Tính bất nhị trong văn phong của Tuệ Trung Thượng sĩ
tinh bat nhi
Tính bất nhị trong văn phong của Tuệ Trung Thượng sĩ
Chân Hiền Tâm
Tuệ Trung Thượng sĩ là anh cả của hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm.
Thượng sĩ khí lượng uyên thâm, phong thần nhàn nhã. Ngày còn nhỏ đã nổi tiếng về
bẩm chất tinh thượng thuần hậu. Khi được cử trấn giữ đất Hồng Lộ, hai phen chống
ngăn thành công quân Bắc xâm lược. Phật hoàng Trần Nhân Tông ca ngợi “Đó là vì
người vậy”.
Thượng sĩ mến mộ cửa không khi còn để chỏm. Lúc đến tham vấn Thiền sư Tiêu Dao ở
tinh xá Phước Đường, do lãnh hội được yếu chỉ nên dốc lòng thờ Thiền sư làm thầy.
Sau Thượng sĩ lui về ấp Tịnh Bang, hằng ngày lấy thiền duyệt làm vui, thuận
người mà làm hưng thịnh hạt giống Chánh pháp, tùy cơ mà có phương tiện dạy bảo,
lúc hiện, lúc ẩn, giúp người trụ tâm.
Vua Thánh Tông nghe danh đã lâu, liền cho mời vào kinh thành. Thấy lời lẽ đối
đáp thoát tục lại tương hợp, nhân đó mà kết nghĩa, tôn Thượng sĩ làm sư huynh.
Danh hiệu Tuệ Trung Thượng sĩ được ban tặng từ đó.
Chẳng chay cũng chẳng mặn
Một lần, Thượng sĩ vào cung thăm thái hậu. Bà mở tiệc thịnh soạn chiêu đãi. Ông
gắp thịt ăn. Thái hậu lấy làm lạ hỏi: “Anh tu thiền mà ăn thịt, đâu thể thành
Phật”. Chỉ vì một lúc ăn thịt mà không thể thành Phật thì con bò đã thành Phật
từ lâu. Nhưng bò là bò mà Phật là Phật. Bò cũng có tánh Phật, nhưng hóa và báo
dụng của Phật bò không sử dụng được. Suốt ngày gặm cỏ rồi lên đường vào lò mổ,
tiếp nối trùng trùng kiếp chúng sinh đọa đày. Việc đó cho thấy ăn chay không
phải là điều kiện tiên quyết trong vấn đề thành Phật. Không tiên quyết thì không
ăn chay vẫn có thể thành Phật. Nhưng sao kinh luận lại khuyến cáo người tu phải
ăn chay, giới thọ của Bồ-tát cũng nói đến ăn chay? Là để… đối trị cái tập ăn mặn.
Đối trị
là từ được dùng khi có tật bệnh xuất hiện. Tức có bệnh mới có thuốc. Dùng thuốc
đối trị bệnh. Có tham, sân, si mới nói đến bố thí, trì giới, nhẫn nhục v.v… để
dùng đó đối trị. Không bệnh thì không cần đến thuốc đối trị. Tức không bệnh thì
không nói đến từ đối trị. Chúng sinh huân tập việc ăn thịt quá sâu, làm người ăn
thịt, làm súc sinh ăn thịt, làm ngạ quỷ cũng ăn thịt.
Huân tập nhiều đến nỗi ăn uống trở thành thứ không thể thiếu khi có đời sống
chúng sinh ở cõi Ta-bà. Xuất hiện ở Ta-bà là phải ăn mới tồn tại.
Trong kinh Tử nhục,
Phật nói “Này các Tỷ-kheo! Có bốn loại thức ăn này đưa đến sự tồn tại hay
chấp thủ tái sinh cho các loài hữu tình hay chúng sinh. Thế nào là bốn? Đoàn
thực hoặc thô hoặc tế, xúc thực, tư niệm thực và thức thực. Này các Tỷ-kheo! Bốn
loại thức ăn này đưa đến sự tồn tại hay chấp thủ tái sinh cho loài hữu tình…”.
Đoàn thực, chỉ cho loại thức ăn mà hiện nay con người đang dùng, bao gồm cả chay
và mặn. Đoàn thực chỉ có ở cõi Dục. Ăn uống được huân tập sâu dày từ kiếp này
sang kiếp khác và trở thành tập nghiệp của con người, chính là Tập nói trong Tứ
đế. Tập tạo ra lực nghiệp. Lực nghiệp là thứ khiến chúng sinh bị trói buộc và
lôi chúng sinh luân hồi sinh tử triền miên, nên nói “đưa đến chấp thủ tái sinh”.
Tập khiến chấp xuất hiện và có sự tái sinh. Cho nên, muốn giải thoát, muốn chấm
dứt luân hồi sinh tử thì phải phá trừ cho được những gì thuộc tập nghiệp. Không
chỉ có tập nghiệp thuộc ăn uống mà còn các tập thuộc ngủ nghỉ, giao tiếp v.v… là
xúc thực, tư niệm thực và thức thực. Song chuyển thẳng từ việc ăn thịt sang việc
không ăn là điều gần như không ai làm được. Không có thiền duyệt sâu xa trợ giúp,
khó mà thực hiện được việc đó, nên trước phải dùng chay đối trị mặn. Đó là lý do
kinh luận khuyến cáo người tu nên ăn chay. Ngoài việc mở rộng lòng từ, dứt dần
những oan nghiệt từ việc ăn thịt, ăn chay còn giúp phá trừ tập ăn mặn, giảm dần
tham đắm trong việc ăn uống.
Thái hậu là mẫu người đại diện cho hầu hết những kẻ có tâm thiện lương và chánh
kiến. Không thể bảo tu là ở tâm, còn trên sự thì tham, sân, si không trừ, dục vị
buông tuồng, cứ để tập nghiệp trói buộc lấy mình. Mọi thứ phải được thể hiện
thành hành động. Nếu tâm thật tu, tham, sân, si phải giảm. Ăn chay không phải là
tất cả trong việc tu hành, nhưng nó là duyên giúp loại bỏ phần nào dục tham. Có
điều, thứ gì trở thành quy định hay tục lệ, không khéo, lâu dần sẽ thành một
loại định kiến với cái tâm dễ trụ của mình. Khi đã rơi vào định kiến, dù là định
kiến phù hợp với kinh luận, thì tâm chẳng còn vô trụ, chẳng thể thể nhập chân
tánh vô trụ. Thảy đều do chấp. Chấp là do tập. Hòa thượng Trúc Lâm nói “Anh tu
thiền mà ăn thịt, đâu được thành Phật” là câu nói của người thường, còn chấp”.
Tâm chưa trung đạo nên cái nhìn hay vướng vào lối mòn nề nếp, không thể tùy
duyên nhận định sự việc hiện tại một cách chính xác và vượt thoát. Nghĩa là,
chúng ta đối với sự việc xảy ra trong một lúc, thường quên mất mặt nhân duyên
của pháp. Pháp nhân duyên, là duyên lúc đó như vậy thì hiện pháp như vậy, trong
những duyên khác, pháp không hẳn vậy nữa. Chúng ta thường không dụng được cái
nhìn đó mà thường vận hành tư tưởng theo kiểu người đời, lấy tướng hiện ra trong
một lúc làm tánh của sự vật trong mọi lúc, mọi nơi. Bởi thế, tướng đó trở thành
thường trụ, bất biến, bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu tướng đó cũng hiện tiền. Đó
là một cái nhìn phiến diện nếu không nói là sai lầm.
Một lần, nhìn thấy người phụ nữ nói gì đứa bé cũng không nghe, tôi liền có suy
nghĩ, “Người phụ nữ này không có lực với đứa bé”. Song đó là một tư tưởng sai
lầm. Bởi thực tế, chỉ người phụ nữ đó mới có năng lực với đứa bé trong mọi sinh
hoạt của nó, còn lại không ai làm gì được. Chỉ là trong cái duyên của tôi, tôi
lại chỉ chứng kiến được một phần của sự việc, bằng hoạt tướng ngược lại. Dùng
tướng của một việc làm tánh cho toàn bộ các sự việc khác là một sai lầm. Song đó
lại là cái thấy đa phần người đời thường vướng. Khổ nạn tai họa mới xảy ra.
Thái hậu cũng không tránh được cái nhìn như thế, lấy tướng trong một lúc làm
tánh thường trụ của vạn pháp, chẳng hiểu chay mặn chẳng còn là tập với Thượng
sĩ. Chẳng phải tập, nên nó không mang tính thường hằng trói buộc, chỉ là đủ
duyên thì hiện, hết duyên liền không, không để lại dấu vết.
Ăn chay không phải là cứu cánh của việc tu hành. Nó chỉ là pháp dùng đối trị khi
có tật bệnh xuất hiện. Tật bệnh nói đây là tập ăn thịt. Đây nói tập ăn thịt,
không nói ăn thịt. Ăn thịt không lỗi nếu nó không được huân thành tập nghiệp, là
gốc của trói buộc và khổ đau. Thiền sư Duy Nghiễm nói: “Trồng thì không ngăn
ngươi trồng, nhưng chớ cho mọc rễ”.
Ăn thịt thì ăn thịt mà đừng huân nó thành tập. Muốn biết chay mặn có thành tập
với mình không thì dùng pháp nghịch nó mà kiểm nghiệm. Mặn mà thành tập thì
không dùng được chay, ăn chay sinh bệnh hay thấy lạt lẽo, thèm và nhớ đồ mặn.
Chay nếu thành tập thì không thể ăn thịt cá, thấy đồ mặn là dội ngược, tanh tao
muốn nôn v.v… Nói chung, thứ gì đã thành tập với mình thì ngược với nó, sẽ xuất
hiện sự chướng ngại. Ngăn dứt nó, mình chịu không nổi, mình thấy khó chịu, trống
vắng, thèm thuồng v.v… Có một lực nào đó lôi mình phải thực hiện những gì thuộc
tập nghiệp của mình. Chính vì lực này mà muốn dừng được tập nghiệp phải dùng
pháp đối trị. Pháp đối trị đơn giản nhất là “không những việc đó” cho tới khi
những việc đó không còn là thói quen của mình. Đó là lúc lực nghiệp bị đánh bật.
Do quá trình hàng phục tập nghiệp này mà xuất hiện các pháp đối trị như nhẫn
nhục, thiền định v.v… Chỉ là pháp đối trị nên khi tập nghiệp hết, pháp cũng phải
buông. Nếu cố chấp không buông, pháp đối trị sẽ thành tập. Tập tốt tuy có lực
dẫn chúng sinh vào cảnh giới tốt, nhưng cái gọi là giải thoát hay thể nhập chân
tánh vô trụ thì không thể.
Đứng trên mặt giáo hóa mà nói, khi bị tập nghiệp trói buộc, khó có thể tự tại
trong việc dùng pháp độ người. Vì căn nghiệp của chúng sinh muôn hình muôn vẻ,
có khi phải dùng đến pháp nghịch giới mới giáo hóa được. Vì thế tập xấu hết rồi,
pháp đối trị cũng phải buông, không được thủ chấp. Kinh Kim cang nói: “Pháp
còn nên xả huống là phi pháp”. Với cái nhìn của kinh Thắng Man, một
bộ kinh đào sâu về việc thể nhập chân tánh, chỉ ra những chướng ngại khiến hành
giả không thể nhập được chân tánh, thì các tùy phiền não không chỉ là pháp làm
chướng tâm, mà các pháp như chỉ, quán, tịnh lự, Tam-ma-bát-để, gia hạnh, trí,
quả, chứng lực, vô úy v.v… đều được coi là chướng phiền não nếu chúng được chấp
thủ. Nền tảng của sự chấp thủ này là Vô minh trụ địa, là Vô minh nghiệp tướng mà
luận Đại thừa khởi tín đã nói.
Không thủ chấp, không có nghĩa là bỏ ăn chay trở lại ăn mặn. Không chấp, là có
thể tùy duyên làm lợi ích chúng sinh mà không bị tập chay mặn làm chướng ngại.
Khi cần chay thì chay, khi cần mặn thì mặn, không chướng ngại khi dùng chay mặn.
Hòa thượng Tinh Vân khi dùng
cơm ở Hội Phật giáo Nhật Bản đã từng phải ăn mặn, dù “nghe mùi tanh nồng nặc
xông khắp”. Biết “canh mình dùng toàn bột nêm tôm cá”, ngài vẫn dùng. Chỉ vì
“Phật pháp dùng từ bi làm nền tảng, lấy phương tiện làm cửa vào để tu đạo và độ
chúng. Sự thanh tịnh nội tâm mới là quan trọng”.
Do muốn tránh cho mọi người sự khó chịu, nên ngài vui vẻ cùng dùng. Trong những
duyên khác, ngài vẫn dùng chay. Tính trung đạo thể hiện qua hành động này. Không
vướng chay cũng không vướng mặn, chỉ tùy duyên mà có chay mặn.
Tùy duyên, không phải tùy nghiệp. Chúng ta chỉ tùy duyên được khi thói quen hay
tập nghiệp của mình đã dứt. Cho nên, Hòa thượng Trúc Lâm dạy “Tội phước chỉ
phát sinh ở tâm niệm vọng động. Tâm không dấy động thì không nói tội phước. Bây
giờ Tăng Ni chưa hết phiền não vọng tưởng mà bắt chước ăn thịt uống rượu thì có
tội không? Tâm sinh thì tội sinh. Chừng nào tâm hết sinh khởi thì sao cũng được.
Vậy quý vị muốn bắt chước thì tâm phải như Thượng sĩ. Nếu tâm chưa vô niệm thì
khoan bắt chước”.
Ăn thịt một khi vẫn là tập của mình thì không nên như Thượng sĩ. Ăn chay nếu
thành tập thì muốn bắt chước Thượng sĩ cũng không được. Chay mặn đều không còn
là tập mới có thể như Thượng sĩ.
Chẳng tu cũng chẳng vô tu
Một người đã đăng lên facebook bài viết Tu là sửa của Hòa thượng Thích
Thiện Hoa: “Đã gọi là sửa thì bất luận những gì xấu xa hư dỡ đều phải sửa.
Sửa cái dỡ thành hay. Sửa cái xấu thành tốt. Sửa vọng thành chân…”. Có người
đọc xong, phát biểu: “Đúng là sai lầm. Sửa cái dỡ thành cái hay cũng là bản
ngã. Vọng đã hư thì giác ngộ nó chỉ là bóng liền xong. Kẻ còn đâm đầu vào cái
bóng đánh lộn hay sửa nó thì còn nguyên vô minh ái dục. Ôi kẻ si mê muôn kiếp
hủy diệt con đường giải thoát của Đấng Giác ngộ. Một bầy mê cho là hay. Thương
thay!”. Rồi dạy người thực hành như sau: “Thấy tất cả hiện khởi đừng áp
đặt cho nó là đúng hay sai. Chỉ cần thấy và để yên đừng phản ứng thì nó sẽ tự
sinh tự diệt. Cái thấy biết mới là mình nên chỉ thấy là được. Vọng là cái bóng.
Nếu thật thấy nó là bóng thì nó có sinh hay diệt đâu có vấn đề gì. Thật sự ngộ
nó là bóng thì cái thấy biết cần gì theo hay không theo. Xấu hay tốt, gốc là vô
ngã thì để yên nó sẽ mất, đừng hành động theo nó là được. Cho bóng là mình rồi
muốn sửa xấu thành tốt vậy có phải còn nguyên vô minh không”. Trên lý, nói
nghe rất bay bổng dù có chỗ không chính xác, như nhận cái thấy biết là mình, thứ
mà Thiền sư Nam Tuyền gọi là vọng giác. Nhận vọng giác làm mình nên trước vọng
sau cũng vọng. Loanh quanh như thế nên chân ngay đó mà không thể nhận, không
thấu được thực lý Duyên khởi ở thế giới này là mặt tùy duyên của vạn pháp. Không
thấy được ngoài lý còn có sự, là căn cơ của chúng sinh. Không thấy pháp nếu chỉ
khế lý thì chưa đủ, mà còn phải khế cơ mới mang lại lợi ích cho muôn người. Lý
dù hay mà ứng vào cơ chúng sinh không dụng được, hoặc theo đó tu mà cũng như
không tu… thì chẳng mảy may lợi ích. Không lợi ích thì sẽ phá hủy niềm tin của
hàng sơ cơ. Mọi thứ trở thành tai họa.
Đúng là, nếu vọng hiện khởi như bản chất của nó thì không cần tác ý buông bỏ,
vọng tự sinh, tự diệt. Nhưng diệt rồi không sinh lại, cho đến khi đủ duyên để
hiện khởi, không phải sinh diệt liên tục như tâm chúng sinh hiện nay, không thể
dừng nghỉ dù rất muốn dừng nghỉ. Đó là chỗ khác nhau giữa cái gọi là vọng của
Bồ-tát và vọng mà chưa phải vọng của phàm phu, dù bản chất của chúng không khác.
Nếu thực là vọng thì đúng là chẳng cần sửa vọng thành chân. Nhưng người đời nay,
mấy người được như thế? Khi tập khởi còn mạnh, lực nghiệp còn là thứ chi phối
mọi hành tác của mình thì không có gì là vọng với mình, dù bản chất nó là vọng.
Hàng Bồ-tát tái lai theo hạnh nguyện. Chư vị cũng phải trải qua giai đoạn điều
phục những nhiễm ô do nguyện tái lai của mình, chỉ là chóng hơn. Còn lại thì cái
gọi là vọng chưa hề là vọng với chúng sinh. Mọi thứ đều có lực rất mạnh. Chính
lực này khiến những thứ là vọng trở thành như thực. Ý nghiệp hiện khởi thì thân
nghiệp và khẩu nghiệp theo đó liền hiện khởi. Không kịp có thời gian tỉnh giác
để chọn lựa là nên hay không nên. Tham lam, sân hận không thể dừng, đều do lực
nghiệp còn mạnh. Mất mình theo vọng là do lực khởi còn mạnh. Khởi đã thành tập
nên vọng không thể dừng. Vọng như dòng thác đổ, không thể kiểm soát. Không như
mây trôi trên nền trời không vướng bận. Có điều, ít ai nhận được sự sinh diệt
liên tục này nếu không có công phu biết vọng. Giai đoạn này nếu không có sự tác
ý buông bỏ thì không thể nào tỉnh giác mà dừng được lực nghiệp. Điều đó cho thấy
cái gọi là vọng, với kẻ sơ cơ chưa phải là vọng. Mọi thứ được huân tập đã tích
tụ sâu trong tạng thức thành có lực. Chính lực này khiến chúng sinh thọ nhận
thân tâm và cảnh giới như hiện nay. Vì lý do đó mà Phật Tổ nói đến tu, đến sửa,
đưa ra vô vàn pháp đối trị. Từ Ba mươi bảy phẩm trợ đạo đến Lục độ vạn hạnh, Chỉ
quán v.v.., tất cả nhằm để sửa tà thành chánh, giúp buông vọng nhập chân.
Không nhận ra được mặt tùy duyên của pháp mới sinh phỉ báng. Lý tuy thế nhưng
tùy căn cơ chúng sinh mà thành có sai khác. Từ gốc vô pháp mà nảy sinh vô vàn
pháp, vì hai chữ tùy duyên. Không chỉ thẳng Nhất thừa mà phải bày ra Tam thừa và
Nhân Thiên thừa, vì căn cơ chúng sinh có lợi độn. Đó là tùy duyên ứng cơ mà có
pháp. Hòa thượng dạy tu là sửa, sửa cái xấu thành tốt v.v… là cho hàng sơ cơ,
những người giữ giới còn chưa xong, nói chi là những thứ như định, tuệ v.v… Đâu
thể một bước vượt qua nghiệp lực để có thể tự tại với vạn pháp, để có thể giác
ngộ vọng là cái bóng mà không cần đến sự dụng công.
Đúng là chỉ cần giác ngộ được vọng là bóng thì… tùy duyên tiêu nghiệp cũ, không
cần dụng công buông bỏ. Nhưng làm sao để giác ngộ vọng là bóng mới là vấn đề.
Nếu để tự nhiên mà có thể giác ngộ vọng là bóng thì tất cả chúng sinh đều thành
Phật từ lâu. Nhưng thực tế là ngay những kẻ đầu quân cửa Phật rồi, ái dục có khi
vẫn lẫy lừng, khẩu nghiệp và thân nghiệp vẫn chưa thể điều phục được theo chiều
hướng thiện lương. Điển hình là tác giả của câu nói trên. Buông lời phỉ báng Tổ
sư và chư vị thiện tri thức khá dễ dàng. Một lời phỉ báng không cần thiết nhưng
vẫn phát ra, vì không làm chủ được tâm vọng động của mình. Tâm chấp pháp còn
nặng.
Do chấp pháp nên chỉ thấy pháp mình dụng là đúng, tất cả pháp còn lại đều sai.
Chẳng thể hiểu cái gọi là tùy bệnh cho thuốc. Bệnh nặng nếu không dùng thuốc đối
trị thì càng để lâu bệnh càng nặng. Càng để tự nhiên, huân tập trói buộc càng
nhiều. Cho nên, khi còn bị tập nghiệp chi phối thì không thể để mọi thứ tự
nhiên, bởi cái tự nhiên đó chỉ là sản phẩm của tập nghiệp, đang bị tập
nghiệp làm chủ mà không biết. Chỉ có thể nói đến hai chữ tự nhiên (vô công dụng
hạnh) khi tập nghiệp đã dứt. Không theo thứ lớp đó mà tu thì mọi thứ thành sai
lầm.
Đã dụng đến pháp vô công mà không hiện nổi cái trí duyên khởi, không nhận được
mặt tùy duyên của pháp, thì biết tuy nói tỉnh giác, nói giác ngộ… mà thật là
đang buông trôi theo ác tập; nói tu mà thật là không tu. Thảy đều do vô minh dẫn
dắt.
Tóm lại…
Trong việc tu hành, một khi tham sân còn, lực nghiệp còn mạnh, ý khởi lên điều
gì liền theo đó mà tạo tác, không thể làm chủ sự vọng động của mình, thì nhất
định phải có phương tiện để đối trị. Tham sân mỏng rồi, lực nghiệp không còn,
vọng đã hiện đúng bản chất của nó thì mới có thể… tùy duyên tiêu nghiệp cũ, gọi
là vô công dụng hạnh. Chưa được vậy thì hãy trân trọng những gì mà Tổ Thiện Hoa
đã dạy. Không sửa thì chúng sinh vẫn hoàn chúng sinh. Cho nên, trong kinh
Viên giác, một bộ kinh được gọi là Đại phương quảng liễu nghĩa, đã nói đến
mặt huyễn hư của vạn pháp: các pháp như huyễn, thân tâm như huyễn, dùng huyễn tu
huyễn v.v…, tuy vậy vẫn dạy chúng sinh “Phải tinh tấn hàng phục phiền não.
Khởi đại dũng mãnh. Những pháp chưa được khiến được. Những thứ chưa đoạn khiến
đoạn. Tham, sân, ái, mạn, siểm khúc, tật đố… đối cảnh không sinh. Ta, người, ân
ái tất cả đều vắng lặng. Phật nói người này thứ lớp thành tựu, cầu thiện tri
thức chẳng rơi vào tà kiến”. Cũng nói, “Những chúng sinh đời sau chẳng rõ
bốn tướng, lấy chỗ hiểu và hành của Như Lai làm chỗ tu hành của mình, trọn không
thể thành tựu”. Không phải nghe Phật nói các pháp như huyễn thì cho rằng
“đâm đầu vào cái bóng đánh lộn hay sửa nó thì còn nguyên vô minh ái dục”. Chư vị
Thanh văn, nếu không đâm đầu vào bóng ấy mà tác ý trừ đoạn thì chẳng thể có được
quả vị La-hán, ái dục và phiền não không thể dứt đoạn. Phải biết nói huyễn là
Phật nói cho chúng sinh biết về bản chất của vạn pháp để quán mà tu. Không phải
mọi chúng sinh đã có được thực nghiệm như Phật. Tiếp duyên đối cảnh vẫn còn phân
biệt, tham, sân… thì biết chưa có pháp nào như huyễn với mình. Vì thế vẫn cần
đoạn, cần sửa… thứ lớp tiến lên. Không nên để mọi thứ tự nhiên, không đoạn,
không sửa như người đã sạch mọi hoặc chướng. Mới thấy, vô minh không nằm ở việc
sửa xấu thành tốt, sửa vọng thành chân… mà ở việc không nhận được mặt tùy duyên
của pháp, không thấy được tất cả pháp đều là Phật pháp, không biết dụng pháp sao
cho phù hợp với căn cơ của chúng sinh. Đó mới là vô minh.
Trần Nhân Tông, một lần thưa với Tuệ Trung Thượng sĩ:
- Chỉ như giữ gìn giới hạnh trong sạch không chút xao lãng thì thế nào?
Tuệ Trung cười không đáp. Trần Nhân Tông lại thỉnh cầu. Tuệ Trung nói hai bài
kệ:
- Giữ giới cùng nhẫn nhục
Chiêu tội chẳng chiêu phước
Muốn biết không tội phước
Chẳng giữ giới nhẫn nhục.
- Như khi người leo cây
Trong an tự cầu nguy
Như người không leo cây
Trăng gió có làm gì?
Nói rồi dặn nhỏ Trần Nhân Tông: “Chớ bảo cho người không ra gì biết”.
Cũng dạy người không tu, không sửa, tu sửa là họa, nhưng lại không đánh mất mặt
tùy duyên của vạn pháp, được thể hiện qua câu “Chớ bảo cho người không ra gì
biết”. Người không ra gì là chỉ cho hạng còn nặng tham, sân, si.
Ai nắm được Trung luận và Bát-nhã, nắm được ý nghĩa của bốn từ
vô, bất, phi, ly nói trong Lăng-già, sẽ không lấy làm lạ về cách dùng
từ cũng như ý nghĩa của bài kệ. “Không tội phước” hay “Chẳng giữ giới cùng nhẫn
nhục” nghe có vẻ trái với lời dạy của Phật, Tổ, kinh luận, nhưng thật là không.
Vô, bất, phi, ly là các từ mà Lăng-già dùng để “ngăn cái quấy
kia mà chẳng nói cái phải kia”.
Vì cái phải, ngôn từ không thể đến. Thành chỉ ngăn cái quấy mà không xác định
cái phải. Tức không cầu thánh giải, chỉ cần sạch phàm tình. Phàm tình sạch thì
thánh giải tự hiện. Lìa tất cả những gì thuộc nhị biên thì chân tánh hiện tiền.
Không tội phước
là phủ định những gì thuộc nhị biên phân biệt để hiển Đệ nhất nghĩa như Trung
luận đã nói “Không sinh cũng không diệt, không thường cũng không đoạn…”.
Tâm không rơi vào nhị biên phân biệt thì ngay đó chân thể hiện tiền. Trong
Lăng-già tâm ấn, khi trả lời 108 câu của ngài Định Huệ, Phật đều bắt đầu các
câu bằng bốn từ vô, bất, phi, ly. Thiền sư Hàm Thị giải thích, “Xét
lời đáp này, chỉ có bốn chữ vô, bất, phi, ly. Đây là lời chỉ thẳng. Chỉ
ngăn cái quấy kia mà chẳng nói cái phải kia. Nếu có chỗ phải thì nào khác với
quấy. Như vàng làm đồ trang sức. Vàng không phải bình, không phải bàn, không
phải thoa, không phải xuyến, để rõ nó là vàng vậy”. Chỉ thằng là như thế.
Không chấp tướng thì chân tánh tự hiển.
Không chấp tướng, không có nghĩa là không luôn các tướng đó. Nếu không luôn các
tướng đó, cố định luôn như thế,
thì rơi vào cái gọi là chấp không, không phải là không chấp. Không chấp, là
không trụ ở tướng có cũng không trụ ở tướng không, chỉ tùy duyên mà hiện tướng,
không nhất thiết phải cố định ở một tướng nào. Song muốn tùy duyên, muốn không
vướng chấp, phải diệt trừ tập nghiệp. Tập nghiệp nào dứt, ta tự tại với nghiệp
đó. Ăn ớt không phải là thói quen, mới có thể tự tại với việc ăn ớt hay không ăn
ớt. Bị thói quen ăn ớt chi phối thì phải có ớt, ăn mới xong. Bị thói quen không
ăn ớt chi phối thì khi ăn phải ớt, chướng ngại liền xuất hiện, không thể “vô
quái ngại cố, vô hữu khủng bố…” như Tâm kinh Bát-nhã đã nói.
Muốn biết không tội phước
là muốn chứng nghiệm được chân thể thanh tịnh sẵn đủ trong mỗi người, thì
chẳng giữ giới cùng nhẫn nhục. Việc này được nói trong cái duyên mà Phật
hoàng Trần Nhân Tông đưa ra, giữ giới đã tròn, thánh hạnh đã lập, tập đời đã
dứt. Trong duyên như thế, nếu lập ra việc “giữ gìn không chút xao lãng” thì
tránh cực phàm lại rơi vào cực thánh, chẳng thoát tâm nhị biên, không thể nhập
trung đạo. Nên Thượng sĩ trả lời “Giữ giới cùng nhẫn nhục/ Chiêu tội chẳng
chiêu phước/ Muốn biết không tội phước/ Chẳng giữ giới nhẫn nhục”.
Phước tội là những khái niệm được lập thành tương đãi theo duyên. Trong duyên
thế này, việc làm đó là phước, nhưng trong duyên khác có khi lại thành tội. Cùng
là pháp bố thí, nhưng bố thí thức ăn cho người đang đói thì bố thí ấy mang lại
phước báu cho mình và người, còn bố thí ma túy cần sa cho trẻ con thì bố thí ấy
mang họa cho người và mình. Xét bố thí là tội hay phước đều tùy thuộc vào duyên
hiển nó, không phải bản thân pháp tự có giá trị nhất định. Không phải cứ bố thí
là có phước. Nhân duyên tương đãi là vậy. Phước hay họa không mang tính cố định
mà tùy duyên hiển giá trị.
Trì giới và nhẫn nhục đến chỗ không còn xao lãng, đối với hạnh phúc thế gian, là
phước. Nhưng với cội nguồn thanh tịnh, là chỗ mà tất cả đều phi, không mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ý, không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp v.v… thì những thứ đó
trở thành chướng ngại. Chướng ngại thì chiêu tội, chẳng chiêu phước. Nói chiêu
tội là nói trong cái duyên giúp thể nhập chân tánh vô trụ. Trong duyên đó mới
chiêu tội. Vì làm chướng ngại việc thể nhập chân thể vô tướng. Trong các duyên
khác thì không.
Muốn thể nhập chân thể, tâm phải vô chấp với mọi pháp dù là pháp Phật dạy, nên
nói “Chẳng giữ giới cùng nhẫn nhục”. Lăng-già nói, “Câu
Ba-la-mật thì phi Ba-la-mật. Câu giới thì phi giới. Câu trị phi trị…”. Trị,
chỉ cho pháp đối trị.
Tất cả đều phải phi. Trong Thắng Man phu nhân hội, những pháp dùng đối
trị tập bệnh của chúng sinh đều trở thành chướng phiền não khi nói về chân thể
vô tướng, vô trụ, vô niệm. Kinh nói, “Sinh chướng tâm phiền não, chướng chỉ
phiền não, chướng quán phiền não, chướng tịnh lự phiền não, cho đến chướng
Tam-ma-bát-để phiền não, gia hạnh, trí, quả, chứng, lực, vô úy… Có hằng sa số
tất cả phiền não, chỉ có Bồ-đề của Như Lai mới đoạn được”. Sinh, là trước
không nay có. Phiền não vốn không, do bất giác rồi lưu chuyển sinh tử huân tập
mà hiện thành. Nhờ “vốn không” mới có thể đoạn trừ. Chỉ quán, Lục độ vạn hạnh
v.v… vốn không, do trị tập mà lập nên. Giờ tập hết, thuốc cũng phải bỏ. Không
thì như người không bệnh mà dùng thuốc, thuốc ấy sẽ khiến sinh bệnh. Nên Tổ nói,
“Như khi người leo cây/ Trong an tự cầu nguy/ Như người không leo cây/ Trăng
gió có làm gì?”. Khởi lên việc “giữ gìn giới hạnh trong sạch không chút xao
lãng” chính là muốn trong an tự cầu nguy. Chỉ cần chướng hết, chân thể hiện
tiền, chẳng nên lưu giữ các pháp đối trị. Sự lưu giữ ấy sẽ biến các pháp đối trị
thành chướng.
Chẳng giữ giới nhẫn nhục
chỉ được ứng dụng trong cái duyên đã sạch hết phàm tình. Nếu chưa được duyên như
thế thì vẫn cần giữ giới cùng nhẫn nhục. Nên sau khi nói việc ấy với Trần Nhân
Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ dặn “Không nên nói cho người không ra gì biết”,
là những vị còn phạm giới, chưa thể làm chủ tham sân của mình, nếu không dùng
pháp đối trị thì khó mà hết được tập bệnh. Cái gọi là sửa tà thành chánh, sửa
xấu thành tốt, trì giới, nhẫn nhục v.v… vẫn rất cần với chư vị.
Cho nên:
- Người nói pháp, nếu khế lý mà không khế cơ với chúng sinh thì chẳng khác dạy
người buông tuồng các ác tập, tuy nói tu mà thực là không tu. Tu rồi mà thánh
hạnh không thể lập, đường dữ vẫn vào thì niềm tin sẽ mất, đạo Bồ-đề sẽ thối,
trầm luân mãi trong sinh tử khổ đau.
- Hành giả dụng pháp, phải tự liệu tâm mà gắp pháp, sao cho phù hợp với căn cơ
của mình. Không phải vì pháp tối thượng mà ta chọn, pháp hạ liệt mà ta chê. Tối
thượng mà không làm được, chẳng thể trị được tập bệnh của mình thì tu khác gì
không tu? Pháp dù hạ liệt mà có thể giúp mình diệt trừ tham, sân, si, mạn, nghi,
ác kiến thì hạ liệt cũng thành thượng thắng. Cho nên, có thể biết vọng không
theo thì một lòng biết vọng không theo. Biết vọng không theo chưa được thì dùng
Sổ tức, Tùy tức. Sổ tức, Tùy tức vẫn không xong thì niệm Phật, dùng một niệm
hàng phục muôn niệm. Tùy duyên mà dụng pháp. Chỉ là, vọng tưởng là thứ huân tập
đã lâu, sinh khởi đã thành tập, không phải nói dừng là liền đừng được. Cần kiên
trì trường viễn trong việc dụng pháp. Không thể áp dụng qua loa vài tháng rồi
nghĩ không hợp, tìm pháp khác. Khó mà được pháp nào cho trọn khi thay pháp liên
tục như khỉ chuyền cây. Cần sự dứt khoát, kiên trì và trường viễn trong việc
chọn pháp và dụng pháp.
Ảnh hưởng của Tuệ Trung đối với Thiền phái Trúc Lâm
Việc này phải được nhìn theo thế tương đãi. Trong thế giới tương đãi này,
không có pháp nào có tướng mà mang tính phổ quát. Tương đãi, nên A xuất
hiện thì -A cũng xuất hiện. Chỉ là A đa số hay -A đa số mà thôi.