Phong trào Phật giáo Theravāda ở Nepal
Phong trào Phật giáo Theravāda ở
Phong trào Phật giáo Theravāda ở Nepal
Tiến sĩ Keshab Man Shakya
- Đăng Nguyên dịch
Bối cảnh
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đản sinh ở Lumbini (Lâm-tỳ-ni), địa danh thuộc lãnh thổ
Nepal ngày nay. Lumbini tọa lạc về phía Tây nam Nepal, gần biên giới Ấn Độ. Vào
thế kỷ VI tr.TL, khi Đức Phật đản sinh, Lumbini tọa lạc ở biên giới giữa hai
nước cộng hòa Shakya và Koliya. Những di tích khảo cổ ở Kapilavastu và Devadaha,
kinh thành của hai nước cộng hòa này, vẫn còn rõ nét. Tháp Ramagama ở Nepal là
ngôi tháp duy nhất trong số tám ngôi tháp mà xá-lợi Phật được an trí trong đó
vẫn còn nguyên, trong khi hoàng đế Asoka (272-232 tr.TL) đã cho mở tất cả bảy
ngôi tháp kia để phân bổ xá-lới đến hàng ngàn ngôi tháp xây khắp Ấn Độ.
Vào thời Đức Phật Thích Ca, vua Vidudabha của vương triều Kosala ở phía Nam nước
cộng hòa Sakya đã xâm chiếm Kapilavastu và sát hại những người Shakya (Theo
Huyền Trang, con số là 10.000 người). Nhiều người Shakya đã trốn thoát đến thung
lũng Kathmandu. Vào thời đó, người dân bản địa của thung lũng Kathmandu là những
người chăn cừu. Những người Shakya đã du nhập vào việc trồng lúa và văn hóa
thành thị theo truyền thống Shakya. Khu định cư đầu tiên được đặt tên là
Koliyagrama mà nó có nghĩa rằng dân số Koliya có thể chiếm lĩnh cộng đồng định
cư. Mulasarvastivada (Căn bản thuyết Nhất thiết hữu bộ) miêu tả về tình
trạng sinh sống của những người Shakya ở thung lũng Kathmandu khi Tôn giả Ananda
viếng thăm nơi này trở về. Điều này cho thấy rằng Phật giáo đã có mặt ở
Kathmandu vào thời Đức Phật. Sự hiện diện của Phật giáo Theravāda ở đây được
chứng minh qua các tài liệu là mãi cho đến thế kỷ VIII TL. Bản viết tay cổ nhất
được tìm thấy ở Nepal là về một số giới luật bằng tiếng Pāli. Phật giáo Đại thừa
mà nó có mặt từ thế kỷ I TL đã tiếp tục với những biến thể và phát triển thành
Kim cương thừa của truyền thống Newar.
Những đồng bằng phía Nam của Nepal ngày nay là lãnh thổ của người Shakya, Koliya
và Videha (một trong những nước cộng hòa của người Vajji/Bạt-kỳ), ở đó Phật giáo
đã được truyền bá một cách tự nhiên vào thời Đức Phật. Rất khó ước đoán Phật
giáo Theravāda đã biến mất khỏi những vùng đất này vào thế kỷ nào. Khi Huyền
Trang viếng Lumbini vào thế kỷ VII, ông nhìn thấy cả Tăng sĩ Theravāda và Đại
thừa ở trong và quanh vùng Kapilavastu, Lumbini và Ramagana.
Chỉ vào thập niên 1920, chúng ta mới thấy xuất hiện trở lại những hoạt động của
Phật giáo Theravāda ở thung lũng Kathmandu. Kể từ đó cho đến nay, những người
theo Phật giáo Theravāda đã hoạt động theo cách thức của một phong trào hồi sinh,
duy trì và phát triển Phật giáo ở Nepal. Bài viết này sẽ miêu tả những sự kiện
quan trọng của phong trào này và trình bày tình trạng hiện tại và những triển
vọng tương lai. Bài viết cũng đưa ra sự phân tích về việc tại sao người Nepal
nhiệt tâm với truyền thống Theravāda trong tám thập kỷ qua.
Phật giáo Newar
Trước khi Phật giáo Theravāda hiện tại du nhập vào Nepal (xa xưa, thung lũng
Kathmandu được gọi là Nepal), những người Newar ở thung lũng này thực hành theo
Phật giáo Newar. Phật giáo Newar là một biến thể của Theravāda, Đại thừa và Kim
cương thừa. Hình thức Phật giáo này cũng chứa đựng những yếu tố của Mật giáo
Hindu. Phật giáo Newar đã duy trì việc thực hành trong số những cộng đồng người
Newar ở thung lũng Kathmandu trong nhiều thế kỷ và phát triển thành tông phái
của riêng mình mà nó truyền kiến thức và sự thực hành qua các thế hệ. Các tu sĩ
được gọi là Vajracharya, và những người quản lý tu viện thì hầu như là người
Shakya, còn những cộng đồng khác (nông dân, thợ thủ công, thương nhân…) là những
người tại gia. Hầu hết các tu viện là đất do hoàng gia và thương nhân hiến cúng.
Những người Newar thịnh vượng nhờ vào việc buôn bán với Tây Tạng, đất đai thung
lũng màu mỡ và các ngành thủ công nghiệp có tay nghề cao. Hầu hết mọi sự kiện
văn hóa ở thung lũng đều gắn liền với những nghi lễ Phật giáo Newar. Cộng đồng
Newar là xã hội tự trị và tự quản.
Những vị vua từ thế kỷ XIV trở về sau là những người Hindu. Jayasthiti Malla
(1382) đã sáp nhập hệ thống đẳng cấp vào những người Newar. Những tu sĩ độc thân
bị bắt hoàn tục, buộc kết hôn và theo một hệ thống đẳng cấp. Những người Newar
đã đổi mới Phật giáo Newar bằng việc pha trộn Phật giáo Theravāda, Đại thừa và
Kim cang thừa lại với nhau và khéo léo xen nhiều vị thần Hindu vào hệ thống các
thần và nữ thần của tín ngưỡng Đại thừa và Kim cương thừa. Những người truyền bá
Phật giáo Newar chính yếu là những người Vajracharya và Shakya. Những đặc điểm
chung của Phật giáo Newar là như sau:
1. Những chàng trai của đẳng cấp Vajracharya và Shakya thọ giới làm Sa-di
(Samanera) ở trong những tu viện tư gia và ở đó bốn ngày, giữ một vài giới đơn
giản như ăn chay và tránh tiếp xúc nữ nhân. Họ đến những người thân để khất thực
(pindapata) vào thời điểm thích hợp. Việc xuất gia này thiên về nghi thức
hơn là một sự hiểu nghiêm túc về ý nghĩa của việc xuất gia thực thụ. Nó trở
thành một nghi lễ của một đẳng cấp hơn là một việc theo đuổi đời sống tâm linh
thực sự.
2. Các cô gái trải qua lễ kết hôn giả khi còn nhỏ, và có 12 ngày tránh xa nam
giới khi đến tuổi dậy thì. Cả hai nghi lễ này dành chung cho cả cộng đồng Phật
giáo và Hindu.
3. Khi những chàng trai cũng như các cô gái khôn lớn và đến tuổi kết hôn, họ bắt
đầu một nghi lễ thiền định buổi sáng mỗi ngày. Một mantra sẽ được một vị tu sĩ
đọc thầm bên tai 108 lần ở trong một căn phòng thờ thần linh thiêng.
4. Sau khi kết hôn, cặp đôi trải qua quá trình huấn luyện sâu hơn về thiền và
việc tuân giữ các luật lệ. Những bức tranh Tantrik Phật giáo, mà nó hiện là
những món quà lưu niệm thường được những khách du lịch phương Tây mua, là những
tài liệu huấn luyện.
5. Những người đàn ông Vajracharya trải qua việc huấn luyện bổ sung về trách
nhiệm tu sĩ (Acha luyagu).
Những người Vajracharya và Shakya có vị trí tốt trong xã hội đẳng cấp bởi nhờ
việc được thụ phong. Shakya là những người quản lý tu viện giàu có. David
Gellner gọi những người Vajarachrya và Shakya là những tu sĩ tại gia Tantrik. Họ
sống trong các khu tu viện với đủ các vấn đề của đời sống gia đình. Tu viện
không có những tu sĩ độc thân. Ước tính rằng ba phần trăm dân số Nepal thực hành
theo Phật giáo Newar.
Phật giáo Lạt-ma (Lama)
Dân chúng ở những ngọn núi cao thuộc Himalaya theo truyền thống Phật giáo Tây
Tạng. Mỗi ngôi làng có một tu viện (gumba), và đó là một trung tâm tôn
giáo-văn hóa của cộng đồng. Hầu hết các Lạt-ma sống trong tu viện đều lập gia
đình. Một số tu viện có Lạt-ma độc thân. Họ thực hành Đại thừa và Kim cương
thừa. Những người Tamang và Gurung ở những ngôi làng giữa núi cũng thực hành
Phật giáo Lạt-ma với một vài pha trộn Sa-man giáo bản địa. Hiện nay, với sự phát
triển những tu viện Tây Tạng ở thung lũng Kathmandu và sự có mặt của Lạt-ma Tây
Tạng ở Nepal, Phật giáo Lạt-ma thuộc tất cả các giáo phái đang phát triển mạnh
mẽ với việc đào tạo các tu sĩ Lạt-ma trẻ. Tác giả bài viết này không nghiên cứu
nhiều về Phật giáo Lạt-ma để thảo luận chi tiết hơn trong bài viết này. Ước tính
có 10% dân số Nepal theo Phật giáo Lạt-ma.
Phật giáo Lạt-ma không bị sức ép chính trị như Phật giáo ở thung lũng Kathmandu.
Họ sống biệt lập và không bị quấy nhiễu bởi vì họ ở bên ngoài sự cai trị của
những vị vua Newar. Họ có mặt hầu hết ở những ngọn núi phía Bắc và có những giao
thoa văn hóa với Tây Tạng. Khu vực phía Tây của Nepal là vương quốc của những
người Khash tách biệt. Những người này cũng theo Phật giáo cho đến thế kỷ XV.
Phật giáo Lạt-ma và Phật giáo Newar có sự ảnh hưởng mạnh mẽ vào truyền thống của
họ. Một số tàn tích khảo cổ còn lại cung cấp chứng cứ về sự có mặt của Phật giáo
ở vùng đất này.
Đấu tranh cho việc du nhập Phật giáo Theravāda
Lịch sử du nhập Phật giáo Theravāda đầy những cam go. Vào năm 1769, những vị vua
Newar bị đánh đuổi bởi một vị cai trị mới của vương triều Shah, mà dòng dõi của
ông này đã tạo nên lãnh thổ Nepal ngày nay bằng việc chinh phục những người cai
trị của nhiều lãnh địa nhỏ. Vương triều này tuyên bố Nepal là một nhà nước Hindu
và dần dần đàn áp các Phật tử và tu viện của họ. Sau đó đế chế Rama nắm quyền
cai trị vào thời kỳ 1846-1950 và đàn áp các Phật tử khóc liệt hơn. Họ cô lập
người Nepal với các liên hệ bên ngoài. Dân chúng phải xin giấy phép thông hành
để ra vào thung lũng Kathmandu. Những vùng đất thuộc về các tu viện Newar bị
những gia đình cai trị cướp lấy để làm cung điện theo phong cách phương Tây. Có
hơn 20 cung điện như vậy vẫn còn hiện diện nơi những trụ sở nhà nước hay nơi cư
trú tư nhân của con cháu họ.
Những cộng đồng Phật tử ở thung lũng Kathmandu là những thương nhân đáng tin cậy
ở Tây Tạng. Họ cảm kích sự nhiệt huyết và sự cống hiến của những Lạt-ma Tây Tạng
trong việc giữ gìn và thực hành Phật giáo. Những thương nhân này có những cơ sở
(trung tâm hỗ trợ) ở Calcutta để mua hàng hóa Ấn Độ xuất sang Tây Tạng. Là những
Phật tử, họ tiếp xúc với Hội Mahabodhi, một hội truyền giáo do Anagarika
Dhammapala lãnh đạo. Vào năm 1921, một thanh niên Shakya có tên là Jagat Man
Vaidya đến Calcutta để nghiên cứu về thương mại theo một chương trình học bổng
của chính phủ Nepal. Ở đó anh gặp ngài Anagarika Dhammapala và cảm thấy buộc
phải kết nối với Dhammapala để truyền bá Phật giáo Theravāda ở Nepal. Anh đã đổi
tên thành Dharmaditya Dharmacharya, khoác một loại áo vàng, dóc sức học tiếng
Pāli và làm việc cùng với những Phật tử Newar. Năm 1923, anh đến Kathmandu và
thành lập Hội Nepal Buddhopasak Sangh (Hội Phật tử cư sĩ Nepal). Anh xuất bản
Bauddha Dharma, tạp chí đầu tiên bằng tiếng Nepal Bhasha (thổ ngữ của những
người Newar bản địa) vào năm 1925 để đánh dấu dịp lễ Vaishakh Purnima (Lễ
Vesak). Tạp chí này về sau được xuất bản với tên gọi là Buddha Dharma wa
Nepal Bhasha. Vào năm 1926, anh tổ chức lễ kỷ niệm ngày đản sinh, giác ngộ,
và nhập diệt của Đức Phật - lễ Vaishakh Purnima đầu tiên ở Nepal. Vào năm 1928,
anh tổ chức một hội nghị Phật giáo toàn Ấn Độ ở Calcutta, mà nó tập trung vào
tình trạng của các Phật tử ở Nepal. Do vì những hoạt động trong việc hồi sinh
Phật giáo ở Nepal, anh không thể dành thời gian cho chương trình đại học của
mình và đã trượt kỳ thi. Học bỏng của anh bị chính phủ chấm dứt. Anh trở lại
Nepal và kết hôn, sống đời sống của một cư sĩ. Môi trường thù địch ở Nepal đã
làm tiêu tan việc học hành của anh.
Vào năm 1925, tương tự với những sáng kiến của Dharmaditya Dharmacharya, một vị
thầy Tây Tạng có uy tín tên là Kyangtse Lama đã đến thung lũng Kathmandu trong
một cuộc hành hương khó nhọc bằng việc lễ lạy dọc theo con đường từ Tây Tạng đến
Swayambhu mà nó mất bốn năm rưỡi để đến Kathmandu. Ông bắt đầu giảng dạy Phật
giáo bằng tiếng Tây Tạng và một người Newar địa phương đã dịch sang tiếng Nepal
Bhasha. Việc giảng dạy của ông đã thu hút đông đảo Phật tử Newar. Những người
Vajracharya cảm thấy không vui với điều đang xảy ra này khi những tín đồ truyền
thống của họ bị cuốn vào trong những đám đông được quy tụ bởi một tu sĩ đến từ
nước ngoài. Họ đã đệ đơn lên văn phòng của Thủ tưởng Rana cáo buộc rằng những
người Udaya (đẳng cấp thương nhân Phật giáo) ăn thức ăn dâng cúng từ một Bhote
(từ ngữ mang ý ám chỉ những người Tây Tạng), và như vậy hủy hoại quy định đẳng
cấp về việc cấm ăn thức ăn từ những đẳng cấp khác. Sau đó, những tu sĩ
Vajracharya quyết định không nhận cơm của những người Udaya. Điều này gây nên
một sự xung đột lớn giữa những người Vajracharya và Udaya. Một số Udaya mà họ
cầu khẩn sự tha thứ cho sai lầm của họ đã được chấp nhận trở lại. Có một số
người tham gia sự kiện này vì nó mang lại sự thay đổi trong xã hội. Để giải
thoát khỏi sự chuyên chế của những người Vajracharya, những người Udaya này phải
tìm kiếm con đường thay thế để giữ vững niềm tin của họ vào Phật giáo. Về sau,
Phật giáo Theravāda trở thành lối thoát phù hợp cho những người theo chủ nghĩa
cách tân.
Tiếp bước những hoạt động phôi thai này, có năm thanh niên Newar với nhiệt tâm
cao đã cống hiến cuộc đời để bắt đầu một phong trào phục hưng Phật giáo. Tên của
năm người là Nani Kaji Shrestha, Kanchha Shakya, Dalchini Manadhar, Bekha Raj
Shakya và Gyan Shakya. Trong đó Nani Kaji Shrestha là người lãnh đạo, còn Gyan
Shakya đã thọ giới với một vị Lạt-ma Tây Tạng tên là Tsering Norbu. Nanai Kaji
Shrestha trước đó đã thụ phong như một tu sĩ Mahapragya thuộc về một gia đình
Hindu và luật của quốc gia không cho phép cải đạo hoặc bỏ đạo. Vào năm 1926,
những người Vajracharya ở Kathmandu mà họ đang nỗ lực khẳng định hệ thống phân
chia đẳng cấp của họ đối với những người Udaya đã than phiền với chính phủ về sự
việc rằng tu sĩ Mahapragya, một vị Hindu từ gia đình Shrestha đã cải đạo sang
Phật giáo. Do đó tu sĩ Mahapragya và bốn tu sĩ khác đi cùng với Tsering Norbu bị
trục xuất ra khỏi Nepal. Tu sĩ Mahapragya đi đến Tây Tạng và dạy Phật pháp ở đó,
nơi ông gặp Kul Man Singh Tuladhar, người truyền giới cho ông với tên gọi
Karmashila.
Về sau, Mahapragya và Karmashila rời Tây Tạng và đến Ấn Độ, ở đó họ thọ giới lại
theo Phật giáo Theravāda và là những Tăng sĩ Theravāda đầu tiên ở Kushinagara
dưới sự giảng dạy của Hòa thượng U Chandramani, một Tăng sĩ Miến Điện đang sống
ở Kushinaga vào năm 1928.
Thầy Pragyananda đi khất thực trên những đường phố Kathamandu lần đầu tiên vào
năm 1930. Ông ở tại tịnh xá Kindol theo lời mời của Das Ratna Shahu (về sau là
Thượng tọa Dharmaloka) và thuyết giảng ở đó. Thính chúng tham dự những buổi
giảng của ông ngày một tăng và điều này khiến chính quyền Rana lo ngại, và vì
vậy cho bắt giữ tất cả những thành viên của tịnh xá. Họ bị cầm tù, bị phạt và
sau đó được thả. May mắn, thầy Pragnananda (hay Karmashila) ở nơi khác và không
bị bắt. Ông tiếp tục hành hương đến Ấn Độ với một số tín đồ. Bốn đệ tử của ông
đã thọ giới dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng U Chandramani tại Kushinagara. Họ
là Samanera Shasana Jyoti, Anagarika Ratna Pali, Anagarika Dhamma Pali và
Anagarika Sangha Pali. Đây là lễ thọ giới cho Ni đầu tiên trong Phật giáo
Theravāda ở Nepal hiện đại. Điều này làm tăng thêm sự nhiệt huyết cho việc hồi
sinh Phật giáo Theravāda. Nhiều thanh niên Nepal đã xuất gia thọ giới ở
Kushinagara. Những Tăng sĩ Theravāda danh tiếng khác là Shakyananda, Dhammaloka,
Amritananda, Anurudra, Subodhananda, và Buddhaghosha.
Vào năm 1925, Das Ratna Shahu, một thương nhân, cùng với con trai của mình trở
về từ Tây Tạng sau khi vợ ông qua đời. Ông ở tại tịnh xá Kindol và dành thời
gian cho việc giảng dạy Phật giáo Tây Tạng. Sau đó con trai ông đến Sri Lanka và
xuất gia thọ giới theo Phật giáo Theravāda. Das Ratna đã đến Sri Lanka để thăm
con trai mình. Ông cũng xuất gia thọ giới Sa-di ở Sri Lanka và có tên là
Dhammaloka; và sau khi quay trở về Kathmandu, ông bắt đầu giảng dạy Phật giáo
Theravāda ở tịnh xá Kindol. Vào năm 1931, một trong những người theo ông, một
người Taladhar cùng đẳng cấp với ông, đã trình báo với chính quyền Rana rằng Das
Ratna đang truyền bá tôn giáo chống thần linh trong những người Taladhar. 17
người Tuladhar cùng với Dhammaloka bị phạt và bỏ tù.
Trong số họ, có những người đáng chú ý là Dhamma Sahu, Yogbir Singh Kansakar và
Chittadhar Hridaya. Ngay sau khi ra tù, Das Ratna Shahu thọ Cụ túc giới theo
truyền thống Theravāda tại Kushinagara với Hòa thượng U Chandramani vào năm
1935. Sau đó ông trở về thăm Nepal trong tư cách một tu sĩ nhưng bị bắt ngay lập
tức trên đường đến Kathmandu và bị giam sáu ngày, sau đó được phóng thích mà
không bị kết bất kỳ tội danh gì. Khi được thả, ông đến cư trú tại tịnh xá Kindol
và tiếp tục những hoạt động tôn giáo của mình. Cuối cùng, ông có thể thực hiện
những hoạt động tôn giáo một cách tự do ở Nepal. Ông đã thành công trong việc
truyền bá Phật giáo Theravāda ở thung lũng Kathmandu. Về sau, ông thành lập chùa
Anandakuti, ngôi chùa Theravāda đầu tiên ở Nepal, tại chân ngọn đồi Swayambhu và
nó trở thành trung tâm của Tăng-già Theravāda ở Nepal hiện đại.
Hòa thượng Amritananda là một học giả Phật giáo nổi tiếng khác và là người tiên
phong trong việc phục hưng Phật giáo Theravāda ở Nepal hiện đại. Ông thọ giới
với Hòa thượng Chandramani tại Kushinagara vào năm 1936 nhưng bị bắt giam cùng
với Hòa thượng Mahapragya tại Bhojpur vào năm 1937. Vào năm 1942, ông từ nước
ngoài trở về Nepal sau khi hoàn thành việc học và thuyết giảng theo thỉnh cầu
của Hòa thượng Dhammaloka ở Swayambhu vào những tháng an cư mùa mưa. Những bài
thuyết giảng của ông tác động mạnh mẽ vào người tại gia và có nhiều người đến
nghe ông. Những Tăng Ni khác của Nepal đang học ở nước ngoài cũng đã trở về cùng
với ông thuyết giảng ở những nơi khác nhau ở thung lũng Kathmandu. Đây là một
bước đột phá lớn trong chính phủ cô lập Rana. Chính phủ Rana vào thời bấy giờ
cấm bất kỳ sự tụ tập công cộng nào bởi vì sợ bất ổn chính trị và đòi hỏi cải
cách chính trị ở Nepal.
Bởi vì những hoạt động tôn giáo này, họ bị bắt giam vào ngày 30 tháng 7 năm 1944
và được đưa đến trước Thủ tướng Juddha Shamsher Jung Bahadur Rana để nghe phán
quyết về tội truyền bá Phật pháp. Vị thủ tướng đưa ra những luật lệ nhằm tước đi
những hoạt động của giới Phật giáo. Những người không theo những luật lệ này thì
được yêu cầu hoặc rời khỏi đất nước, hoặc phải hoàn tục. Tất cả những vị Tăng
đáng kính, mà họ tích cực trong việc làm hồi sinh Phật giáo Theravāda ở Nepal,
đều từ chối tuân theo mệnh lệnh và một lần nữa bị trục xuất khỏi Nepal. Những
Tăng sĩ bị trục xuất vào thời điểm này bao gồm Pragnananda, Dhammaloka,
Subhodhananda, Pragnarashmi, Samanera Pragnarasa, Samanera Ratnajyoti, Samanera
Agga Dhamma và Samanera Kumara. Những vị Ni thì được phép ở lại trong tịnh xá
cho đến hết kỳ an cư.
Thành lập Tăng đoàn Theravāda
Phong trào chính trị chống lại chế độ Rana đã lên đến đỉnh điểm vào năm 1940.
Vào năm 1941, bốn lãnh đạo chính trị bị kết án tử hình bằng việc treo cổ và bắn
trước công chúng. Những Tăng sĩ Theravāda bị nhìn với sự ngờ vực khi họ thuyết
giảng ở những nơi công cộng. Bấy giờ, những Tăng sĩ bị trục xuất đã thành lập
Hội Dharmodaya Sabha - tổ chức Phật giáo đầu tiên ở Nepal - với sự trợ giúp của
những tổ chức và cá nhân Phật giáo khác vào ngày 30 tháng 11 năm 1944 ở Ấn Độ
dưới sự chủ trì của Hòa thượng U Chandramani. Hòa thượng Amritananda là tổng thư
ký của tổ chức này. Ngay sau khi thành lập Dharmodaya Sabha, Hòa thượng
Amritananda đã viết một lá thư phản đối chính phủ Nepal và cũng kêu gọi những tổ
chức Phật giáo khác hỗ trợ Dharmodaya Sabha. Ông viếng thăm nhiều nơi và nhiều
quốc gia khác nhau để tìm hỗ trợ chống lại việc trục xuất các Tăng sĩ Phật giáo
khỏi Nepal hiện đại. Một trong những quốc gia mà ông viếng thăm và học hỏi được
nhiều là Sri Lanka.
Ở Sri Lanka, ông cũng thành công trong việc mang một phái đoàn thiện chí đến
Nepal vào năm 1946 dưới sự lãnh đạo của học giả nổi tiếng Hòa thượng Narada
Mahasthavira. Những thành viên của phái đoàn này bao gồm HT.Narada,
HT.Amritananda, HT.Priyadarshi, Tiến sĩ Ratna Surya và Giáo sư Aryapal. Họ đã
gặp thủ tướng mới được bổ nhiệm bấy giờ là Padma Shumsher J. Rana.
HT.Amritananda, và lãnh đạo phái đoàn là HT.Narada, đã thỉnh cầu vị thủ tướng
cho phép những Tăng sĩ lưu vong được trở về Nepal. Thủ tưởng Padma Shamsher chấp
nhận lời thỉnh cầu của họ và cho phép những Tăng sĩ bị trục xuất trở về lại bổn
quốc. HT.Dhammloka là người đầu tiên trở lại Nepal ngay sau khi nhận được một lá
thư từ HT.Amritananda và đến Kathmandu vào tháng 6 năm 1946. Những Tăng sĩ khác
cũng lần lượt quay trở về và bắt đầu truyền bá lại Phật giáo Theravāda ở Nepal
hiện đại. HT.Narada viếng thăm Nepal ba lần và xây dựng một điện thờ (cetiya)
của Sri Lanka tại tịnh xá Anandakuti. Ông mang một nhánh cây bồ-đề và xá-lợi
Phật đến Nepal. Ông cũng thành lập lễ bố-tát đầu tiên tại Nepal cho những
Tỳ-kheo tại tịnh xá. Vào lần viếng thăm thứ ba, ông gặp Thủ tướng Mohana
Shamasher J. Rana và thỉnh cầu vị này công nhận ngày lễ Vesakh là ngày nghỉ lễ
chung. Vị thủ tướng đồng ý và tuyên bố đây là một ngày nghỉ lễ dành cho những
viên chức Phật giáo. Từ đó, Phật giáo Theravāda bắt đầu có chỗ đứng trong xã hội
Nepal và từng bước phát triển.
Vào năm 1951, phong trào chính trị đã loại bỏ chế độ Rama và bắt đầu một chế độ
dân chủ dưới một nền quân chủ. Hội Dharmodaya Sabha đã củng cố các mục tiêu của
mình như được cho thấy nơi chuyên san của nó vào năm 1951 như sau:
1. Mở trường học Phật giáo khắp Nepal;
2. Xây một tịnh xá tại một thành phố hay một ngôi làng nơi đa số là Phật tử, và
có một hoặc hai vị Tăng sống ở đó để hướng dẫn tôn giáo và những dịch vụ y tế
miễn phí;
3. Xuất bản những bản dịch kinh cũng như những sách vở khác về Phật giáo sang
tiếng Nepal và tiếng Newari (tiếng Nepal Bhasha);
4. Giáo dục người Nepal về truyền bá Phật giáo;
5. Xuất bản hai chuyên san, một bằng tiếng Anh và một bằng tiếng Nepal;
6. Thuyết phục chính quyền Nepal thực hiện những bước cần thiết để bảo tồn những
di tích Phật giáo cổ xưa (Lumbini, Kapilavastu);
7. Khuyến khích Phật tử từ những quốc gia khác viếng thăm Nepal và tạo điều kiện
thuận lợi cho các học giả Phật giáo;
8. Bảo vệ tín đồ trước chiến dịch cải đạo của các tổ chức tôn giáo khác.
Phổ biến Phật giáo Theravāda
Nhiều sự kiện đã xảy ra và những hoạt động được tiếp tục mà chúng góp phần phổ
biến Phật giáo Theravāda. Vào năm 1951, xá-lợi của hai Tôn giả Xá-lợi-phất và
Mục-kiền-liên được mang đến Nepal. Sự kiện gây chú ý với một đám rước công cộng
lớn ở Kathmandu. Những xá-lợi này được tôn trí trong hoàng cung của vua
Tribhuvan. Sự kiện này cho người dân Nepal thấy rằng từ nay trở đi Phật giáo
được kính trọng ở Nepal. Vào năm 1952, vua và hoàng thái tử Mahendra đã tham dự
lễ Vesak ở tịnh xá Ananda Kuti, bày tỏ tình đoàn kết với Phật tử Nepal. Vào năm
1953, vua Tribhuvan đã mời HT.Amritananda và Tăng chúng vào hoàng cung để tụng
các kinh bảo hộ (mahaparitta/đại minh hộ kinh). Những sự kiện này đã hợp pháp
hóa việc phổ biến Phật giáo Theravāda ở Nepal. Từ đó, việc tổ chức lễ Vesak đã
trở thành sự kiện thường niên mà nó được xem như ngày nghỉ lễ chung và có nhiều
cuộc diễu hành lớn diễn ra ở nhiều thành phố ở Nepal. Sự kiện này không chỉ phổ
biến trong giới Phật tử, mà những người Hindu cũng tham gia để thể hiện tình
đoàn kết của họ. Đại lễ này được thông tin rộng rãi trên những phương tiện
truyền thông như một cách thể hiện sự bao dung tôn giáo giữa Phật tử và Hindu.
Vào năm 1956, năm đánh dấu 2.500 năm Đức Phật Niết-bàn, Nepal đăng cai tổ chức
Hội nghị Liên hữu Phật giáo Thế giới (World Fellowship of Buddhist Conference)
lần thứ tư. Đây cũng là hội nghị quốc tế đầu tiên được tổ chức ở Nepal sau khi
chế độ Rana bị bãi bỏ và bắt đầu chế độ quân chủ tự do vào năm 1951. Sự kiện này
là một cơ hội cho Nepal thiết lập những quan hệ quốc tế bằng việc mời những đại
biểu quốc tế tham dự hội nghị.
Tất cả những sự kiện này đã làm tăng vị thế của giới Phật tử Nepal. Mặc dù những
năm sau dưới chế độ của vua Mahendra, các Phật tử không được quan tâm khi Phật
giáo không được đối xử công bằng như Ấn giáo, Phật giáo Theravāda vẫn được
truyền bá. Những cư sĩ Phật tử bắt đầu hiến cúng đất đai để xây dựng tịnh xá bên
trong và ngoài thung lũng Kathmandu và mời chư Tăng đến ở. Ngay vào năm 1944,
thời điểm chư Tăng phải sống lưu vong, chư Ni đã đến Trishuli và Pokhara và
thành lập các tịnh xá làm nơi cư trú, và chúng về sau trở thành những tịnh xá
Theravāda. Chỉ một năm trước, HT.Pragnananda đã cho di dời tịnh xá Sumangala vào
Lalitpur. HT.Pragnananda cũng dành nhiều thời gian ở ngôi làng được gọi là
Balambu cùng với những nông dân Newar, mà nó trở thành một trung tâm quan trọng
của Tăng đoàn. Về sau, các tịnh xá được thành lập ở Butwal và Tansen thuộc Đông
Nepal, và ở Bhojpur và Chainpur thuộc Tây Nepal. Vào năm 2008, số tịnh xá
Theravāda ở Nepal lên tới 102 ngôi.
Những Tăng sĩ Theravāda và những học giả Phật giáo đã xuất bản những quyển sách
và các chuyên san làm phương tiện truyền bá giáo pháp rộng hơn. Vào năm 1979, số
lượng sách về Phật giáo (hầu hết là Theravāda) được xuất bản chỉ riêng bằng
tiếng Nepal Bhasha đã lên đến 285 cuốn, trong đó 159 tác phẩm của Tăng và 22 tác
phẩm của Ni. Việc xuất bản những cuốn sách và chuyên san trở thành một hoạt động
thường xuyên đối với nhiều tịnh xá. Ví dụ, Dharmakirti, một tịnh xá dành cho Ni
đã xuất bản hơn 160 cuốn sách trong 35 năm (1972-2007). Ananda Bhumi và
Dharmkirti là hai chuyên san nổi tiếng nhất của Phật giáo Theravāda được xuất
bản đều đặn từ năm 1972…
Hoạt động của Phật giáo Theravāda
Vào năm 1982, một nhóm thanh niên Phật tử ở thành phố Kathmandu đã thành lập Hội
Yuva Baudha Samuha (Hội Thanh niên Phật tử) để tiến hành chiến dịch ủng hộ Phật
giáo Theravāda. Ban đầu, họ thực hiện những chương trình thuyết pháp công cộng
với sự đảm trách của những vị cao Tăng và những học giả Phật giáo. Về sau họ tổ
chức những chiến dịch phổ biến Ngũ giới (Pancha Sila) trong những ngôi làng làm
nông quanh thung lũng Kathmandu. Chiến dịch này giúp những cộng đồng Phật giáo
Newar tổ chức, thành lập và củng cố những trung tâm Phật giáo nhỏ quanh một ngôi
tịnh xá nhỏ.
Vào cuối thập niên 1980, Hội Yuva Baudha Samuha đã có những giao lưu với những
học giả và những nhà hoạt động từ những cộng đồng thiểu số chẳng hạn như Tamang,
Gurung, Magar và Tharu. Người Tamang và Gurung là những Phật tử sống ở miền núi.
Họ có truyền thống Gumba và Lama của riêng mình. Gặp gỡ những nhà hoạt động và
những học giả từ những cộng đồng này đã giúp xây dựng tình đoàn kết cho một
phong trào Phật giáo. Những người Magar và Tharu không phải là những Phật tử.
Gặp gỡ những học giả và những nhà hoạt động từ cộng đồng của họ là điều khá bất
ngờ khi biết rằng họ đang chấp nhận Phật giáo như là tôn giáo của cộng đồng của
họ, như một cách chuyển đổi xã hội của họ ra khỏi sự xâm lấn và lạc hậu của
Hindu giáo.
Vào năm 1990, phong trào chính trị chống lại chế độ quân chủ đã thành công và
nhà vua chấp nhận đất nước được cai trị bởi chế độ dân chủ đa đảng và quân chủ
lập hiến. Hội Yuva Baudha Samuha đã tích cực khởi động một chiến dịch tuyên bố
Nepal là một quốc gia thế tục trong hiến pháp mới. Tổ chức Dharmodaya Sabha đảm
trách vai trò lãnh đạo chiến dịch bằng việc hình thành một ủy ban chiến dịch bao
gồm hơn 100 tổ chức Phật tử cũng như những cộng động thiểu số bản địa, những
cộng đồng Dalit và những người Thiên Chúa giáo. Chiến dịch không thành công
trong việc biến Nepal thành một nhà nước thế tục theo hiến pháp mới được viết
vào năm 1991. Nhưng chiến dịch đã đưa những nhà hoạt động Phật giáo và những
cộng đồng thiểu số bản địa xích lại gần nhau và đã tiến hành chiến dịch chung
trong việc thu thập dữ liệu điều tra dân số với một nỗ lực cho thấy sự gia tăng
dân số Phật giáo.
Điều tra dân số vào năm 1981 cho thấy dân số Phật giáo chỉ chiếm 5% trong tổng
dân số Nepal. Vào năm 1991, những nhà hoạt động Phật giáo đã tiến hành một chiến
dịch vận động về hiến pháp mới của Nepal, nhằm tuyên bố nước này là một quốc gia
thế tục chứ không phải là một vương quốc Hindu. Kết quả, sự tỉnh thức trong
những cộng đồng Phật tử đã đưa đến sự gia tăng dân số Phật giáo trong cuộc điều
tra dân số vào năm 1991 lên 7.5%. Những tổ chức Phật giáo đã tổ chức một chiến
dịch khác mà nó có tác động đến cuộc điều tra dân số năm 2001, và kết quả là
những người tuyên bố là Phật tử tăng lên 10.5%. Khuynh hướng gia tăng dân số
Phật giáo trong các cuộc điều tra dân số là một điều đáng khích lệ cho những nhà
hoạt động Phật giáo.
Vào thập niên 1990, Hội Yuva Baudha Samuha tập trung những hoạt động của nó vào
việc tổ chức những chiến dịch nâng cao sự hiểu biết về Phật giáo trong số những
cộng đồng thiểu số bản địa. Ban đầu, những trại huấn luyện được tiến hành ở các
tịnh xá trong và quanh Kathmandu. Sau đó, nhu cầu cho những trại như vậy được
tiến hành ở những quận khác đã đưa đến việc phác thảo kế hoạch những khóa đào
tạo phù hợp với các cộng đồng ít học. Các trại ở những cộng đồng Tharu và Magar
hầu như mang lại sự thay đổi lớn. Một số tịnh xá nhỏ bắt đầu được xây dựng bởi
những cộng đồng đó nơi những quận khác nhau ở Nepal, từ những đồng bằng phía Tây
đến những vùng đồi núi của Nepal. Điều này tạo nên một sự thay đổi trong việc cơ
cấu thu nhận người xuất gia trong thời gian tới. Điều tra dân số năm 2001 cho
thấy dân số Phật giáo tăng thêm 2,5% do 400.000 người Magar tuyên bố là Phật tử.
Gần đây, hội nghị quốc gia của Hội Phúc lợi Tharu, tổ chức quốc gia của cộng
đồng Tharu (chiếm 6,5% dân số Nepal), tuyên bố rằng Phật giáo là tôn giáo của
người Tharu.
Sau năm 1990, Dharmodaya Sabha được tổ chức trở thành phong trào của dân chúng
và nó giữ vai trò lãnh đạo trong chiến dịch vận động thế tục hóa Nepal. Nó có
những thành viên mới từ nhiều sắc tộc và những vùng địa lý. Hội nghị Phật giáo
toàn quốc tổ chức hai năm một lần ở những vùng khác nhau ở Nepal trở thành quan
trọng để giải quyết các vấn đề đương đại của Phật giáo ở Nepal và xây dựng tình
đoàn kết trong giới Phật tử từ cả ba truyền thống - Theravāda, Đại thừa và Kim
cang thừa. Hội nghị này được nhà nước công nhận như là sự thể hiện đỉnh cao của
Phật tử Nepal.
Nhập thế
Trong quá khứ, Phật giáo Newar cũng như Phật giáo Lama đã tham gia sâu rộng và
có tổ chức vào những vấn đề xã hội, chính trị và kinh tế. Những tu viện (gumba)
của Phật giáo Lama ở trên những ngọn núi đáp ứng như những trụ sở chính quyền
địa phương. Tương tự, những người Newar Baha đóng vai trò quan trọng trong những
chức năng xã hội-chính trị và kinh tế. Với việc quốc gia hiện đại và tập trung
hóa, nhà nước đã tước bỏ chức năng truyền thống nêu trên. Trước đó, chế độ
chuyên chế Rama và Shah đã đàn áp những tổ chức Phật giáo trong việc thực hiện
các chức năng này. Thời gian đã thay đổi từ năm 1990 với sự ra đời của chính
quyền dân chủ. Với cuộc cách mạng gần đây mà nó đã loại bỏ chế độ quân chủ, nhà
nước và xã hội trở nên cởi mở hơn. Với việc Nepal được tuyên bố là một nhà nước
thế tục, các Phật tử có thêm nhiều không gian để đóng góp cho những cải cách xã
hội, thực hiện vài trò chính trị trong việc xây dựng quốc gia và thúc đẩy kinh
tế.
Một số tu viện Theravāda đã huy động những Tăng sĩ trẻ tham gia vào những những
công việc xã hội ở các lĩnh vực như giáo dục, y tế và xóa đói nghèo. Lumbini
không chỉ là một trung tâm quốc tế cho việc thực hành Phật giáo mà nó còn đưa ra
những sáng kiến trong việc cung cấp dịch vụ ở những lĩnh vực này. Linh Sơn, ngôi
chùa do người Việt sống ở Pháp điều hành, đã xây một ngôi nhà trẻ được trang bị
tốt bên ngoài khu vực Lumbini để giúp đỡ trẻ em từ những gia đình nghèo khó.
Tịnh xá của Thái Lan ở Lumbini đang hỗ trợ xây dựng một bệnh viện phụ sản ở
Lumbini bên cạnh việc cung cấp một số dịch vụ y tế cơ bản ở những ngôi làng
quanh Lumbini. Nhiều nhóm thanh niên đã tích cực tham gia những công việc xã hội
theo hướng dẫn của Ni viện Theravāda ở Lumbini. Trong tương lai, việc dấn thân
xã hội của những tổ chức Phật giáo Theravāda sẽ gia tăng…
Duy trì Phật giáo Theravāda
Có ba điểm cần được tăng cường để duy trì Phật giáo Theravāda ở Nepal. Đó là các
lớp học Pariyatti, những trung tâm thiền và những tịnh xá như những trung tâm xã
hội. Những lớp học Pariyatti và trung tâm thiền đang ở giai đoạn phát triển
trong khi những trung tâm xã hội ở trong các tịnh xá đang ở giai đoạn bắt đầu.
Vào năm 1964, HT.Buddhaghosha với sự giúp đỡ của một số trường đại học đã thành
lập Hội Bauddha Pariyatti Shiksa, tổ chức chính thức của Phật giáo Theravāda ở
Nepal dành cho cư sĩ. Vào năm 1967, với sự chấp thuận của Tổng hội Nepal Bhikkhu
Mahasangha, các bài học và sách giáo khoa đã được chuẩn hóa và các lớp học vào
thứ Bảy hay buổi tối được mở ở Kathmandu, Lalitpur và Bhaktapur bên trong thung
lũng Kathmandu. Hiện nay có hơn 50 trung tâm thi tuyển khắp Nepal. Năm rồi, có
hơn 1.500 học sinh tham dự kỳ thi. Những học sinh thi đỗ lớp bảy thì được trao
danh hiệu “Pariyattti Saddhamma Palaka” và những em thi đổ lớp mười được trao
danh hiệu “Pariyatti Saddhamma Kovida”. Đến thời điểm này, có 260 học sinh đã
hoàn thành lớp bảy và 51 học sinh hoàn tất lớp mười. Những người theo học những
lớp học Pariyatti đã thể hiện sự cống hiến mạnh mẽ và bền vững cho Phật giáo
Theravāda.
Nguồn khác trong việc tạo nên những Phật tử Theravāda tận tâm và vững chãi là
những trung tâm thiền Vipassana. Có hai loại trung tâm thiền Vipassana ở Nepal
dấn thân tích cực. Cả hai hình thức này đều có nguồn gốc từ Miến Điện. Một được
thành lập bởi Goenka vào năm 1981, với một khóa tu thiền chuyên sâu trong mười
ngày. Khóa tu đầu tiên được tổ chức tại tịnh xá Anandakuti, một trung tâm được
thành lập tại Buddhanilakantha ở sườn đối phía Bắc thung lũng Kathmandu. Trung
tâm này có thể tiếp nhận 300 thiền giả một lần. Có bảy trung tâm như vậy ở những
thành phố khác ở Nepal, bao gồm trung tâm ở Lumbini. Hiện có khoảng 5.000 người
tham gia hành thiền tại những trung tâm này mỗi năm. Vào năm 1985, một trung tâm
thiền khác (Trung tâm thiền Phật giáo quốc tế, International Buddhist Meditation
Centre) ở Kathmandu mà nó thực hành theo phương pháp của Mahasi Sayadaw được
thành lập. Cũng có một chi nhánh theo pháp thiền này được thành lập ở Lumbini.
Những thiền giả của những trung tâm này đến từ mọi đẳng cấp, sắc tộc, quốc tịch
và tôn giáo. Một số trong họ là những trí thức, những quan chức cao cấp và những
chính trị gia. Những khóa thiền này mang lại sự tín nhiệm cao cho Phật giáo
Theravāda ở xã hội Nepal. Phật giáo đã trở thành một niềm tin cũng như sự thực
hành chung.
Vào giữa cuối thập niên 1960, HT.Sumagangala thành lập một tổ chức có tên là
Buddha Shasana Seva Samiti ở tịnh xá Gana Maha với mục đích cung cấp dịch vụ
giáo dục và y tế. Tịnh xá mở một thư viện Phật giáo, những lớp học Pariyatti,
những khóa học tiếng Nhật và tiếng Anh, phòng khám sức khỏe cơ bản và một trường
mẫu giáo. Về sau ông xây một phòng khám sức khỏe chuyên sâu hơn ở tịnh xá
Balambu, trường tiểu học Siddhartha ở tịnh xá Buddha, Trung tâm Thiền Phật giáo
Quốc tế ở Shankhamul, và nhà dưỡng lão ở Banepa. Đây là một khái niệm hiện đại
về một ngôi tịnh xá Theravāda ở Nepal. Hiện tại, có một số Tăng sĩ trẻ đang thực
hiện những hoạt động tương tự ở những tịnh xá mà họ cư ngụ. Những Tăng sĩ trẻ
quay trở về từ Sri Lanka, Thái Lan và Miến Điện cho thấy thích hợp tham gia vào
những hoạt động xã hội như vậy. Những hoạt động này khiến họ được cộng đồng quý
trọng và họ có thể tiếp cận những cộng đồng lớn hơn và giúp đỡ những người nghèo
và khó khăn. Một số Tăng sĩ cũng làm nhiệm vụ tư vấn cho các tù nhân. Một số tổ
chức được điều hành bởi những vị Tăng trẻ là Dhamma Vijaya Padman, Charumati
Buddhist Mission, và Buddhist Peace Centre.
Tiêu điểm tương lai
Bên cạnh những hoạt động đang diễn ra, có ba lĩnh vực mà những người sáng lập
Tăng đoàn Theravāda ở Nepal cần chú ý đến: làm vững mạnh các tổ chức Phật giáo
Theravāda ở Lumbini, chính thức hóa chương trình giảng dạy Phật giáo Theravāda ở
Đại học Phật giáo Lumbini (Lumbini Buddhist University), và thành lập Vụ Phật
giáo (Buddhist Affairs) trong Chính phủ.
Lumbini là nơi Đức Phật đản sinh. Chính phủ Nepal đã hỗ trợ phát triển địa danh
này thông qua sự trợ giúp của Liên Hiệp Quốc. Nơi này được hoạch định như một
trung tâm quốc tế dành cho Phật tử khắp nơi trên thế giới. Có nhiều chùa viện
được xây dựng bên trong khư vực này. Có hai khu vực chùa - một dành cho Đại thừa/Kim
cang thừa và một dành cho Theravāda. Hiện tại, có những ngôi chùa của Thái Lan,
Miến Điện, Sri Lanka, Cam-pu-chia, Ấn Độ và Nepal ở Lumbini. Những ngôi chùa này
cần được phát triển vững mạnh để đóng chức năng không chỉ như là nơi ở của chư
Tăng, mà cũng là những trung tâm quốc tế trong việc truyền bá Phật giáo
Theravāda.
Quốc hội Nepal đã thông qua dự luật vào năm 2006 cho phép thành lập Đại học Phật
giáo Lumbini (Lumbini Buddhist University) tại Lumbini. Chính phủ đã cấp đất và
có một số hỗ trợ tài chính để trang trải những chi phí quản lý ban đầu. Tuy vậy
đến nay vẫn chưa có sự tiến triển nào. Đại học này cần trở thành hiện thực để
giảng dạy và nghiên cứu về cả ba tông phải Phật giáo.
Sự cần thiết phải có một Vụ Phật giáo vẫn chưa thành hiện thực. Nepal là một
vương quốc Hindu cho đến năm 2006, do đó việc nhà nước công nhận Phật giáo không
được khuyến khích. Những sự vụ tôn giáo được giải quyết bởi Bộ Nội vụ như là một
chương trình nghị sự hỗn hợp. Hiện Nepal là một quốc gia thế tục và chính phủ
không thể tách ra khỏi những quan tâm của các cộng đồng tôn giáo. Với cách thức
hoạt động hiện đại của Phật giáo Theravāda, phải có một cơ quan chính phủ có
trách nhiệm để giải quyết. Những nhà hoạt động Theravāda cùng với những nhóm tôn
giáo và bộ phái Phật giáo khác cần gây áp lực với Chính phủ để thành lập một Vụ
Phật giáo./.