Anagārika Dharmapāla - Người góp công lớn trong việc phục hưng
Anagārika Dharmapāla - Người góp
Anagārika
Dharmapāla - Người góp công lớn trong việc phục hưng
Phật
giáo tại Ấn Độ
Thích Nữ Thanh Nghiêm
Phật giáo khai sinh ở Ấn Độ,
và cho đến nay đã có mặt khắp năm châu. Có lúc Phật giáo phát triển đến đỉnh
điểm cực thịnh, như Phật giáo vào thời đại vua Asoka. Nhưng cũng có khi Phật
giáo gần như biến mất ngay tại cội nguồn của mình, như từ sau thế kỷ XIII, mà
mãi cho đến đầu thế kỷ XIX mới bắt đầu có dấu hiệu phục hưng.
Để khởi xướng một phong trào
phục hưng Phật giáo khi Phật giáo hầu như biến mất trong khoảng thời gian hơn
600 năm là một thách thức không hề nhỏ. Nó vô cùng khó khăn, nguy hiểm và đầy
thử thách cho những ai dám đứng ra khởi xướng. Đã không ít người cố gắng tạo lập
phong trào nhưng đã không kéo dài được. Mãi cho đến khi
Dharmapāla
đứng ra khởi động thì phong trào mới thật sự tạo
nên sinh khí và lan rộng, tác động mạnh mẽ đến giới trí thức phương Tây thời bấy
giờ. Phong trào phục hưng Phật giáo của Dharmapāla đã đem lại nhiều thành tựu tỏ
lớn và đã truyền cảm hứng cho việc chấn hưng Phật giáo ở các nước khác.
Điều
kiện tôn giáo-xã hội trước khi Phật giáo Ấn Độ được phục hưng
Từ thế kỷ XVIII, cuộc Cách
mạng công nghiệp Pháp ra đời kéo theo nhiều thay đổi trên toàn thế giới. Xã hội
phương Tây bước vào một thời đại văn minh với đời sống xã hội công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Nhờ vào máy móc dây chuyền công nghiệp, của cải vật chất được tạo
ra quá nhiều, nguồn cung lớn hơn cầu, thị trường tiêu thụ không đủ, v.v. Đến đầu
thế kỷ XIX, các nước thực dân đã mang quân đi xâm chiếm các nước Đông phương làm
thuộc địa, cụ thể là Anh chiếm Ấn Độ, Sri Lanka; Pháp chiếm Việt Nam, Trung Quốc,
v.v. Vào thời kỳ này, có những người trí thức, bao gồm những học giả, nhà ngôn
ngữ, nhà văn hóa và đặc biệt là các nhà khảo cổ học…, do đặc thù công việc, hoặc
do niềm đam mê, hoặc do niềm tin tôn giáo… đã góp phần trực tiếp hoặc gián tiếp
vào công cuộc chấn hưng Phật giáo ở Ấn Độ.
Những nhà khảo cổ đã tìm đến
khảo sát nhiều nơi ở Ấn Độ, Nepal… và họ đã phát hiện nhiều cổ vật có giá trị
lịch sử chứng minh Đức Phật đã từng hiện hữu ở cuộc đời. Vào năm 1896, hai nhà
khảo cổ Alois A. Fuhrer và Khadga Samsher
đã phát hiện và khai quật một trụ đá được chôn sâu dưới đất. Chiều cao của trụ
đá khoảng 5 đến 6 mét, đường kính khoảng 0,5 mét, trên thân trụ có khắc 5 hàng
cổ ngữ Brahmi. Nơi nội dung bản cổ ngữ này có đề cập đến vua
Devanam, nhưng các nhà nghiên cứu vẫn chưa nhận biết
được vị vua này là ai. Cùng thời điểm này, các nhà văn hóa Tây phương tiến hành
dịch cuốn Mahāvamsa của Sri Lanka, mà ở đó có đề cập đến những việc làm
trước và sau khi quy y của một vị vua Ấn Độ.
Từ hai dữ kiện trên, các nhà
nghiên cứu đã xâu chuỗi lại và họ đã xác định được vị vua được đề cập trên trụ
đá chính là vua A Dục. Nội dung văn bản được khắc trên trụ đá đề cập đến một tôn
giáo mà ông theo đó là Phật giáo: “Hai mươi lăm
năm sau khi lên ngôi, quốc
vương Devānampiya Piyadasi (A Dục) ngự đến đây chiêm
bái, vì Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni, bậc hiền nhân của bộ tộc
Thích Ca, đã đản sanh tại đây. Nhà vua ban lệnh khắc một tượng bằng đá và dựng
một thạch trụ. Ngài miễn thuế đất ở làng
Lumbini và giảm thuế hoa lợi từ theo lệ thường
xuống một phần tám”.
Tiếp sau đó,
vào năm 1821, Alexander
Cunningham, vị chủ tịch đầu tiên của
Hội Khảo cổ học Ấn Ðộ, cũng đã phát hiện được rất nhiều bia ký và cổ vật của
Phật giáo. Ông là người đã tìm thấy xá-lợi của hai vị đại đệ tử của Đức Phật là
Sariputta và Moggallana trong một ngôi tháp ở Sanchi. Những xá-lợi này được mang
về Luân Đôn và về sau được trả lại cho Ấn Ðộ. Khi đọc được bản dịch Đại Đường
Tây Vực ký bằng tiếng Anh của học giả Samel Beal, tường thuật về cuộc du
hành của ngài Huyền Trang, một nhà hành hương và chiêm bái nổi danh của Trung
Hoa đến Ấn Ðộ từ năm 629 đến năm 644 sau Tây lịch, Alexander Cunningham đã dựa
vào những miêu tả của Huyền Trang, đi ngược từ Ấn Độ sang Trung Hoa để tìm lại
những dấu tích lịch sử của Phật giáo. Ông đã thành công khi khám phá được rất
nhiều thánh địa Phật giáo rải rác khắp đất Ấn.
Alexander
Cunningham làm công việc chính bởi trách nhiệm và niềm đam mê khoa học của mình,
nhưng điều đó vô tình đã góp phần lớn lao cho công cuộc chấn hưng Phật giáo khi
những phát hiện của ông đã giúp thế giới biết đến lịch sử tồn tại của Phật giáo
tại Ấn Độ.
Vào năm 1898, nhà khảo cổ học người Anh William Claxton Peppe đã phát hiện xá-lợi
Phật ở Ca-tỳ-la-vệ. Hiện
xá-lợi này đang được tôn trí tại Viện bảo
tàng New Delhi, Ấn độ.
Bên cạnh đó, ở lĩnh vực văn
học, thi phẩm The light of Asia của Edwin Arnold (1832-1904), một tuyệt
tác bằng tiếng Anh viết về cuộc đời Đức Phật, được quần chúng và các vị học giả
tiếp đón nồng nhiệt vào lúc bấy giờ. Thi phẩm này được dịch ra nhiều ngôn ngữ
khác nhau và đã truyền cảm hứng cho rất nhiều người tìm về nghiên cứu Phật giáo.
Có thể nói rằng nhiều trí thức phương Tây đã tìm đến đạo Phật nhờ đọc qua thi
phẩm này. Amar Singh, khi đọc được thi phẩm này, đã quyết định xuất gia, sang
Sri Lanka tu học, thọ giới và sau đó trở về xây dựng ngôi chùa lớn tại Bồ-đề Đạo
tràng. Năm 1890, Allan Bennet (1872-1923) nhờ đọc tác phẩm Ánh sáng Á châu
mà quy y theo Phật giáo. Sau đó (1902), ông đã đến Tích Lan để xuất gia tu học.
Ông là một trong những người có công lớn trong việc phát triển Phật giáo tại Anh
vào giai đoạn đầu. Năm 1905, R.T.Jackson cũng nhờ đọc qua tác phẩm này mà hiểu
hơn về Phật giáo, và ông đã kết hợp với một người bạn mở một nhà phát hành sách
Phật giáo ở gần công viên Regent, Thủ đô Luân Đôn, để phổ biến giáo pháp Phật
giáo. Hai cư sĩ này cũng thường xuyên tổ chức các buổi thuyết giảng về giáo pháp
đạo Phật tại nhà sách của mình. Năm 1910, Frederic Fletcher cũng tìm đến Phật
giáo qua tác phẩm này. Ông đã đến Tích Lan xuất gia tu học và về sau có nhiều
đóng góp đáng kể đối với Phật giáo tại quê nhà…
Những đóng góp của các nhà
nghiên cứu phần lớn thuộc giới trí thức Tây phương được nói ở trên đã giúp nhiều
cho việc chấn hưng Phật giáo tại Ấn Độ. Chính nhờ việc phát hiện các thánh tích
Phật giáo, tìm thấy được xá-lợi của Đức Phật và các vị đệ tử Phật…, đã giúp xác
quyết Đức Phật là một nhân vật lịch sử chứ không phải huyền thoại như trước đó
có người vẫn nghĩ. Những phát hiện này đã đưa nhiều người trên thế giới tìm đến
nghiên cứu Phật giáo, và là một trong những yếu tố tạo tiền đề cho việc phục
hưng Phật giáo ở Ấn Độ.
Anagārika Dharmapāla -
Người góp công lớn trong việc phục hưng Phật giáo
Anagārika
Dharmapāla, thế danh là Don David Hewavitharne, sinh
ngày 17 tháng 9 năm 1864 trong một gia đình có truyền thống theo đạo Phật lâu
đời ở Thủ đô Colombo, Sri Lanka. Mẹ ông là con gái của một thương gia giàu có ở
xứ này. Từ còn nhỏ, Dharmapāla cho thấy mình là một Phật tử thuần thành. Vì sống
trong thời kỳ Sri Lanka bị thực dân Anh đô hộ nên
Dharmapāla phải theo học ở một ngôi trường Thiên Chúa giáo. Nhưng nhờ có nền
tảng Phật giáo vững chắc, nên mặc dù hằng ngày đọc Thánh kinh cầu nguyện
như tất cả các học sinh trong trường nhưng Dharmapāla không hề bị tư tưởng của
Thiên Chúa giáo ảnh hưởng. Ông thường lén lút đọc sách Phật giáo, và việc này
đôi khi khiến ông bị phạt. Vào các ngày Tam hợp (Vesak) hằng năm, Dharmapāla
thường xin nghỉ học để đi dự lễ, nhưng không được đồng ý. Nhưng ông vẫn quyết
định nghỉ để đi dự lễ dù biết rằng khi về sẽ phải nhận hình phạt. Vào năm khoảng
14-15 tuổi, Dharmapāla bị phát hiện đang đọc một quyển sách về cuộc đời Đức
Phật. Cuốn sách bị xé. Ông không chấp nhận điều này nên xin cha mẹ chuyển sang
trường khác học. Nhưng dù chuyển sang trường nào cũng không tạo điều kiện cho
Dharmapāla thực hiện việc tìm hiểu Phật giáo của mình.
Vào năm
1873, giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo diễn ra một cuộc tranh luận công khai.
Đại diện của Phật giáo là Trưởng lão
Migettuwatte Gunananda, một vị lãnh tụ lỗi lạc nhất của
Tăng-già đương thời, và ông đã dành chiến thắng trong cuộc tranh luận này.
Nội dung cuộc tranh luận được in thành sách và phát hành rộng rãi ở nhiều nơi,
trong đó có cả những nước phương Tây. Năm 1880, Đại tá Không quân
Henry Steel O’coot và bà Blavasky đã từ Hoa Kỳ bay sang
Sri Lanka để xin quy y với Trưởng lão nhân đọc được quyển sách của ngài. Những
người này cũng hợp tác với cha mẹ của Dharmapāla thực hiện các hoạt động xã hội.
Riêng Dharmapāla, trước đây khi nghe danh tiếng của Trưởng lão Migettuwatte
Gunananda, cũng đã thường xuyên đến viếng thăm và mượn sách của Ngài để đọc. Tại
đây, ông được tiếp thêm sức mạnh về niềm tin Phật giáo khi gặp Henry Steel
O’coot và đọc được thi phẩm Ánh sáng Á châu.
Năm 1883,
một chiếc xe chở phái đoàn Phật tử trên đường đi thăm Trưởng lão Migettuwatte
Gunananda đã bị các tín đồ Thiên Chúa giáo chặn lại và sát hại tất cả. Sự kiện
này thật sự gây chấn động. Quá bất bình trước sự việc này, Dharmapāla tuyên bố
không học ở trường Thiên Chúa giáo nữa. Cha mẹ ông bèn bỏ tiền ra, cùng với Đại
tá Henry đấu tranh mở trường riêng, buộc chính phủ phải thừa nhận hệ thống
trường tư thục của Phật giáo do Phật tử quản lý cho con em Phật tử đi học. Lúc
này, Don David Hewavitharne đổi tên thành Anagarika và phát nguyện dâng trọn
cuộc đời cho lý tưởng phục vụ Phật giáo.
Năm 1891,
Dharmapāla đến thăm Bồ-đề Đạo tràng ở Ấn Độ. Ông rất đau
lòng khi chứng kiến tình cảnh hoang tàn của thánh địa này. Sau khi dựng lại cây
Bồ-đề mà nó bị nghiêng đổ, ông đến đảnh lễ phiến đá nơi Đức Phật thành đạo. Khi
trán vừa chạm đất, ông cảm nhận trong người dường như có luồng sức mạnh truyền
vào mãnh liệt. Ngay lúc đó Dharmapāla phát nguyện sẽ quyết tâm phục hưng Phật
giáo Ấn Độ.
Dharmapāla
bị kích động mạnh khi chứng kiến một vị địa chủ Bà-la-môn
nhiều
quyền lực, là chủ của vùng đất hiện là Bồ-đề Đạo tràng, đang đuổi đánh hai vị
Tỳ-kheo. Trong khi tại bảo tháp nơi tưởng niệm Đức Phật giác ngộ, lại đang thờ
tượng thần Shiva. Dharmapāla kiên quyết đấu tranh, yêu
cầu Quốc hội Ấn Độ trả lại thánh địa này cho Phật giáo.
Với tâm
nguyện trùng tu các thánh tích và chấn hưng Phật giáo tại Ấn Độ, nên ngày
31-5-1891, Dharmapāla thành lập Hội Maha Bodhi, cho ra đời Tạp chí Maha Bodhi
Society với mục đích truyền bá Chánh pháp của Đức Phật. Ông vận động mọi
người trong xã hội thực hành lời Phật dạy, nhằm góp phần xóa bỏ sự phân biệt
giai cấp, tín ngưỡng, tôn giáo, sắc tộc; chú trọng các hoạt động từ thiện xã
hội, giáo dục, v.v. Các hoạt động của Hội thực sự gây được tiếng vang không chỉ
ở Ấn Độ mà còn ở cả những nước Tây phương.
Năm 1893,
Đại hội Tôn giáo Quốc tế được tổ chức tại Chicago. Chủ tịch của Hội này khi đọc
các bài viết của Dharmapāla trên Tạp chí Maha Bodhi
Society
đã viết thư mời ông tham dự. Với sự hậu thuẫn của Tăng thống Sumagala,
Dharmapāla sang Mỹ với tư cách là người đại diện cho phong trào phục hưng Phật
giáo ở Đông và Đông Nam Á. Dharmapāla không bỏ lỡ dịp
này để xác nhận vị trí của Phật giáo. Với chủ đề “Món nợ của thế giới đối với
Đức Phật”, Dharmapāla thẳng thắng phê bình thái độ mập mờ của Ấn giáo khi
đồng hóa Phật giáo thành tôn giáo của mình. Bài diễn thuyết của ông đã khiến các
nhà trí thức trong hội nghị kinh ngạc và thay đổi cách nhìn đối với Phật giáo,
và cũng khiến cho những người phương Tây tiếp nhận Phật giáo một cách thiện cảm
hơn.
Dharmapāla
đã đi diễn giảng khắp nơi, tại những châu lục khác nhau. Ông tận dụng sở trường
diễn thuyết của mình để truyền bá Phật giáo, đánh động mọi người chú ý đến Phật
giáo, kêu gọi Phật tử trên toàn thế giới cùng ông phục hưng, hộ trì Phật giáo.
Ông cũng kêu gọi các nhà trí thức, nhà văn hóa, nhà tôn giáo hãy sống vì lý
tưởng, chung tay khôi phục Phật giáo trên vùng đất cội rễ. Mỗi khi thuyết giảng
trước đông đảo tín đồ Phật giáo và nhân dân Ấn Độ, Dharmapāla luôn trịnh trọng
tuyên bố: “Phật giáo đồ Ấn Độ đã bị truy phóng một thời gian dài 800 năm. Ngày
nay, họ đã và đang quay trở về tổ quốc. Tất cả chúng ta hãy thức tỉnh siêu vượt
chế độ, giai cấp và tín điều, với mục đích duy nhất của Hội Đại Bồ Đề là đem
giáo lý của Đấng Phật-đà tặng mọi người dân Ấn Độ.”
Dựa vào
hội Phật giáo được thành lập, Dharmapāla yêu cầu chính
phủ Anh trả lại xá-lợi Phật về cho Ấn Độ. Ông xây dựng chùa trên các vùng thánh
địa Phật giáo, đưa bốn vị Tỳ-kheo từ Sri Lanka qua ở
ngôi chùa của Sri Lanka được xây dựng nơi Bồ-đề Đạo tràng để sinh hoạt, xây dựng
lại hình ảnh Tăng đoàn trên đất Ấn.
Để phục
hưng được Phật giáo tại Ấn Độ, chỉ nhờ vào sự cố gắng của Dharmapāla và các vị
trí thức ngoại quốc không thôi thì chưa đủ, mà đòi hỏi phải có sự trợ giúp của
người bản địa trong hình thức Tăng sĩ. Phong trào phục hưng sẽ có được những
thành tựu lớn hơn khi có sự hiện diện của những Tăng sĩ người Ấn. Và người Ấn Ðộ
đầu tiên trở thành tu sĩ Phật giáo trong thời hiện đại là Mahavir Swami. Vị này
xuất gia ở Miến Ðiện vào năm 1890 và về sau kiến tạo cơ sở tại Kushinagar. Tiếp
theo sau Mahavir Swami là Dharmananda Kosambi (1902), Bodhananda (1914), Bhadant
Anand Kausalayayan (1928), Mahapandit Rahul Sankriyayan (1930), và Jagdish
Kashyap (1934). Việc xây dựng những ngôi chùa mới như Sri Dharmarajika Vihara ở
Calcutta vào năm 1920, Buddha Vihara ở Risalda Park, Lucknow vào năm 1925,
Malagandhakuti Vihira ở Sarnath vào năm 1931, và Buddha Vihira ở New Delhi vào
năm 1939,
đã tạo thêm sức đẩy cho phong trào phục hưng Phật giáo ở Ấn Độ.
Gần 40 năm trong hình thức cư
sĩ, Dharmapāla dành hết tâm huyết vào việc phụng sự đạo pháp, đào tạo nhân tài,
xây dựng cơ sở sinh hoạt Phật giáo, trùng tu các thánh tích Phật giáo tại Ấn Độ,
thành lập những chi hội truyền bá giáo pháp, v.v. Mãi đến ngày 13-7-1930, khi đã
bước sang tuổi 66,
Dharmapāla mới chính thức xin xuất
gia thọ đại giới.
Ngày 28-04-1933,
Dharmapāla trút hơi thở cuối cùng. Trước khi
mất, ông phát lời nguyện: “Tôi muốn tái sinh trở lại cõi đời này 25 lần để
truyền bá giáo lý đạo Phật”.
Ngọn lửa phục hưng Phật giáo lan truyền
Tên tuổi và công lao của Dharmapāla được tín đồ Phật
giáo ở Ấn Độ nói riêng và trên toàn thế giới nói chung mãi mãi biết ơn và khắc
ghi. Phong thái và bản lĩnh kiên cường của Dharmapāla
khiến những người lãnh đạo các tôn giáo đương thời phải kính trọng.
Dharmapāla
là người có công lớn trong việc thắp lên ngọn lửa chấn hưng Phật giáo. Ở các
nước có Phật giáo du nhập, nhờ tiếp nhận nguồn cảm hứng từ Dharmapāla cũng đã
phát khởi những phong trào chấn hưng Phật giáo, như Đại hội Kiết tập kinh điển
lần thứ VI tại thủ đô Miến Điện ngày 17-05-1954, với mục đích đoàn kết tín đồ và
chấn hưng Phật giáo.
Ở Trung Quốc, khoảng giữa thế kỷ XIX, một số nơi ở nước này bị mất chủ quyền, bị
các nước liên quân đánh phá chiếm làm tô giới. Nội địa lại bị bất ổn bởi cuộc
khởi dậy Phương Nam của Hồng Tú Toàn với Thanh Bình Thiên Quốc. Những nhóm này
đề xướng chống quân thù, đồng thời phá bỏ nhiều hủ tục, lên án Nho giáo, cho
rằng Nho giáo làm hủ bại đất nước, nhân đó họ cũng đốt phá chùa chiền kinh điển
của Phật giáo. Sau đó là tư tưởng Tam dân chủ nghĩa
của Tôn Dật Tiên được đưa ra vận động cách mạng, và điều này khiến một số chùa
chiền bị xâm chiếm làm trường học, đất đai nhà chùa bị tịch thu. Năm 1911, Cách
mạng Tân Hợi nổ ra, lật đỗ triều đình Mãn Thanh, lập chế độ dân quốc. Những sự
kiện này đã khiến cho Phật giáo Trung Quốc bị suy thoái nghiệm trọng. Sau đó,
nhờ tiếp nhận nguồn cảm hứng từ phong trào chấn hưng của Dharmapāla, những vị
cao tăng Trung Quốc đã nỗ lực chấn hưng Phật giáo tại nước nhà.
Tại Việt Nam, từ năm 1930, cũng có các phong trào chấn hưng Phật giáo diễn ra
trên khắp ba miền đất nước. Tại miền Nam, Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học do ngài
Khánh Hòa đứng đầu được thành lập. Miền Trung với Hội An Nam Phật Học do hai
ngài Giác Tiên, Lê Đình Thám khởi xướng. Miền Bắc với Hội Bắc Kỳ Phật Giáo được
dẫn khởi bởi chư vị Tăng-già và các vị cư sĩ. Các nơi đều lập được Phật học
đường, xuất bản tạp chí truyền bá Phật giáo, v.v. Cho đến nay, dù trải qua nhiều
khó khăn, nhưng Phật giáo Việt Nam đã thật sự phát triển và đang trên đường hội
nhập với Phật giáo trên toàn thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anagarika Dharmapāla-A Dục Vương Của Tích Lan,
Tạp chí “Phật Tử” (The Buddhist) số tháng 5-1964 phát hành tại Colombo (Tích
Lan).
Việt
dịch: HT.Thích Trí Chơn.
2. HT.Thích Thanh Kiểm. Lược sử Phật giáo Ấn Độ. Thành hội
Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1989.
5. Trần Phương
Lan, Đức Phật lịch sử, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1997.
7. Gia Quốc (dịch). Anagarika Dharmapala và Hội
Maha Bodhi.
Http://www.giacngo.vn/
8. Thích Nguyên Tạng, Các nhà sư châu Á trên đất
Mỹ.
Http://www.quangduc.com