Vài nét về Phật giáo Ấn Độ sau khi phục hưng
VÀI NÉT VỀ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ SAU K
VÀI NÉT VỀ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ SAU KHI PHỤC HƯNG
Thích Trung Hữu
Như chúng ta biết, phong trào phục hưng của Phật
giáo Ấn Độ bắt đầu với những hoạt động của các học giả và Phật tử (chỉ chung cho
xuất gia và tại gia) ở trong và ngoài Ấn Độ từ cuối thế kỷ thứ XIX. Đặc biệt với
những nổ lực của Tiến sĩ B.R.Ambedkar, Phật giáo ở Ấn Độ đã được hồi sinh và
ngày càng phát triển về cả số lượng lẫn chất lượng, tại gia lẫn xuất gia. Trong
bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu một số nét về Phật giáo ở Ấn Độ hiện nay: số
lượng, hình thức sinh hoạt tôn giáo cũng như đời sống vật chất và tinh thần của
những Phật tử Ấn Độ sau khi họ cải đạo sang Phật giáo.
Trước hết là về số lượng chư Tăng. Khi nhà sư
Tích Lan Anagarika Dhammapala đến Ấn Độ năm 1891 thì chưa có
Tỳ-kheo nào là người Ấn Độ. Trong giai đoạn từ 1891
đến 1956, số Tỳ-kheo là người Ấn Độ chỉ đếm trên đầu ngón tay, như Tỳ-kheo
Mahavira, Dharma Ananda Kosambi, Bodh Ananda, Anand Kausalyayan, Rahul
Sankrityayan, Jagdish Kashyap và Dharmarakshita... Trong số các nhà sư này thì
Thầy Mahavira qua đời vào năm 1919, Dhamma Ananda Kosambi qua đời vào năm 1947,
và Bodh Ananda qua đời vào năm 1952, còn Thầy Rahul Sankrityayan hoàn tục năm
1937. Tuy nhiên, sau sự kiện cải đạo của Tiến sĩ Ambedkar thì số lượng người tu
được tăng lên đáng kể. Năm 1970, các nhà sư Ấn Độ đã trở nên đủ đông để có thể
thành lập một tổ chức Phật giáo, đó là Hội Tỳ-kheo Toàn Ấn Độ (All Indian
Bhikkhu Sangha) vào tháng 7 năm 1970, do Tỳ-kheo Jagdish Kashyap làm chủ tịch.
Đến năm 2008 thì số thành viên của Hội là 2.000 Tỳ-kheo. Đây chỉ là những thành
viên của Hội. Ngoài ra còn có những tu sĩ khác nằm ngoài Hội nữa. Theo số liệu
điều tra thì năm 1991, đã có ba ngàn Tăng Ni, sáu triệu tín đồ, 500 tu viện, 100
hội và tổ chức Phật giáo.
Thành tựu này mặc dù khiêm tốn hơn so với vinh quang trong quá khứ của Phật giáo
Ấn Độ, nhưng nó cũng đủ để nói lên một điều là tôn giáo của Đức Phật đã được hồi
sinh trên quê hương nơi nó sinh ra 2.500 năm trước.
Thật ra, do hoàn cảnh đặc biệt, Phật giáo Ấn Độ
hiện nay có phần khác hơn Phật giáo truyền thống. Đó là vai trò của chư Tăng
không quan trọng cho lắm. Họ rất kính trọng các Tỳ-kheo, nhưng không cần thiết
phải nương tựa vào Tăng bảo. Trong lễ thọ giới, người Phật tử trước có thể
truyền giới cho người mới đến, mà không cần phải là Tỳ-kheo. Tất nhiên điều này
không phải xảy ra đối với tất cả Phật giáo Ấn Độ, nhưng đúng là có chuyện đó,
nhất là những “đệ tử” của Ambedkar. Cho nên, Phật giáo ở Ấn Độ ngày nay, phần
đông là Phật tử tại gia. Chúng ta có một vài số liệu sau đây để thấy tín đồ Phật
giáo gia tăng như thế nào qua các giai đoạn:
Năm 1951: 0,2 triệu (0,1 % dân số Ấn Độ).
Năm 1961: 33,3 triệu (0,7 %).
Năm 2001: 0,8 %.
Năm 2005: 1,1 %.
Nếu so sánh tỷ lệ tăng trưởng giữa các tôn giáo
ở Ấn Độ từ năm 1991 đến năm 2001, chúng ta thấy rằng tín đồ Phật giáo tăng
24.5%, Ấn giáo tăng 20,3%, Hồi giáo tăng 29.5%, Thiên Chúa giáo tăng 22,6%, đạo
Sikh 18,2%, Kỳ-na giáo 26,0%, và 1% là các cộng đồng khác. Như vậy, tỷ lệ tăng
dân số Phật giáo đứng thứ ba sau Hồi giáo và Kỳ-na giáo. Tuy nhiên, dân số Phật
giáo, thực tế cao hơn nhiều so với báo cáo. Có khoảng 20-30 triệu người khác
không đăng ký là Phật tử vì sợ mất trợ cấp của Chính phủ giành cho người giai
cấp thấp của đạo Hindu.
Tín đồ Phật giáo Ấn Độ ngày nay được chia thành
bốn nhóm.
1) Những người Phật giáo trong nhóm đầu tiên là
những người theo đạo Phật theo truyền thống gia đình từ thời Phật.
2) Những người Phật tử trong nhóm thứ hai là
những người đến từ các nước láng giềng. Họ sống ở Ấn Độ nhưng họ không phải là
cư dân Ấn Độ. Họ chủ yếu là người Tây Tạng đã theo Đức Dalai Lama đến Ấn Độ từ
năm 1959. Những người khác đến từ các nước châu Á. Và phần còn lại là một số
người châu Âu.
3) Những người Phật tử trong nhóm thứ ba là
những người đã đến với Phật giáo từ phong trào chấn hưng Phật giáo của ngài
Dhammapada và sự truyền giáo của Hội Đại Bồ Đề. Họ cũng là những người đến với
Phật giáo bằng giáo dục và học thuật. Do đó, các Phật tử trong nhóm này bao gồm
tất cả các tầng lớp khác nhau của xã hội.
4) Và cuối cùng là những môn đồ của Tiến sĩ
Ambedkar.
Trong bốn nhóm Phật tử này, những người theo
Ambedkar chiếm đa số, tới 90% tổng số tín đồ Phật giáo Ấn Độ.
Trên đây chúng ta đã đề cập số lượng của tín đồ
Phật giáo ở Ấn Độ, bây giờ chúng ta thử tìm hiểu xem cuộc sống của họ như thế
nào. Họ có thay đổi gì sau khi cải đạo sang Phật giáo.
Về phương diện vật chất, Tiến sĩ Ambedkar đã nỗ
lực đem lại cho những người cùng đinh những lợi ích thiết thực, cụ thể. Ông đấu
tranh để họ được sử dụng nguồn nước công cộng, được làm lễ trong một số đền thờ.
Và khi ông làm Bộ trưởng Tư pháp, ông đã xóa bỏ chế độ cùng đinh trong Hiến pháp
Ấn Độ.
Tuy nhiên đó không phải là cống hiến quan trọng nhất của Ambedkar đối với tầng
lớp cùng đinh. Cống hiến quan trọng nhất của ông đối với tầng lớp cùng đinh là ở
phương diện tinh thần, và nhất là hướng dẫn họ đến với đạo Phật. Ông nói rằng
cuộc đấu tranh của ông và những người cùng đinh không phải chỉ vì kinh tế, mà
còn vì danh dự, vì sự tự tôn trọng. Từ nhiều thế kỷ, những người cùng đinh đã
tin một cách mù quáng rằng số phận của họ là do Thượng đế quy định cho nên họ đã
chấp nhận chúng vô điều kiện, họ có bổn phận phải phục vụ giai cấp trên.
Ambedkar cho rằng quan niệm như thế cần phải được chấm dứt. Ông tuyên bố rằng bộ
luật Manu (quy định về chế độ giai cấp) là do con người làm chứ không
phải là sản phẩm của Thượng đế gì cả, và ông đã đem đốt nó trong một cuộc hội
nghị của những người thuộc giai cấp thấp vào năm 1927, vì cho đó là biểu tượng
của sự bất công. Ông bảo những người theo ông rằng:
“Các bạn bị nghèo đói, tước đoạt và nhục nhã
không phải vì nó đã được định sẳn do tội lỗi kiếp trước của các bạn, mà do sự
bạo ngược và phản bội của những người ở trên bạn. Bạn không có đất bởi vì những
người khác đã chiếm đoạt chúng. Bạn không có địa vị vì những người khác đã giành
hết cho họ rồi. Đã đến lúc phải nhổ các tư tưởng về cao và thấp ra khỏi đầu óc
của các bạn. Chúng ta chỉ có thể nâng cao phẩm giá của mình khi chúng ta biết tự
trọng và dựa vào sức mình. Trên thế gian này, không có giá trị nào đạt được mà
không do nỗ lực phi thường, không có tiến bộ nào có thể đạt được trừ phi chúng
ta phải trải qua quá trình rèn luyện”.
Có thể nói rằng, dưới ngọn cờ của Tiến sĩ
Ambedkar, giai cấp cùng đinh đã nhận thức và từ bỏ các mê tín dị đoan và sự cam
chịu. Họ đã bắt đầu hành động, và điều này dẫn đến sự giải phóng họ khỏi gông
cùm của chế độ nô lệ của xã hội Hindu. Nếu không có sự dẫn dắt sáng suốt và can
đảm của Ambedkar, những người thuộc giai cấp cùng đinh không thể đạt được vị thế
mà họ đang hưởng trong xã hội Ấn Độ hiện nay.
Đúng là, sau khi trở thành Phật tử, cuộc sống
của những người giai cấp cùng đinh đã thay đổi tích cực. Nếu Phật giáo đã
"xoa dịu nỗi đau khổ của sự thất vọng... và giúp hàng triệu người sống cuộc sống
ngọt ngào, ôn hòa", thì nó cũng cải thiện cuộc sống của những người cùng
đinh Ấn Độ một cách đáng kể. So với các cộng đồng thuộc giai cấp cùng đinh khác
thì những cùng đinh - Phật tử đã có một sự thay đổi tích cực. Họ có ý thức về
tầm quan trọng của giáo dục. Do đó, thay vì lãng phí thời gian và tiền bạc cho
việc cầu khẩn và tế lễ thần linh, họ đầu tư vào việc học hành cho con cái. Kết
quả là đời sống kinh tế của họ đã được cải thiện hơn.
Sự thay đổi quan trọng mà Phật giáo đem đến cho
họ là niềm tin vào bản thân. Họ không còn tự ti như trước đây nữa. Họ tin rằng
giá trị của con người không phải do giai cấp quy định mà phụ thuộc khả năng của
chính mình. Vì vậy, họ cố gắng để học tập và nâng cao năng lực bản thân. Những
người Phật tử mới không còn tin vào bất kỳ lực lượng siêu nhiên nào nữa,
mà hành động theo luật nhân quả và khoa học. Họ không còn phân biệt giai cấp.
Nói chung, so với các cộng đồng người cùng đinh khác như Matangs, Charmas hay
Bhangis… thì đời sống xã hội, văn hóa, giáo dục và kinh tế của các Phật tử
mới đã được cải thiện đáng kể.
Khi tôi học ở Ấn Độ, tôi có gặp và tiếp xúc với
một số Phật tử Ấn Độ. Họ nói rằng việc đến với đạo Phật là một thay đổi vĩ đại.
Trước đây họ không dám nhìn lên, không dám nói vì sợ giai cấp trên, nhưng sau
khi quy y Tam bảo, họ có thể ngẩng cao đầu mà đi, vì họ không tin vào giai cấp
nữa. Họ không còn làm những nghề hạ tiện và dơ bẩn để phục vụ giai cấp trên nữa.
Họ trở thành tài xế taxi, viên chức nhà nước… Tôi đã gặp một nhân viên hải quan
ở sân bay New Delhi. Anh ta hỏi tôi có phải là tín đồ Phật giáo không, tôi trả
lời là phải. Anh ta liền cười vui vẻ nói anh ta cũng là một Phật tử.
Tất nhiên, không phải tất cả những người cùng
đinh khi cải đạo sang Phật giáo thì không còn nghèo nữa. Thật ra chỉ có một số
ít người có trình độ là thành đạt, đa số còn lại thì tình trạng không khác trước
đây mấy. Tuy nhiên, họ đã có một sự chuyển biến từ đức tin mù quáng sang chủ
nghĩa duy lý. Điều này đã tạo cho họ một khát vọng về giáo dục và cầu tiến, nhất
là trong giới thanh niên. Và đây chính là chìa khóa cho sự tiến bộ của họ về lâu
về dài.
Thật vậy, tỷ lệ biết chữ của những người cùng
đinh - Phật tử đang dần được cải thiện, từ 18,3% năm 1951 đến 56,2% năm 2001.
Báo Hindustan Times cuối năm 2016 (tôi không nhớ chính xác là tháng mấy)
có đăng bài báo về một người Phật tử giai cấp cùng đinh. Ông chỉ mới học lớp 7
và làm tạp vụ cho một ngôi trường. Ấy vậy mà ông lại là cha của 5 đứa con, 3 gái
và hai trai, đều là tiến sĩ, và đều thành đạt. Một người là viên chức chính phủ,
3 người là giáo sư và một người làm việc ở nước ngoài. Trên vách nhà ông có treo
bức hình của Tiến sĩ Ambedkar. Rõ ràng, “Những thay đổi tích cực trong những
người Phật tử đã đến từ niềm tin mới. Sự tiến bộ này là do nhân tố tôn giáo...
Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống xã hội, kinh tế và tâm lý của họ... Tóm
lại, Phật giáo có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao đời sống kinh tế và
tâm lý của Phật tử”.
Còn đối với vấn đề sinh hoạt tôn giáo của các
Phật tử mới này thì có lẽ được biểu hiện điển hình qua chương trình tu học của
Hội Tăng-già Phật giáo Tam giới ở Ấn Độ. Xin được giới thiệu sơ qua sau
đây:
Sinh thời, Tiến sĩ Ambedkar muốn xây dựng một mô
hình “Phật giáo mới” cho Phật tử Ấn Độ, trong đó mọi người đều bình đẳng tu tập
và hoằng pháp mà không phân biệt xuất gia hay tại gia. Bởi vì theo ông: “Tăng
đoàn mở rộng cho tất cả những ai quy kính hoàn toàn vào Phật-Pháp-Tăng, mà không
phân biệt là xuất gia hay tại gia”. Tuy ông chưa thể thực hiện được, nhưng ý
tưởng đó đã được những người tiếp bước ông thực hiện.
Một trong những người tiếp bước và phát triển sự
nghiệp của Ambedkar là Tỳ-kheo Sangharakshita. Được khơi nguồn cảm hứng từ ý
tưởng về Phật giáo mới của Ambedkar, Sangharakshita đã thành lập Hội Những
người bạn của Phật tử phương Tây (Friends of the Western Buddhist Order
(FWBO) ở Luân Đôn vào tháng 4 năm 1967. Mụch đích của Hội là ứng dụng những lời
dạy của Đức Phật vào trong cuộc sống đời thường cũng như liên hệ chúng đối với
văn hóa và triết học phương Tây hiện đại. Trong Hội này, sự phân biệt xuất gia
và tại gia không khắt khe lắm như Phật giáo truyền thống.
Trong khi ở Anh quốc, Sangharakshita luôn luôn
nhớ về những Phật tử và những người bạn ở Ấn Độ. Ông thấy rằng Phật giáo Ấn Độ
cần có một trung tâm tu học theo mô hình của FWBO. Vì vậy ông đã khuyết khích đệ
tử của mình là Dhammachari Lokamitra đến Ấn Độ để tìm cách thực hiện hoài bảo đó
của mình. Theo đó, Hội Tăng-già Phật giáo Tam giới (Trailokya Bauddha
MahaSangha Sahayaka Gana-TBMSG) được thành lập tháng 2/1977. Lý do để thành lập
Hội, Lokamitra trong cuộc phỏng vấn tháng 11/1988, đã cho biết, “Để đáp ứng
những nhu cầu về tinh thần và xã hội của các Phật tử mới ở Ấn Độ”. Hội cũng
liên kết với các tổ chức xã hội khác nhằm mụch đích phát triển Phật giáo Ấn Độ
mới (hay còn gọi là Phật giáo Ambedkar), kết hợp tu tập theo Chánh pháp và hoạt
động xã hội.
Hội TBMSG không phải là một tổ chức tu viện hay
Tăng đoàn Tỳ-kheo nhưng nó hoạt động như một Tăng đoàn thực thụ. Tất cả ba nhân
vật chính của TBMSG (Tiến sĩ Ambedkar, Sangharakshita và Lokamitra) mặc dù chưa
bao giờ đề xuất ý tưởng hủy bỏ Phật giáo tu viện, nhưng cũng không ủng hộ chủ
nghĩa tu viện. Dhammachari Lokamitra, mặc dù là tu sĩ nhưng ông không đắp y để
tiện việc phục vụ xã hội. Vì vậy, các thành viên của Hội, kết hôn hoặc độc thân,
thực hành Chánh pháp đúng quy định và đóng góp cho sự phát triển của Hội phù hợp
với hoàn cảnh của họ.
Các hoạt động chủ yếu của TMBGS tập trung vào ba
lĩnh vực, bao gồm cung cấp các khóa học và bài giảng, tổ chức các khóa tu định
kỳ, và tạo ra các cộng đồng dân cư tu học theo Phật pháp.
Liên quan đến lĩnh vực đầu tiên, TMBGS khuyến
khích các khóa học và các bài giảng tại các trung tâm công cộng khác nhau để
hướng dẫn giáo pháp cho các thành viên. Mục đích của các cuộc pháp đàm là hướng
dẫn những người mới quy y làm sao để trở thành một Phật tử đúng nghĩa, chứ không
chỉ đơn giản là quy y một cách hình thức. Theo đó, họ phải hiểu Phật pháp, tuân
giữ các giới luật, cũng như thực hành thiền thường xuyên. Các diễn giả của các
khóa học và bài giảng cũng tìm cách để áp dụng các lời dạy của Đức Phật,
Ambedkar và Sangharakshita vào cuộc sống hàng ngày để giải quyết các vấn đề cụ
thể của các thành viên như bạo lực gia đình, lạm dụng rượu, nghèo đói, giáo dục,
việc làm…
Đối với lĩnh vực thứ hai. Khi còn tại thế, Đức
Phật khuyên các Tỳ-kheo phải an cư trong ba tháng mùa mưa để thực hành Pháp một
cách nghiêm túc hơn. Các thành viên của TBMSG tiếp tục truyền thống tốt đẹp này
để có cơ hội trải nghiệm những kinh nghiệm tâm linh thâm sâu hơn. Do đó, hành
thiền là một trong những chương trình quan trọng. Những người mới đến được giới
thiệu các kỹ thuật thiền truyền thống của Phật giáo như tập trung hơi thở và tu
tập tâm từ.
Lĩnh vực thứ ba liên quan đến không gian để các
thành viên của Hội đến với nhau để thực hiện lý tưởng của cuộc sống theo Chánh
pháp và chia sẻ những kinh nghiệm của họ về pháp học và do đó phát triển tình
huynh đệ thiêng liêng. Đây thực sự là mô hình của một Tăng đoàn, nơi các cộng
đồng khác nhau đã sống cùng nhau trong sự hòa hợp.
Nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động của ba lĩnh vực
này, TBMSG đã thành lập các trung tâm an cư và các cơ sở công cộng như Trung tâm
an cư Saddhamma Pradeep tại Bhaja, thành phố Pune và Trung tâm an cư Huyền Trang
ở Bordharan, quận Wardha. Các thành viên của TBMSG tập trung về các cơ sở tôn
giáo gần nơi họ ở hàng tuần hoặc hàng ngày để ăn uống, thiền định, học tập và
chia sẻ với người khác kinh nghiệm về thực hành Pháp. Nó không chỉ làm phong phú
cuộc sống của các thành viên mà còn có ảnh hưởng tích cực đến xã hội, để chuyển
hóa xã hội.
Khi Ambedkar còn sống, ông đã nhấn mạnh rằng, sự
giải phóng con người bao gồm hai khía cạnh, là vật chất và tâm linh. Mà người ta
chỉ có thể đạt được sự giải phóng tâm linh khi nhu cầu vật chất ổn định. Có
thực mới vực được đạo. Để triển khai chủ trương đó của Ambedkar cũng như
theo lời dạy của Đức Phật, "làm việc vì lợi ích cho nhiều người", TBMSG thành
lập Tổ chức từ thiện Bahujan Hitay. Kế hoạch của Bahujan Hitay là
phát triển các trung tâm cộng đồng, các đội y tế toàn thời gian, ký túc xá, và
các trường học địa phương với mục đích chính là để phục vụ rộng rãi cho những
người nghèo của tầng lớp thấp của tất cả các tôn giáo. Đến năm 1992, Bahujan
Hitay đã thành lập bốn mươi hai trường mẫu giáo với 1.200 trẻ em, mười lăm
ký túc xá với 600 học sinh tiểu học và trung học. Các chương trình khác như các
lớp học di động phục vụ 280 học sinh, lớp học nữ phục vụ 190 học viên, lớp dạy
nghề phục vụ 125 sinh viên, chương trình chăm sóc sức khoẻ phục vụ 7.000 cư dân
nghèo tại các phòng khám tập trung và di động. Các công trình thư viện và chương
trình văn hóa cũng được khai triển ở nhiều địa phương.
Muốn biết về cuộc sống của những người Phật tử
Ấn Độ, có lẽ không gì hơn là nghe chính họ nói. Nhà văn, nhà đạo diễn Ấn Độ
Sumitra Bhave với những cuộc phỏng vấn những Phật tử ở Mumbai đã cho ta biết
phần nào về họ. Nữ
Phật
tử Rakhma bày tỏ niềm tin của cô với đạo Phật như sau:
“Bây
giờ chúng tôi đã là những Phật tử. Chúng tôi không còn thờ Thượng
đế
hay thần linh nữa, mà chỉ tham gia các nghi lễ của đạo Phật như lễ Phật đản, lễ
ngày sinh Ambedkar. Chúng tôi cũng làm bánh kẹo vào những ngày lễ Divali theo
truyền thống Ấn Độ, nhưng không có đến đền thờ để cúng bái và làm những việc
không có ý nghĩa như trước. Chúng tôi cũng bỏ các nghi thức của đạo Hindu trong
những lễ tang hay cưới gã. Một người anh trai của một cô dâu đã phản đối đằng
trai rằng nếu họ trét turmeric
lên cô dâu và chú rễ thì anh ta sẽ không dự lễ cưới. Trước đây mẹ tôi thờ thần,
bây giờ chúng tôi quăng hết các dụng cụ thờ cúng ấy xuống sông. Cuộc sống này đã
đủ mệt mỏi rồi, tại sao ta còn phải chăm sóc mấy ông thần kia nữa chứ?... Ai đã
chỉ con đường cho chúng ta, nếu không phải là Đức Phật và ngài Ambedkar khả kính
của chúng ta? Chỉ cần giữ cho tâm ý bạn thanh tịnh, không trộm cắp, không nói
dối và hãy giúp đỡ mọi người như dắt một người tàn tật hay người mù qua đường,
hay đỡ một đứa bé bị ngã, đó là Thượng đế
rồi chứ còn gì nữa”.
Còn Savitri thì nói rằng,
“Nhiều
người cứ mở miệng ra là nói “Chúa, Chúa”, thật là tội lỗi. Chúa hay không là do
tâm của mình. Chỉ cần mình làm việc và sống cho tốt, thì là tu rồi”.
Qua những lời bộc bạch trên ta thấy
rằng, những Phật tử Ấn Độ, tuy là mới quy y nhưng đã hiểu Phật pháp khá tốt,
biết được thế nào là chánh tín và mê tín. Họ cũng sáng tác những bài hát thể
hiện niềm vui khi trở thành đệ tử của Đức Phật. Những phụ nữ bình dân Ấn Độ,
trong tâm trạng háo hức chuẩn bị đi đến thành phố Nagpur để quy y Tam bảo theo
lời kêu gọi của Ambedkar, đã hát như sau:
Hàng ngàn người, đàn ông và đàn bà,
sẽ đến đó.
Hàng ngàn người, đàn ông và đàn bà,
sẽ đến đó.
Một cuộc hành hương vĩ đại vì Bhima
của chúng ta đang ở đó.
Một cuộc hành hương vĩ đại vì Bhima
của chúng ta đang ở đó.
Hãy nghe những điều tôi nói, nghe
tôi nói, hãy phụng sự Đức Phật của chúng ta.
Bạn ơi, chúng ta hãy đi đến đó năm
nay.
Chúng ta sẽ đi đến Nagpur năm nay
nhé!
Bạn mặc
sari
với đường viền màu vàng.
Và tôi sẽ chuẩn bị xe bò.
Chúng ta hãy thực hiện tâm nguyện
của Bhima (Ambedkar).
Chúng ta hãy hoàn thành tâm nguyện
của Bhima.
Không có ai là bà con ở đó.
Thậm chí chúng ta rất nghèo, nhưng
chúng ta sẽ san sẻ cùng nhau.
Bạn ơi, chúng ta sẽ đi đến đó năm
nay.
Chúng ta sẽ đi đến Nagpur năm nay.
Chúng ta sẽ đi đến Nagpur năm nay.
Và đây là cảnh họ đi chùa:
Chúng ta hãy đi chùa, này bạn ơi.
Đi chùa, đi chùa, đi chùa.
Hai đồng một lọn nhang, ba đồng một
cây nến.
Cột chúng vào sari. Chúng ta hãy đi
chùa.
Bạn mặc
sari trắng hay áo sơ mi trắng?
Bạn đã sẳn sàn để đi chưa?
Chúng ta hãy đi chùa.
Chúng ta đang đến gần vương quốc
của Bhim (Ambedkar).
Tôi chắc rằng Narayanrao cũng đang
chơi trống ở đó.
Chúng ta hãy đi chùa, đi chùa, đi
chùa.