa này, Ātman về sau
được dùng như là danh xưng của nhân vật cao nhất, là linh hồn của thế giới, Đệ
nhất nhân (Paramātman), như trong Śatap Brāhmaṇa
XE "Śatap. Brāhmaṇa"
XIV, 5,5,15:
Sa vā ayam ātmā, sarveṣāṃ
bhūtānām adhipatiḥ,
sarve-ṣāṃ
bhūtānāṃ
rājā.
Có nghĩa là:
“Cái Ngã đó là quyền lực tối cao của mọi hữu tình, nó là vua của tất cả các
loài”.
Và khi Ātman thể nhập vào Brahmā, là đạt đến Đại diệu lạc, là hoàn tất tiến
trình luân hồi (saṃsāra).
Còn gọi là thể nhập tự ngã, Tiểu ngã (Ātman) vào Đại ngã (Brahama).
Đến thời Đức Phật, quan niệm này có phần khác hơn nữa.
Theo đạo Phật, chúng sinh được sanh ra từ bào thai của nghiệp (S: karmayoni).
Chính hành động hay nghiệp (karma) của chúng sinh trong quá khứ là cái
bào thai nuôi dưỡng và tạo điều kiện để tái sanh. Cha mẹ cấu hợp nền tảng vật
chất. Như vậy, trước chúng sanh có chúng sanh. Trước một chúng sanh trong kiếp
hiện tại phải có một chúng sanh trong kiếp quá khứ. Lúc thọ thai, chính nghiệp (karma),
tức hành vi của con người, đã tạo điều kiện cho thức (vijñāna) đầu tiên
làm nguồn sống cho thai bào.
Nếu cha và mẹ gặp nhau mà không nhằm thời kỳ thọ thai của mẹ và
không có một chủng tử (S: gandharva; P: gandhabba; Hán:
乾闥婆)
thì không có mầm sống. Nếu cha mẹ gặp nhau trong thời kỳ thọ thai của mẹ mà
không có sự phối hợp của một chủng tử (gandharva) thì cũng không có mầm
sống. Nếu cha mẹ gặp nhau nhằm thời kỳ thọ thai của mẹ và có một chủng tử thì có
mầm sống...
Gandharva
ở đây không phải là một vị trời hay một bà mụ có bổn phận chứng kiến việc thọ
thai, mà chỉ là một chủng tử, hay yếu tố nòng cốt trong bào thai. Thuật ngữ
gandharva chỉ có ý nghĩa trong trường hợp đặc biệt này thôi. Không nên lầm
lẫn với một linh hồn trường cửu.
Có sự tái sanh ở chỗ này tất nhiên phải có một chúng sanh chết ở một nơi nào
khác. Nói một cách chính xác, sự sanh ra của một chúng sanh, tức sự cấu hợp của
ngũ uẩn (khandhanam patubhavo), hay những hiện tượng tâm-vật-lý trong
kiếp hiện tại, chuyển tiếp liền theo cái chết của một chúng sanh vừa qua đời,
cũng giống như ta thường nói, khi mặt trời lặn ở một nơi tức là mặt trời mọc ở
một nơi khác. Câu nói có vẻ bí hiểm ấy có thể rõ ràng và dễ hiểu hơn nếu ta hình
dung đời sống như một lượn sóng, chứ không phải như một đường thẳng. Lượn sóng
nổi lên, rồi hạ xuống để bắt đầu một lượn sóng mới. Tuy hai lượn sóng khác nhau
nhưng không có một thời gian gián đoạn. Sanh và tử chỉ là hai giai đoạn trong
một tiến trình. Sanh rồi tử, tử rồi sanh, sự luân lưu bất tận sanh-tử, tử-sanh
của chuỗi dài những kiếp sống gọi là luân hồi (saṃsāra).
Saṃsāra,
luân hồi, theo đúng nghĩa uyên nguyên của danh từ, là cuộc đi thênh thang bất
định và không ngừng. Trong Atthasālinī, ngài
Buddhaghosa
định nghĩa danh từ saṃsāra
như sau:
Khandhanam patipati dhatu-ayatanana ca
Abbhocchinam vattamana samsaro ti pavuccati.
Nghĩa là, saṃsāra,
luân hồi, là sự tiếp diễn không ngừng của ngũ uẩn, tứ đại và lục căn.
Chấm dứt luân hồi (saṃsāra)
chính là giải thoát, là cảnh giới Niết-bàn. Làm thế nào để đạt đến cảnh giới
này? Đó là giáo lý mà Đức Phật đã giảng giải suốt 49 năm, từ khi Ngài chứng ngộ
đến khi nhập diệt. Đó cũng chính là lý tưởng, là mục đích tối hậu của người tu
học Phật pháp.
VẤN ĐỀ ĂN CHAY
Trong một đoạn tự truyện dấu tên về Pythagore được ‘lưu trữ’ bởi Photius, cũng
đề cập đến thuyết luân hồi: “Pythagore tránh không ăn thịt động vật do vì
niềm tin cứng nhắc vào sự luân hồi (transmigration), và cũng vì thức ăn từ thịt
đòi hỏi sự tiêu hóa rất nhiều, và quá nhiều chất béo. Họ cũng tránh dùng đậu
(bean), vì khiến đầy hơi, và những lý do khác.”
Và trong một phát biểu khác:
“Pythagore xác định rằng con người có thể phát triển theo ba cách: trước hết,
bằng sự đối thoại với Thượng đế (God), vì đối với các ngài, không ai có thể tiếp
cận các ngài được trừ phi tránh xa các việc ác, noi gương các bậc Thánh, thậm
chí tiêu dung trong công hạnh các ngài; thứ hai, bằng tài năng, đó là đức tính
của Thánh nhân; thứ ba, bằng niềm khát khao cho sự thoát ly thanh thản nhẹ nhàng
linh hồn ra khỏi thể xác, như là kết quả từ sự rèn luyện để thăng hoa linh hồn
như khởi đầu giấc mơ thần thánh...”
Nơi mô tả nầy, có một trình bày về khả năng tồn tại của linh hồn khi tách lìa
hẳn với thân xác, có một điềm báo trước trong giấc mơ, mối liên hệ giữa học
thuyết luân hồi (transmigration) và sự kiêng cữ của người ăn chay. Còn có
những đề cập đến kỷ luật rèn luyện để thăng hoa, khích lệ tái sinh trong đời
sống cao hơn và xa lìa hẳn con đường ác.
Diogenes Laertius nêu lên rằng con đường tái sanh có mối liên hệ mật thiết với
ký ức, như chúng ta có thể thấy trong một truyện ngụ ngôn, Pythagore đã chọn
trí nhớ khi ông từ chối sự bất tử. Mặc dù sự chọn lựa này hàm ý rằng lẽ ra ông
phải chết, nhưng chính trí nhớ là chìa khóa dẫn đến sự bất tử để vượt qua mê hồn
trận. Lại nữa, trí nhớ được nhấn mạnh bởi Iamblichus và Porphyry như là tiến
trình của hồi tưởng. Và ký ức này có liên quan đến sự thực hành, liên quan đến
mệnh lệnh đạo đức, chẳng hạn như kính trọng Nhất thể, đó là sống thực hành phép
ăn chay (vegetarianism).
Quan niệm ăn chay của Pythagore có phần nào tương đồng với quan niệm của Kỳ-na
giáo (Jainism). Các môn đệ Kỳ-na giáo tin rằng tất cả các sinh vật dù là loài vi
sinh (micro-organism) cũng có linh hồn, và chúng có một hay nhiều giác
quan ngoài năm giác quan. Nên các đệ tử Kỳ-na giáo làm mọi điều có thể để giảm
thiểu sự tổn hại đến đời sống sinh vật. Hầu hết những tín đồ Kỳ-na giáo sùng
kính đều không ăn rau củ, vì họ cho rằng rau củ chứa đựng nhiều loài vi sinh vật
hơn so với các thứ rau khác. Thế nên họ chỉ ăn đậu và trái cây, mà việc trồng
trọt những thứ ấy không phải dính líu đến việc sát hại quá nhiều vi sinh vật.
Các thực phẩm được chế biến từ súc vật chết cũng không được sử dụng, vì khi một
sinh vật bị chết, mộ số vi sinh vật (được xem như là decomposers - vi
khuẩn hoặc nấm làm cho chất hữu cơ mau thối rữa) sẽ tái tạo trong cơ thể để phân
hủy cơ thể, và khi ăn thịt động vật chết, sự xung đột từ việc phân hủy không thể
nào tránh khỏi. Các đạo sĩ Kỳ-na giáo thường tuyệt thực, và khi qua năng lực
siêu nhiên mà họ biết rằng mạng sống của họ còn rất ngắn thì họ bắt đầu tuyệt
thực cho đến chết.
Đặc biệt có một số người chỉ sống bằng trái cây (fruitarian).
Mật ong không được dùng, vì mật ong tổng hợp nhiều thứ như trứng, chất bài tiết,
xác ong chết và nước bọt của ong. Một số đạo sĩ Kỳ-na giáo không sử dụng phần
thảo mộc sinh trưởng dưới đất như rễ cây và các loại củ, vì những vi sinh vật có
thể bị tổn hại khi rễ và củ bị nhổ lên.
Phật giáo có câu chuyện Thảo hệ Tỷ-khưu (草系比丘;
S:
Kuśa-vandhana), Tỷ-khưu bị trói bằng cỏ. Nhưng đây là thí dụ để nhấn mạnh việc
Tỷ-khưu nghiêm giữ giới cấm. Trong Đại trang nghiêm kinh luận, quyển 3 có
ghi: Có vị Tỷ-khưu đi giữa đường gặp giặc cướp, chúng liền dùng cỏ tươi trói họ
lại, vì sợ làm đứt sự sống của cỏ nên các Tỷ-khưu không dám cởi trói. Câu chuyện
này được dùng để ví dụ việc giữ gìn giới cấm một cách nghiêm chỉnh của hàng xuất
gia trong đạo Phật.
ẢNH HƯỞNG ĐẾN VŨ TRỤ LUẬN
Niềm tin về luân hồi (metempsychosis) của linh hồn và chủ trương ăn chay
của Pythagore đã có ảnh hưởng đến quan niệm về vũ trụ. Theo sử gia người Hy Lạp
Diogenes Laertius, Pythagore là người đầu tiên dùng thuật ngữ kosmos để
chỉ cho vũ trụ (universe). Và Pythagore chính là người đầu tiên công bố
rằng thế giới là hình tròn.
Giải thích theo từ nguyên học (etymology), kosmos là một cấu trúc
(structure) mang tính hài hòa (harmony), có tổ chức (organisation)
theo trật tự tự nhiên (natural). Vậy nên vũ trụ luận theo Pythagore là
một toàn thể hài hòa, trong đó các hiện tượng thiên nhiên, các vật thể, các hình
thái được tạo nên v.v... đều được sắp xếp thành một trật tự cân đối hài hòa.
Ắt hẳn đây là quan niệm tiến bộ đương thời về vũ trụ luận. Từ đây đã ảnh hưởng
đến các thế hệ triết gia về sau, gần nhất là Plato mà chúng ta thấy rõ nhất qua
tác phẩm Cộng hòa quốc (The Republics) của ông. Nhưng rồi theo thời gian,
cũng bị chìm lắng trong các hệ tư tưởng duy lý khác.
Mãi cho đến thời Giordano Bruno (1548–1600), người Ý, là triết gia, nhà toán
học, thiên văn học, đưa ra những học thuyết tán thành khoa học hiện đại của
Copernic, đó là thuyết vũ trụ vô hạn (infinite universe) và thế giới đa
phương (multiplicity of worlds), trong đó ông phản đối thuyết địa tâm
truyền thống (geocentric; earth-centred), và với trực giác, ông tán thành
và khoách trương thuyết nhật tâm (heliocentric; sun-centred) của
Copernic. Quyết định này đã dẫn đến cái chết đầy bi tráng của Bruno, vì ông
không khoan nhượng quan niệm phi lý của Giáo hội La-mã lẫn Giáo hội Cải cách
đương thời.
Sau đó là Galileo Galilei (1564-1642), người đưa ra thuyết tất cả các hành tinh
kể cả trái đất, đều quay quanh mặt trời, tán thành chủ thuyết của Copernic đã
gây tranh cãi trong giới thiên văn học. Quan điểm địa tâm (các hành tinh quay
quanh trái đất) đã là chủ thuyết thống trị từ thời Aristotle, và sự tranh cãi
nảy sinh sau khi Galileo trình bày thuyết nhật tâm như một minh chứng,
khiến Giáo hội La-mã cấm tuyên truyền nó như một sự thực đã được chứng minh.
Galileo cuối cùng bị ép buộc phải từ bỏ thuyết nhật tâm của mình và sống những
ngày cuối đời trong cảnh bị quản thúc tại gia theo lệnh của tòa án dị giáo
La-mã.
Phải hơn 10 thế kỷ sau mới lóe sáng trở lại một vũ trụ quan tiến bộ tưởng chừng
đã biến mất hẳn trong bầu trời phương Tây.
Tài liệu tham khảo:
- Max Müller, The Six Systems of Indian Philosophy, 1919, Bombay,
Calcutta, and Madras.
- Tuệ Sỹ, A-tỳ-đạt-ma Câu-xá, tập I, II. NXB. Phương Đông, 2012.
- Majjhima Nikāya, Mahatanhasamkhaya sutta, số 38. HT. Thích Minh Châu
dịch.
- Chambers, Dictionary of Etymology, Ed. Robert K Barnart. 1988.
- William Keith Chambers Guthrie, (1978), A history of Greek philosophy,
Volume 1: The earlier Presocratics and the Pythagoreans, page 173.
Cambridge University Press
- Smith, William, ed. (1867). Dictionary of Greek and Roman Biography and
Mythology.
- Riedweg, Christoph (2005). Pythagoras: His Life, Teaching and Influence.
Cornell University. pp. 5–6, 59, 73.
- Flavius Philostratus, The Life of Apollonius of Tyana, trad. F. C.
Conybeare, vol. 2, London, 1912, Book VI, p. 39.
Atthasālinī (Pāli) do ngài Phật Âm (Buddhaghosa)
biên soạn trong truyền thống A-tỳ-đạt-ma Nam phương Thượng toạ bộ
(Theravāda
Abhidharma).
Bản dịch tiếng Anh là The Expositor hay Providing the Meaning.
Trong đó ngài Phật Âm giải thích những thuật ngữ có trong
Dhammasangani,
một bản kinh trong tạng Nam truyền.