Huyền thoại về dấu chân Phật
HUYỀN THOẠI VỀ DẤU CHÂN PHẬT
HUYỀN THOẠI VỀ DẤU CHÂN PHẬT
Dấu chân Phật là những dấu vết/in hằn một phần hay cả bàn chân của Đức
Phật Gautama. Dấu chân Phật có hai dạng: Một là tự nhiên, như được tìm thấy trên
đá; hai là được tạo tác nhân tạo(1). Phần lớn trong số những dấu vết
“tự nhiên” được thừa nhận không phải là dấu chân thực sự của Đức Phật, nhưng các
bản sao hoặc biểu trưng của chúng, có thể được coi là cetiya (di vật Phật
giáo) và cũng là một hình thức phi hình tướng và biểu trưng cho Đức Phật buổi
đầu(2).
I. Dấu chân trong tín niệm Hindu
Trong tiếng Phạn pāda là từ để chỉ “chân”, với ý nghĩa xuất phát từ
“bước, sải chân, dấu chân, dấu vết; in vết, đánh dấu/ghi dấu”. Thuật ngữ này
được ứng dụng rộng rãi, bao gồm bất kỳ một phần nào trong tổng thể hoặc bất kỳ
sự phân chia nhỏ hơn nói chung. Bên cạnh đó, pāda cũng là thuật ngữ để
chỉ đơn vị đo lường tính theo chiều dài của một bước chân (giống như một sải
tay). Như một thước đo chiều dài, một pada đến 12 hoặc 15 bề
ngang/bề rộng của ngón tay, hoặc 1/2 hay 1/3 hoặc 3/7 của một prakrama.
Trong ngữ pháp tiếng Phạn, một pada là bất kỳ từ ngữ nào có nhiều biến tố
(danh từ hoặc động từ).
Những địa danh được tôn kính với “các dấu chân” (pāda, cũng là pādamudrā)
của vị thần Hindu(3).
Một số địa điểm ở Ấn Độ đã trở
thành những nơi hành hương mang dấu chân của vị
thần Vishnu. Trong thần thoại Hindu, vũ trụ/vạn vật đâm
chồi/nảy lộc từ giấc mơ của thần Vishnu, và bất cứ khi nào vạn vật hỗn loạn, các
vị thần, hoặc một trong nhiều hiện thân, những
trận đánh của các lực lượng hỗn mang. Trong những trận
đánh đó, thần thường bước trên mặt đất,
và để lại dấu ấn của mình.
Trong các dấu chân nổi tiếng được phát
lộ thì ngôi đền Vishnupada Mandir là một điện thờ cổ xưa ở Gaya,
Ấn Độ. Đó là một ngôi đền Hindu, dành riêng cho vị chúa tể Vishnu. Ngôi đền này
nằm dọc theo con sông Falgu, được ghi dấu bởi một dấu chân của Vishnu gọi là
Dharmasila, lõm sâu vào khối đá bazan.
Nguồn gốc của những dấu chân này không
được đề cập trong lịch sử. Bao quanh bởi một khung
bạc, các dấu chân thường được các tín đồ dâng
cúng hoa và thức ăn. Dấu chân của thần Vishnu được các
tín đồ coi là một trục mundi (trục thế
giới) cho các vùng/khu vực, và ngôi đền như là điểm hội
tụ của trời, đất, và địa ngục. Những người không theo
Hindu giáo và những người thuộc tầng lớp thấp bị ngăn
cấm không cho đi vào điện thờ cho đến khi thành lập nhà
nước Ấn Độ đương thời.
Truyền thuyết kể rằng:
Con quỷ Gayasura/A-tu-la, đã thực hành sám hối cùng cực và có được đặc ân mà bất
cứ ai nhìn thấy nó sẽ đạt được sự giải thoát (moksha). Nếu sự giải thoát đạt
được thông qua đức hạnh chính đáng trong cuộc đời của một con người, thì giờ
đây, mọi người có được nó một cách dễ dàng. Để ngăn chặn những kẻ vô đạo đức có
được sự giải thoát, thần Vishnu đã yêu cầu Gayasura đi vào bên dưới lòng đất và
để làm được như vậy thần đã đặt chân phải lên đầu của A-tu-la này. Sau khi đẩy
Gayasura xuống dưới bề mặt của đất, dấu chân của thần Vishnu vẫn còn lưu lại
trên mặt đất như chúng ta đã thấy ngày nay. Dấu chân này gồm chín biểu tượng
khác nhau như Shankam/pháp loa, Chakram/luân xa và Gadham/chùy. Đây
được cho là những vũ khí của thần Vishnu. Gayasura khi bị đẩy xuống đất đã thỉnh
cầu thức ăn. Vị chúa tể Vishnu đã ban cho nó một ân huệ mà mỗi ngày đều sẽ có
người dâng thức ăn cho nó. Bất cứ ai làm như vậy, linh hồn của họ sẽ được lên
thượng giới. Và người ta xác tín rằng ngày mà Gayasura không có thức ăn, con quỷ
sẽ đi ra khỏi lòng đất. Nên mỗi ngày, người dân từ những vùng miền khác nhau của
Ấn Độ sẽ đến đây để cầu nguyện sức khỏe, sự hạnh phúc, thịnh vượng cho người quá
vãng và dâng cúng thức ăn cho Gayasura(4).
Những dấu chân khác của thần Vishnu
cũng được tìm thấy ở Guwahati, thủ
phủ nhà nước Assam của Ấn Độ. Theo truyền thuyết, vị chúa tể Vishnu đã chiến
đấu với một con vua quỷ tên Narakasur ở nơi đây. Và
vào giữa trận đánh, thần đã để lại dấu
chân ở phía sau một hòn đá. Như với những
nơi nổi tiếng tương tự, vào một ngày trong năm những người hành hương sẽ lũ lượt
đổ xô đến đây để dâng cúng vật
phẩm cho tổ tiên. Các vật phẩm này có ý nghĩa để giải
thoát cho các linh hồn theo chu kỳ của sự tái sinh.
Một dấu chân khác có thể được tìm
thấy ở Hardwar, miền bắc Ấn
Độ. Nó được tìm thấy trên các Hari-ki-Pairi ghat, đó là một trong những bước
chân ướt được những người hành hương tạo ra để
hình thành con đường đi tới con sông Hằng. Các ghat
(nơi ven sông có từng bậc đi dần xuống nước để tắm theo nghi thức tôn
giáo/tín ngưỡng Ấn Độ hoặc nơi gần chỗ hỏa táng người chết) tọa lạc trên
bờ sông phía Tây của thượng nguồn kênh đào con
sông Hằng. Một nơi khác cũng được đề cập có dấu
chân của vị thần là ngôi mộ
Humayun ở New Delhi(5).
Ngoài ra, có một số nơi ở Ấn Độ và Sri Lanka, người ta tin rằng thần Shiva đã để
lại dấu chân của thần, chủ yếu là trên các tảng đá. Những dấu chân khác đều tản
mác khắp các vùng miền của Ấn Độ như:
-
Dấu chân tại ngọn đồi Thiruvannamalai, Tamil Nadu: Có một câu nói rằng
thần Shiva đầu tiên đã nhón chân, đặt một chân của mình từ Kailash và chân kia
lên trên đỉnh của ngọn đồi Parvatha gần Thiruvannamalai nhưng vị chúa tể cảm
thấy ngọn đồi không phải là vùng đất chắc chắn và rắn rỏi để đặt bàn chân còn
lại nên chọn ngọn đồi vững chắc của Thivuvannamalai - (Pancha Boodha Sthalam
Agni) nơi đây đã hình thành một trung tâm hành hương nổi tiếng thế giới hiện
nay.
- Để chứng minh điều này, có một dấu chân của thần Shiva mà chúng ta cảm thấy
thật sự tuyệt vời. Đó là dấu chân tại đỉnh Adam, Sri Lanka. Đỉnh núi Adam (cũng
gọi là Sri Pada; tiếng Sri Lanka là Samanalakanda - “Ngọn núi
bướm”, và cũng là “Sri Paadaya”; Tamil Sivanolipatha Malai), là một ngọn
núi hình nón cao 2.243m nằm ở trung tâm Sri Lanka. Với Sri Pada, nghĩa là
“dấu chân thiêng liêng”, một dấu vết được tạo nên trên đá dài 1,8m gần đỉnh, khi
mà trong truyền thống Phật giáo đó là dấu chân Đức Phật, còn theo truyền thống
Hindu là dấu chân thần Shiva mà trong truyền thống Hồi giáo và Kitô giáo là của
Adam, hoặc Thánh Thomas. Ngọn núi nằm ở những đoạn phía Nam của cao nguyên trung
tâm, thuộc quận Ratnapura, tỉnh Sabaragamuwa - nằm cách thành phố Ratnapura
khoảng 40km về phía Đông bắc.
- Đền Rudrapada nằm ở phần phía Đông Tezpur thuộc quận Sonitpur của Assam. Ngôi
đền này nằm trên bờ sông Brahmaputra và được dành riêng cho vị chúa tể
Shiva. Thần Shiva tại ngôi đền này được tôn thờ trong hình thức Rudra và các tín
đồ tin rằng một hòn đá trong đền thờ in dấu bàn chân trái của thần Shiva. Theo
một truyền thuyết, ngôi đền này được xây dựng ở nơi thần Shiva đã cho thấy cuộc
đời thực của thần liên quan đến nhà vua Bana. Siva Singa đã xây dựng ngôi đền
vào năm 1730 và Mahashivaratri là lễ hội chính được tổ chức ở nơi đây.
- Dấu chân của thần Shiva tại Naag Mandir, Ranchi:
Đây là một ngôi đền hùng vĩ và thu hút đông đảo tín đồ của vị chúa tể Shankara,
một cái tên khác của thần Shiva được đặt trên ngọn đồi ở phía Tây của Ranchi.
Đền thờ thần Shiva nằm trên đỉnh đồi cũng được gọi là Pahari Mandir. Ở dưới chân
đồi là hồ Ranchi. Nhiều loài cây cối khác nhau tạo thêm vẻ đẹp cho ngọn đồi đặc
biệt trong mùa mưa. Các ngôi đền bao gồm đền thờ thần Shiva, Nahakaal mandir,
Kali mandir, Vishwanath mandir, Hanumar mandir, Durga mandir và Naag mandir. Chỉ
trong căn phòng mở rộng của ngôi đền thờ thần Shiva ở đó hiện diện Naag Mandir.
Tại đó, dấu chân của thần Shiva là điểm hấp dẫn chính đối với những người hành
hương và du khách tham quan.
II. Dấu chân trong tín niệm Phật giáo
Dấu chân của Đức Phật còn được gọi là Phật túc thạch, Phật túc tích/Phật tích,
Phật cước thạch (Phạn: Buddhapada, Nhật: Bussoku). Trong Phật
giáo, pāda là thuật ngữ để chỉ cho dấu chân Đức Phật. Dấu chân của
Đức Phật biểu trưng cho sự hiện diện, hình ảnh của Ngài, và biểu tượng này đã
phát triển vài thế kỷ sau khi Đức Phật qua đời.
Xét về mặt biểu
trưng, những
dấu chân của Đức Phật theo con đường từ vô hình tướng đến các hình tượng bắt đầu
từ các biểu trưng như pháp luân và chuyển biến đến việc tạo tác nên các bức
tượng về đức Phật. Các dấu chân này mang ý nghĩa là để nhắc nhở rằng Đức Phật đã
hiện diện trên trái đất và để lại một “con đường” tâm linh để chúng sinh theo
đuổi. Dấu chân này đặc biệt vì chúng là những di tích duy nhất mang đến sự hiện
diện vật chất của Đức Phật trên trái đất khi chúng là vết lún/chỗ lõm thực sự
tồn tại trên mặt đất(6).
Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, truyền thuyết về Đức Phật,
chúng ta được biết là: ngay khi sinh ra, Ngài đã đo vũ trụ, bước đi bảy bước
theo mỗi hướng trong không gian; truyền thuyết về Vishnu nói là thần đã đo vũ
trụ bằng ba bước đi, một bước tương ứng với mặt đất, bước thứ hai với thế giới
trung gian và bước thứ ba với trời; đôi khi người ta cũng cho là ba bước đó
tương ứng với ba vị trí của mặt trời mọc, ở thiên đỉnh và lặn. Do đó, ở Á Đông,
người ta tôn thờ vô số những Vishnupada và Buddhapada, và ít hơn
là các Civapada. Đó là dấu vết của Thượng Đế, của Bồ-tát (Bodhisattava)
in trên cõi đời này. Khi in dấu bàn chân của mình, không phải là để nói rằng ta
ở đây, ta ở nơi đây, đôi khi điều này được xác nhận bằng lời ghi bên trong dấu
chân, nói lên ý muốn của thần linh là luôn luôn có mặt. Tuy nhiên, người ta cũng
nói là Đức Phật và các vị Bồ-tát không để lại dấu tích, không thể tìm được…, nên
nói một cách tượng trưng, là dõi theo trong cuộc săn tìm tinh thần(7).
Ngoài ra, trong các dạng thể hiện phi thân thể/hình tướng của Đức Phật, vết chân
cũng ứng với đất, với thế giới trung gian và cái lọng với trời.
Những dấu chân Phật được sùng bái trong mọi nền văn hóa Phật giáo, đặc biệt là ở
Sri Lanka và những quốc gia theo Phật giáo Nam truyền, vì Đức Phật lịch sử là
chủ thể chính cho sự thờ phượng trong truyền thống này. Mặc dù Đức Phật lịch sử
chưa từng viếng thăm những vùng đất này ở châu Á, nhưng các tín đồ Phật giáo tin
là Ngài đã viếng thăm vài nơi trong một tiền kiếp nào đó, khiến cho những nơi
này trở nên thiêng liêng. Những dấu chân thường được khắc vào đá, và được bảo vệ
bên trong một mái vòm che phủ đặc biệt. Theo Vinaya sutra, những dấu hiệu
trên gót chân của Đức Phật được tạo ra từ nước mắt của người đàn bà tội lỗi
Amrapati và những người khác khóc lóc bên gót chân Phật, trước sự bất bình của
các môn đệ.
Dấu chân Phật có rất nhiều ở khắp châu Á, với niên đại từ nhiều thời kỳ khác
nhau. Tác giả người Nhật Motoji Niwa (丹羽基二/Niwa
Motoji),
người đã dành nhiều năm lần theo những dấu chân của Đức Phật ở nhiều quốc gia
châu Á, ước tính rằng ông đã tìm thấy hơn 3.000 dấu chân như vậy, trong đó có
khoảng 300 dấu chân ở Nhật Bản và hơn 1.000 dấu chân ở Sri Lanka(8).
Chúng thường mang những dấu hiệu phân biệt, như một Pháp luân/Dharmachakra ở
trung tâm bàn chân, hoặc là những dấu hiệu riêng của Đức Phật hay 32, 108 hoặc
132 dấu hiệu cát tường của Đức Phật được chạm khắc hoặc vẽ trên dấu chân, đôi
khi theo mẫu thức ô đen trắng. Những dấu chân này được sơ đồ hóa theo quy ước,
trình bày các ngón chân với độ dài bằng nhau, và được khắc sâu vào đá. Trên
nhiều dấu chân thường có bảy biểu tượng cát tường, được gọi là bảy hiện tướng,
đó là: 1/Pháp luân, biểu thị những lời dạy của Đức Phật; 2/Vương miện, biểu thị
tính tối cao vô thượng của Đức Phật so với chư thần; 3/Ốc biển/pháp loa gợi ý
việc hoằng pháp; 4/Bảo bình, biểu thị vô thượng trí của Đức Phật; 5/Con cá, hàm
ý tự do thoát khỏi những giới hạn; 6/Một pháp khí tượng trưng sức mạnh thiêng
liêng của học thuyết và 7/Những ngọn lửa, biểu thị sức tỏa sáng của Đức Phật.
Nhiều dấu chân cũng mang mô-típ chữ vạn (Swastika).
Dấu chân như một đối tượng điêu khắc có một lịch sử lâu đời xuất phát từ những
minh họa đầu tiên được thực hiện ở Ấn Độ. Chúng được tạo tác trong suốt thời kỳ
tiền Hy Lạp-Phật giáo của nghệ thuật Phật giáo tại Sanchi, Bharhut, và những nơi
khác ở Ấn Độ. Vào thời sơ kỳ Phật giáo ở Ấn Độ, vì tôn kính nên tín đồ không dám
tạc chạm tượng Đức Phật mà chỉ khắc tạo những hình ảnh tượng trưng cho Đức Phật
như pháp luân, cây Bồ-đề, tháp, tòa cao và dấu chân Đức Phật để lễ bái thờ
phụng. Trước sự phát triển các hình tượng của Đức Phật vào những thế kỷ đầu TL,
thì hiện diện của Đức Phật được chỉ ra trong điêu khắc đá bằng nhiều biểu tượng
vô hình tướng (an-iconic/non figural symbols) kể cả lọng tán, pháp luân và dấu
chân Phật từ Ấn Độ về Trung Quốc vào thế kỷ thứ bảy.
Theo truyền thuyết Phật giáo, không lâu trước khi sắp viên tịch và nhập
Niết-bàn, Đức Phật lịch sử đã đi đến Kushinara và đứng trên một tảng đá, quay
mặt về phương Nam. Người ta cho là Ngài đã lưu lại dấu chân in hằn vào mặt đá
như một di vật cho hậu thế(9). Ngày nay, tại cửa tháp Bharhut ở Ấn Độ
có bức phù điêu Tam đạo bảo giai đồ khắc dấu chân Phật có hình bánh xe
pháp luân. Ngoài ra, một trong những biểu thị danh tiếng nhất về dấu chân Đức
Phật là cặp bàn chân khắc vào đá ở Bodhgaya. Những bản sao dấu chân của Đức Phật
cũng được đặt tại những đền chùa quan trọng như là một đối tượng để kính ngưỡng,
nên các tín đồ thường làm các bản rập để mang về nhà thờ kính. Sau đó, truyền
thống tạo tác dấu chân trở nên nổi bật ở Sri Lanka, Campuchia, Miến Điện và Thái
Lan…(10)
Một vết lún trên đỉnh Sri Padaya/Sri Pada ở Sri Lanka là một trong những dấu
chân Phật lớn nhất và nổi tiếng nhất. Theo Mahavamsa,
biên niên sử vĩ đại của Sri Lanka, ngọn núi Sri Pada (còn
được gọi là Sumanakuta, Samangira, Samantha Kuta và Samanala Kanda)
đã lưu giữ dấu vết về bàn chân trái, mà Phật tử Sri Lanka tin rằng là của Đức
Phật, trong chuyến viếng thăm lần thứ ba đến Kelaniya,
cách đây 2580 năm trước. Dấu chân như một thánh tích giá trị để sùng kính như
một biểu tượng để thờ phượng khi không có Đức Phật theo lời thỉnh cầu của người
Phật tử - vị thần Sumana Saman là người bảo hộ nhân từ của họ. Thần Sumana Saman
đã ở đó khi Đức Phật đến viếng thăm hòn đảo này lần đầu tiên. Thần đã trở thành
một bậc Dự lưu (sotapanna) sau khi lắng nghe Đức Phật thuyết pháp. Đức Phật đã
ban cho thần một nhúm tóc mà thần đã cất trong bảo tháp
ở Mahiyangana. Thần
Saman được biết đến như Bồ-tát Phổ Hiền ở vùng
Đông Á. Ngoài ra, truyền thuyết Phật
giáo cho là trong suốt cuộc đời của mình, Đức Phật đã bay đến Sri Lanka và để
lại dấu chân của Ngài trên đó để cho thấy tầm quan trọng của Sri Lanka là sự bất
diệt của các giáo lý của ngài, và cũng để lại dấu chân trên tất cả các vùng đất
nơi giáo lý của Đức Phật sẽ được tiếp nhận.
Người ta tin rằng người đầu tiên phát hiện ra dấu
chân thiêng liêng đó là nhà vua Walagamba (104-76
trước TL) trong khi ông tha hương trong vùng núi hoang dã này. Theo truyền
thuyết địa phương, ông đã được dẫn đến đỉnh núi bởi một vị thần trong lốt một
con hươu. Sau đó, không chỉ những người hành hương thông thường mà cả hoàng tộc
cũng tỏ lòng tôn kính đến dấu ấn của Đức Phật từ thời cổ đại. Mùa hành hương để
đến Sri Pada bắt đầu hàng năm vào ngày trăng rằm poya trong
tháng mười hai và kết thúc vào ngày Vesak
poya của tháng năm. Trong suốt thời gian sáu tháng này, hàng ngàn người hành
hương lên núi để chiêm bái và đảnh lễ dấu chân Phật trên đỉnh núi này(11)
.
Tại Thái Lan, quan trọng nhất là các dấu chân “tự nhiên” trên đá tại Phra
Phutthabat ở miền Trung Thái Lan.
Wat Phra Phutthabat (tiếng
Thái: วัด
พระพุทธบาท)
là một ngôi chùa Phật
giáo ở Saraburi, Thái
Lan. Đây là một trong những ngôi chùa Phật giáo lâu
đời nhất ở Thái Lan, được xây dựng trên núi, chủ yếu bao quanh bởi rừng rậm. Nó
nằm ở quận Phra Phutthabat, cách thành phố
Saraburi 28km.
Tên của ngôi chùa có nghĩa là “ngôi chùa của dấu
chân Phật”, bởi vì nó chứa đựng vết lõm lớn tự
nhiên trong đá được cho là dấu chân của Đức
Phật. Kích thước của dấu chân rộng khoảng 53cm,
dài152cm và sâu 28cm. Dấu chân được bao bọc bởi một khung viền bằng vàng để
trang trí. Bên trong khung, dấu chân Phật được phủ những lớp lá vàng, tiền xu và
tiền giấy do các tín đồ và khách viếng thăm đặt vào.
Ngôi chùa Phra Phutthabat được xây dựng vào năm 1624 bởi nhà
vua Songtham của Ayutthaya,
sau khi một người thợ săn tên Pram Bun tìm thấy một vết lõm lớn trong đá, giống
như dấu chân khổng lồ, gần ngọn đồi Suwan
Banpot hoặc Satchaphanthakhiri. Người thợ săn đã đến báo tin cho nhà vua, và
người đã ra lệnh cho công nhân xây dựng một mondop (một
tòa nhà hoặc ngôi đền hình vuông hay chữ thập, thường có mái nhọn được xây dựng
trong một ngôi chùa hay một khu phức hợp đền chùa ở Thái Lan, thường chứa đựng
các kinh sách và di vật Phật giáo linh thiêng) tạm thời để che phủ cho dấu
chân, mà về sau nó đã trở thành một ngôi chùa.
Bunnoowaat sutra kể
về các chuyến phi hành của Đức Phật đến đỉnh của ngọn
núi Suwanbanphot, và cách Ngài đã để lại dấu chân
của mình. Người ta tin rằng có năm dấu chân của Đức Phật ở những nơi khác nhau
bao gồm cả ngôi chùa Phra Phutthabat. Một số người tin rằng việc thờ cúng dấu
chân, rải và rắc nước, hoặc đặt các lá vàng lên những dấu chân Phật sẽ được
thanh tẩy tội lỗi, mang lại sự thành công trong cuộc sống, hay hạnh phúc vĩnh
hằng.
Lễ hội Dấu chân thiêng liêng được tổ chức tại ngôi chùa hai lần trong một năm,
thường là vào tháng Hai và tháng Ba. Vào lễ hội này, nhiều Phật tử và du khách
đến thăm viếng để kính lễ dấu chân của Đức Phật và tham gia vào các hoạt động
tại lối vào ngôi chùa(12).
Ở Trung Quốc, suốt đời nhà Đường, việc phát hiện một dấu chân lớn của Đức Phật
ở Trịnh Châu (Chengzhou) đã khiến hoàng hậu Võ Tắc Thiên mở đầu một triều đại
mới vào năm đó, năm 701 Tây lịch, bắt đầu thời đại Đại Túc (Dazu) (13)
.
Theo mục Hoa Thị Thành, Ma-kiệt-đà quốc, Đại Đường Tây Vực ký 8, tại nước
Ma-kiệt-đà Phật có lưu lại dấu chân, bề dài khoảng gần 20cm, mỗi bàn chân đều có
luân tướng, 10 ngón đều có hoa văn.
Chùa Thiên Thai trên các ngọn đồi phía Tây gần Bắc Kinh, Trung Quốc còn bảo lưu
một hòn đá mang dấu chân Phật, được gọi là Đá chân Phật.
Trong di phẩm của A-ma-la-bà-đề (Phạn: Amaravati), mới khai quật
được, dưới bàn chân Phật có khắc hình bánh xe. Ngoài ra còn có hình Tam bảo
chương, hình chữ Vạn. Trong đó, loại hình bàn chân Phật có hình bánh xe là kiểu
xưa; còn hình Tam bảo, hình chữ Vạn là những kiểu vẽ sau này, được thấy qua các
tranh vẽ của Trung Quốc và Nhật Bản hiện nay.
Tại Trung Quốc vào đời Đường có rất nhiều tranh Phật túc thạch theo kiểu của Ấn
Độ do ông Vương Huyền Sách vẽ. Ngoài ra còn có Phật túc đồ của ngài Huyền Trang
mang về(14).
Ở Nhật Bản, những dấu chân đó cũng được lồng vào những mẫu thiết kế của các bản
in lưu niệm để người tín đồ mang đến dâng cúng nơi đền chùa. Trong một vài hình
tượng Phật nằm ở Đông Nam Á, bàn chân ngài được khắc lõm với những dấu hiệu
giống những dấu trên các dấu chân Phật.
Ở Việt Nam, các dấu chân Phật hiện diện ở chùa Am Vãi (xã Nam Dương, huyện Lục
Ngạn), chùa Yên Mã (xã Bắc Lùng), chùa Hang Non (xã Khám Lạng, huyện Lục Nam),
thuộc tỉnh Bắc Giang là những ví dụ. Nhưng những dấu chân Phật này đôi khi bị
dân gian lẫn lộn, đánh đồng với dấu chân của các vị tiên hay dấu chân của ông
khổng lồ…(15)
Về mặt lịch
sử, sự
tôn kính bàn chân của các bậc thầy/quân sư hay vị thần là phổ biến vào Ấn Độ cổ
đại, một người cúi gập đầu tại hoặc dưới chân họ là một cử chỉ của nghi thức
biểu thị một hệ thống cấp bậc. Như cetiya, dấu chân của Đức Phật được
phân loại theo nhiều cách khác nhau. Một số là uddesika, các di vật tiêu
biểu/tượng trưng, và những loại khác là paribhogika, những di vật sử dụng
hoặc tiếp xúc, và đôi khi saririka, như thể chúng không chỉ là dấu chân
mà là bàn chân thực của Đức Phật. Một số mô tả về dấu chân có thể biểu thị các
sự kiện trong cuộc đời của Đức Phật, nhưng những dấu chân khác có thể là thể
hiện những tín đồ thờ phụng tại các điện thờ dấu chân này.
Để rõ ràng: một dấu chân của Đức Phật là một hình ảnh lõm của một bàn chân (hoặc
cả hai bàn chân), được tin rằng đã được Đức Phật để lại trên trái đất với chủ
định đánh dấu nơi Ngài đã đi qua ở một vị trí cụ thể. Những hình ảnh về bàn chân
của Đức Phật là những hình ảnh lồi biểu trưng cho lòng bàn chân thực sự, với tất
cả các đặc tính của chúng. Theo chiều kích ba chiều truyền thống của cetiya, chúng
ta có thể giả định rằng hình thức đầu tiên của hình ảnh về bàn chân Đức Phật -
một hình lõm - là một loại yếu tố pāribhogika, vì nó được kết nối không
thể tách rời với chính Như Lai/Tathāgata. Hai là, nó có thể được coi là một yếu
tố uddissaka, bởi vì nó đã được sáng tạo ra bởi một hoặc các nghệ nhân
tận tâm tạo tác để tưởng niệm Đức Phật, lấy nó làm mẫu hình như một dấu chân
thực sự. Nhưng chúng ta cũng có thể nghĩ về nhóm thứ hai này, như là một “pāribhogika như
phỏng đoán”, được ghi nhận chính xác bởi Chutiwongs(16) .
Nói tóm lại, việc tôn thờ dấu chân có một bề dày lịch sử hết sức xa xưa. Truyền
thống này được các tín đồ Phật giáo tiếp tục kế thừa với những nội dung phong
phú mang ý nghĩa sâu sắc nhằm nối kết các cộng đồng Phật tử với công đức hoằng
hóa của Đức Phật, nối kết cái thực với biểu tượng thiêng liêng làm thiêng hóa
cho những vùng đất.
HUỲNH THANH BÌNH
Chú thích:
(1)
Stratton, Carol (2003). Buddhist Sculpture of Northern Thailand. Serindia
xb, tr.301-302.
(2)
Strong, John S. (2004). Relics of the Buddha (Phật giáo: Một chuỗi xuất
bản của Đại học Princeton). Đại học Princeton xb, tr. 85-87.
(3)
Theo:
- Anna Dallapiccola, Dictionary of Hindu Lore and Legend.
- Charles Rockwell Lanman (1884). A Sanskrit reader: with vocabulary and
notes, Parts 1-2. Ginn, Heath, tr.189.
(4)
Bhoothalingam, Mathuram (2016). S., Manjula (biên tập). Temples of India
Myths and Legends. New Delhi: xuất bản bởi Tổ chức, Bộ Thông Tin và, Chính
phủ Ấn Độ, tr.92-93.
(5)
Wilson, H. H
(1864). The Vishnu Purana: A System of Hindu Mythology and Tradition.
Trubner & Co xb.
(6)
Prasopchingchana, Sarunya (2013). “History and Cultural Heritage: Past and
Future”. International Journal on Humanistic Ideology (Tạp chí quốc tế
nghiên cứu về tư tưởng, ý thức hệ chủ nghĩa nhân văn).
(7)
Jean Chevalier, Alain Gheerbrant. Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới.
NXB.Đà Nẵng, Trường Viết văn Nguyễn Du, 1997, tr.52-54.
(8)
Theo:
- Niwa, Motoji (1992). Zusetsu sekai no bussokuseki: bussokuseki kara mita
Bukkyō 図説世界の仏足石:
仏足石から見た仏教
[Buddha's footprints, pictures and explanations: Buddhism as seen through the
footprints of Buddha] (in Japanese and English). Meicho Shuppan xb, tr.5.
- “Footprints of the Buddha”. Buddha Dharma Education Association (Liên
hiệp Nghiên cứu Phật Pháp). 2008. Retrieved 2008-05-11.
(9)
Theo:
- Meher McArthur. Tìm hiểu mỹ thuật Phật giáo. NXB.Mỹ Thuật, 2005,
tr.165-167.
- Louis Frédéric. Tranh tượng & thần phổ Phật giáo. NXB.Mỹ Thuật, 2005,
tr.121
(10)
Xem:
- Cicuzza, Claudio (2011). A Mirror Reflecting the Entire World. The Pāli
Buddhapādamaṅgala
or “Auspicious signs on the Buddha’s feet”. Critical edition with English
Translation, Materials for the Study of the Tripiṭaka,
tập VI, Lumbini International Research Institute (Học viện nghiên cứu quốc tế
Lumbini), Bangkok and Lumbini, tr.xxi.
- Nandana Chutiwongs (1990). “The Buddha’s Footprints”, Ancient Ceylon
10, tr.60.
-
Paul Mus (2002). Barabudur
(Indira Gandhi National Centre for the Arts/Trung tâm nghệ thuật quốc gia Indira
Gandhi). Alexander McDonald (dịch). Sterling xb, India, tr.67.
(11)
Xem:
- Ricci, Ronit (2011). literature,
conversion, and the arabic cosmopolis of south and southeast asia.
Đại học Chicago xb, tr.136.
- Dunn, Ross E. (2005)
[1986]. The Adventures of Ibn Battuta.
Đại học California xb,
tr.242-243.
- Chisolm, Hugh (1910). The
Encyclopædia Britannica (tập 5).
Đại học xb, tr.778.
- Skeen, William (1870). Adam's
Peak: Legendary, Traditional, and Historic Notices of the Samanala and Srí Páda.
Colombo, Ceylon: W.L.H. Skeen xb.
(12)
Thomas John Hudak (1988). Organizational
Principles in Thai "Phannánaa" Passages. Bulletin
of the School of Oriental and African Studies/Tập san nghiên cứu Đông phương và
châu Phi, Đại học London. 51 (1): 96-117.
(13)
Niwa, Motoji (1992). Sđd.
(14)
Thích Minh Cảnh chủ biên. Từ điển Phật học Huệ Quang, tập 6: NGH, NH, O,
PH; tr. 5529-5530.
(15)
Nguyễn Quang Ân, Ngô Văn Trụ chủ biên. Địa chí Bắc Giang. Sở Văn hóa
Thông tin Bắc Giang và Trung tâm UNESCO xb, 2006, tr.322.
(16)
Theo:
- Nandana Chutiwongs (1990). Sđd.
- Cicuzza, Claudio (2011). Sđd.
Chú thích hình:
F1:
Dấu chân Đức Phật tại lối vào ngôi chùa Seema Malaka, Colombo, Sri Lanka
F2: Điêu khắc đá thể hiện việc thờ cúng dấu chân Đức Phật xa xưa, Bảo tàng Khảo
cổ học Amaravati, Andhra Pradesh, Ấn Độ
F3:
Dấu chân Đức Phật, thế kỷ I, Gandhāra
F4: Dấu chân Đức Phật tại tháp Phật giáo Amaravati, Andhra Pradesh, Ấn Độ. Hiện
vật Bảo tàng Anh
F5:
Dấu chân Đức Phật, thế kỷ II, trưng bày nghệ thuật Đại học Yale
F6:
Dấu chân Đức Phật,
thế kỷ XVII-XVIII, Miến Điện. Hiện vật Bảo tàng Quốc gia Úc
F7:
Dấu chân Đức Phật
tại ngôi
chùa Zhenjue,
Bắc Kinh, Trung Quốc
F8: Tượng Phật nằm tại ngôi chùa Nanzo-in, Nhật Bản
F9: Tượng Phật nằm tại ngôi chùa Mya Tha Lyaung, Bago, Miến Điện
F10, F11, F12: Một số tranh vẽ thể hiện
dấu chân Đức Phật