Khảo sát thuật ngữ phương tiện thiện xảo trong kinh tạng Pāli
KHẢO SÁT THUẬT NGỮ PHƯƠNG TIỆN T
KHẢO SÁT THUẬT NGỮ PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO
TRONG KINH TẠNG PĀLI
Thích Thiện Kinh (Nguyễn Ao Quang Vinh)
Phương tiện thiện xảo
(upāya-kosalla)
là một thuật ngữ được xem như là đặc trưng của Phật giáo Đại thừa. Khái niệm
này có thể được hiểu là những phương thức khéo léo, linh hoạt mà Đức Phật sử
dụng để giáo hóa từng đối tượng với căn cơ khác nhau.
Là một tư tưởng nổi bật nhưng phương tiện thiện xảo trong kinh điển Đại
thừa, và đặc biệt trong Kinh tạng Pāli,
chưa nhận được sự quan tâm của giới học giả.
Gombrich đã nhận định: “Đúng là thuật ngữ ‘phương tiện thiện xảo’,
upāya-kauśalya, thuộc về kinh điển sau này, nhưng việc vận dụng thiện xảo mà
nó ám chỉ, tức là kỹ
năng thích ứng lời nói với từng đối tượng người nghe đã có tầm quan trọng to lớn
trong Pāli Tạng.”
Mặc dù khẳng định về tầm quan trọng to lớn của phương tiện thiện xảo
trong kinh Tạng Pāli, Gombrich cho rằng cụm từ này thuộc về các giai đoạn phát
triển sau của Phật giáo và phương cách độ sanh này chỉ tồn tại dưới dạng tư
tưởng. Tuy nhiên, người viết sẽ xác minh lại nhận định này bằng việc tra tìm
thuật ngữ phương tiện thiện xảo trong một số bản kinh thuộc Tạng Pāli và
từ đó đưa ra một vài phác họa về tư tưởng này.
Thuật ngữ phương tiện thiện xảo trong Kinh tạng Pāli
- Xuất hiện dưới dạng tên gọi
Thuật ngữ phương tiện thiện xảo xuất hiện không ít lần trong Kinh tạng
Pāli. Kinh Phúng tụng thuộc Trường bộ kinh (Dīgha Nikāya)
là một trường hợp cho thấy cụm từ
upāya-kosalla
(phương tiện thiện xảo) đã từng hiện diện. Bài kinh này được thuyết bởi
ngài Xá-lợi-phất, có sự chứng minh của Phật đang nằm nghỉ bên cạnh.
Khi đó,
Tôn giả Xá-lợi-phất nhắc đến
sự tan
rã
của phái Lõa thể Ni-kiền-tử
do tranh cãi giữa các đệ tử với nhau
sau khi vị đạo sư của phái này qua đời.
Ngài
tuyên thuyết các pháp
với mục
đích
giúp
các
thầy
Tỳ-kheo
làm cơ sở cho việc tu tập,
khéo đọc tụng lại
và y giáo phụng hành,
chẳng nên
tranh luận
để
Chánh
pháp được trường tồn.
Bài kinh này liệt kê các khái niệm giáo lý được sắp xếp theo thể thức các pháp
tăng dần,
như trong Anguttara Nikāya (Kinh Tăng chi bộ). Trong nhóm
ba pháp, chúng ta có thể tìm thấy ba loại thiện xảo như sau:
“Ba thiện xảo:
tăng
ích thiện xảo, tổn ích thiện xảo, phương tiện thiện xảo”.
Phương tiện thiện xảo
đã được trình bày trong nhóm các loại thiện xảo như thế. Tuy nhiên, các loại
thiện xảo trong kinh Phúng tụng vẫn chưa được phát triển thành các khái
niệm hay tư tưởng rõ ràng, mà chỉ dừng lại ở việc được liệt kê dưới dạng tên gọi.
Phương tiện thiện xảo được Tỳ-kheo Giác Giới giải thích như sau: “Phương
tiện thiện xảo (upāyakosalla) là trí sắp đặt đường lối hành động để phát
sinh hai trường hợp trên: tăng ích và tổn hại”.
Đây là một bài kinh do ngài Xá-lợi-phất hệ thống hóa lại những bài pháp được Thế
Tôn giảng dạy.
Câu hỏi
được
đặt ra ở đây là: Có bài pháp nào trong đó chính Đức Phật
đã giảng về ba loại
thiện xảo
bên trên, trong đó có
phương tiện thiện xảo?
Một trường hợp
như thế
được tìm thấy trong Tăng chi bộ
kinh
(Anguttara
Nikāya).
Ở đây, ba thuật ngữ tương tự
như trong bản
kinh
Phúng
tụng
được sử dụng.
Đoạn
kinh nói về
sáu pháp khiến cho
một Tỳ-kheo có
cơ hội chứng đắc
được
các pháp chưa chứng, hoặc có khả năng tăng trưởng các pháp đã chứng đắc. Sáu
pháp đó là:
“Ở
đây, này các Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo
thiện xảo khi đi vào, thiện xảo khi đi ra,
thiện xảo khi đến gần, khởi lên ý muốn đạt được những thiện pháp chưa
đạt được, phòng hộ các thiện pháp đã được chứng đắc, có cố gắng để kiên trì tiếp
tục”.
Khi đối chiếu với bản kinh tương ứng
tiếng Pāli,
“thiện
xảo khi đến gần”
chính là
“phương
tiện thiện xảo”
được nhắc đến
trong
kinh
Phúng tụng
(cũng
tương tự với hai cụm từ còn lại là tăng ích thiện xảo và tổn ích thiện
xảo).
Do đó, sự khác biệt chỉ nằm ở cách dịch khác nhau.
Qua hai bản kinh trên, chúng ta có thể
thấy
thuật ngữ
phương tiện thiện xảo đã có mặt
trong các bài pháp thuộc
Tạng
kinh
Pāli, được
các đệ tử Phật lắng nghe và thực hành. Tuy nhiên, cũng phải
thừa nhận rằng
nếu chỉ dựa
vào
hai trường hợp
trên thì
thực sự chưa đủ
cơ sở để xây dựng nên ý nghĩa
đầy đủ
của
tư
tưởng này.
Ba thuật
ngữ trên
hầu như liên quan đến thái độ
trong tu tập
của một Tỳ-kheo
hơn là phương pháp giáo hóa tha nhân.
Khi được
kết hợp
với ba pháp còn lại của sáu pháp đó,
sẽ
“khởi lên ý muốn đạt được những thiện pháp chưa đạt được, phòng hộ các thiện
pháp đã được chứng đắc, có cố gắng để kiên trì tiếp tục”.
Đoạn
kinh đòi hỏi hành giả cần phải luôn giữ kiên định
về tinh thần và quyết tâm tinh tấn trong tu tập.
Tuy nhiên, các lần xuất hiện của thuật ngữ được phát hiện và trình bày sau đây
sẽ bổ trợ hoàn chỉnh cho điểm thiếu sót về mặt độ tha nhân này.
- Có công năng như đưa nhiều người sang sông
Một
nguồn
tài liệu tham khảo
liên quan
trực tiếp đến phương tiện
thiện xảo
và
có sự tương đồng lớn đối với tư tưởng này trong Phật giáo Đại thừa,
đã
xuất hiện trong Kinh
Tập
thuộc Tiểu
bộ
kinh
với nội
dung như sau:
“Như người được leo lên/ Chiếc thuyền mạnh vững chắc/ Ðược trang bị đầy đủ/ Mái
chèo và tay lái/ Người như vậy ở đây/ Giúp nhiều người ngược dòng/ Rõ biết những
phương tiện/ Thiện xảo và sáng suốt”.
Điều thú vị trong bài kệ này là hình ảnh
ẩn dụ
với
chiếc
thuyền
ví như phương tiện
và người lái thuyền
được ca ngợi như người biết vận dụng khéo léo phương tiện đó để
đưa
được số đông
cùng
qua
bờ giác ngộ. Đây có thể được xem là sự tương đồng đáng kể giữa
phương
tiện
trong Kinh tạng Pāli
và Đại thừa. Tuy nhiên
ở đây,
đoạn kinh chỉ nói đến công năng của việc sử dụng phương tiện mà
vẫn chưa được
làm sáng tỏ hay phát triển
về mặt nội hàm với những triết lý hay phương pháp thực hành
như
thế nào.
- Đức Phật với vô lượng phương tiện thiện xảo và nội hàm của chúng
Lần này không chỉ dừng lại ở tên gọi hay công năng của pháp phương tiện thiện
xảo, các bản kinh còn cho thấy phương tiện thiện xảo của Phật có số
lượng nhiều vô kể và kèm theo một số ví dụ sinh động để cho thấy nội hàm của nó.
“Này các Tỳ-kheo hiền hữu, tài trí của đấng Thập lực thật dồi dào phương
tiện thiện xảo biết bao! Ngài đã chỉ cho vương tử Nanda (em trai
của Ngài) thấy cả bầy thiên nữ xong khiến vị ấy đắc Thánh
quả; Ngài lại trao chiếc y cho chàng tiểu thị giả
của Ngài và giáo hóa cho chàng chứng Thánh quả bốn thiền chứng. Ngài chỉ
đóa hoa sen cho người thợ rèn nọ khiến người ấy đạt Thánh
quả. Thật Ngài đang hóa độ chúng sinh với muôn vàn phương tiện khác nhau”.
Trên đây là đoạn trích về những lời Tăng chúng bàn luận với nhau, tán thán về
trí tuệ của Phật khi họ đang ở trong Chánh pháp đường tại tinh xá Kỳ Viên, trong
lúc chờ Đức Phật đến thuyết giảng. Qua lời kể, những lời ca tụng dành cho Bổn sư
như “dồi dào phương tiện thiện xảo biết bao” hay “hóa độ
chúng sinh với muôn vàn phương tiện khác nhau” đã xác nhận về “lượng”
trong việc vận dụng phương tiện của Đức Phật. Mỗi chúng sanh Ngài độ bằng một
phương pháp nhất định; chúng sanh vô số kể thì phương tiện của Ngài cũng vô
lượng, vô biên.
Cụ thể, một số ví dụ về phương tiện mà Phật đã sử dụng để độ tha nhân với những
căn cơ khác nhau cũng được kể lại qua đoạn kinh trên: Với ngài Nanda ham mê nữ
sắc, hưởng thụ dục lạc thì Phật dùng thần thông đưa lên thiên giới để thấy các
thiên nữ để sau đó chứng A-la-hán; với tiểu thị giả Phật dùng phương tiện đó là
hành động “trao chiếc y” để chứng Tứ thiền; còn với người thợ rèn thì phương
tiện đó là hành động “chỉ đóa hoa sen”. Rõ ràng, với mỗi đối tượng có căn cơ và
nền tảng xuất thân khác nhau, Đức Phật đã linh hoạt dùng một phương tiện hay bài
pháp nhất định để có thể giúp họ đạt thành quả trong lộ trình giải thoát.
Quan trọng nhất, bản kinh đã phần nào phác họa nội hàm của phương tiện thiện
xảo trong Kinh tạng Nguyên thủy, về cơ bản vốn mang ý nghĩa không khác so
với tư tưởng này trong Đại thừa: Đức Phật tùy biến bài pháp để phù hợp với từng
đối tượng nghe pháp.
Về trường hợp của ngài Nanda,
Thế Tôn đã độ được
ngài,
người từng
quen lối sống hưởng thụ dục lạc
và
không hề có ý định về đời sống tu hành,
nhưng lại được
xuất gia ngay trong ngày cưới và về sau chứng được quả A-la-hán.
Do đó, trong bài kệ
số 158, ngài
Nanda tán thán Thế Tôn như sau:
“Với
phương tiện thiện xảo/
Ta, bà con mặt trời,
Ðược hướng về chánh lý/
Làm ta thoát sanh hữu”.
Có nhiều trường hợp khác trong Kinh tạng Pāli ở đó Đức Phật được ca ngợi về tài
trí dùng ‘phương tiện’ để truyền đạt giáo pháp. Các trường hợp được tìm
thấy như sau:
“Ở đấy, Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện nói về thiền định luận”.
“Thưa Hiền giả Ānanda, như Thế Tôn dùng nhiều phương tiện đã nói lên, đã
khai mở, đã nêu rõ thân này là vô ngã”.
“Lúc bấy giờ Thế Tôn dùng nhiều phương tiện giảng về bất tịnh, nêu rõ về
bất tịnh, tán thán sự tu tập bất tịnh”.
“Và ở trong Ðại Lâm, BBậc Ðạo Sư đã trình bày cho các vị thấy phương tiện
để đạt được chánh định, nên ngay hôm ấy các vị đắc quả A-la-hán”.
- Phê phán chấp thủ phương tiện
Trong kinh điển Pāli,
Đức Phật nhấn mạnh rằng
giáo pháp chỉ đơn thuần là chiếc bè qua sông hay
phương tiện để đạt
được mục
đích, và
do đó
bản thân nó không phải là
cứu cánh.
Khi đạt được mục tiêu, pháp đó
cần phải được bỏ lại phía sau để tiếp tục bước tới.
Tinh thần không chấp thủ phương tiện này cũng xuất hiện trong nhiều bản
kinh Pāli. Ở đây xin đưa ra số có thể trích dẫn sau:
“Này chư Hiền, sau khi biết sắc này là vô lực, biến hoại, không an ổn; đối với
những sắc là những chấp thủ phương tiện (upāyupādānā), là những
tâm cố chấp, thiên chấp, tùy miên; đối với những sắc ấy, với sự đoạn tận, đoạn
ly, đoạn diệt, đoạn trừ, đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi được giải thoát”.
“Này các Tỳ-kheo, phàm có dục nào, tham nào, hỷ nào, khát ái nào, phàm có những
chấp thủ phương tiện, tâm thủ trước, thiên chấp tùy miên nào đối
với thức, hãy đoạn trừ chúng”.
“Này Kaccāyana, chấp thủ phương tiện và bị thiên kiến trói buộc,
phần lớn thế giới này là vậy. Và ai với tâm không trú trước, chấp thủ
phương tiện ấy, không chấp thủ thiên chấp tùy miên ấy, không có chấp
trước, không trú trước… Cho đến như vậy, này Kaccāyana là chánh tri kiến”.
Kết luận
Qua những trình bày trên, có thể kết luận rằng thuật ngữ phương tiện thiện
xảo đã xuất hiện trong Kinh tạng Pāli. Dù chưa được phát triển sâu rộng và
có hệ thống như trong kinh điển Đại thừa, thuật ngữ phương tiện thiện xảo
trong Kinh tạng Pāli đã bao hàm những điểm cốt lõi của tư tưởng này, chẳng hạn
như ba loại thiện xảo được nhắc đến trong kinh Phúng tụng thuộc Trường
bộ kinh, trong đó phương tiện thiện xảo đóng vai trò như trí tuệ
trong quyết định đưa ra các hành động phù hợp để đạt được hai loại thiện xảo còn
lại, tăng ích hay tổn hại. Hay theo kinh Tăng chi bộ, ba
loại thiện xảo này có tên gọi khác đó là thiện xảo khi đi vào, thiện
xảo khi đi ra, thiện xảo khi đến gần, trong đó thiện xảo khi đến
gần là tên gọi khác của phương tiện thiện xảo. Ở trường hợp khác,
tương tự với hình ảnh ẩn dụ trong kinh điển Đại thừa, phương tiện thiện xảo
trong Kinh tạng Pāli cũng mang sứ mệnh như một chiếc thuyền lớn có khả năng đưa
nhiều người sang sông. Không chỉ tương đồng về công năng mà còn về lượng, một số
bản kinh cho thấy sự tán thán của các chúng đệ tử dành cho Đức Phật như một
người Thầy có vô lượng phương tiện thiện xảo trong việc giáo hóa
chúng sanh. Không kém phần quan trọng, trong Kinh tạng Pāli, sự phê phán đối với
việc chấp thủ vào phương tiện cũng nhiều lần được Đức Phật đề cập đến.
Tất cả những trường hợp xuất hiện của thuật ngữ này trong Kinh tạng Pāli được
khảo sát và trình bày ở trên nhằm cung cấp cho người đọc có một cái nhìn tổng
quan về sự tồn tại của phương cách giáo hóa này trong Tạng kinh Phật giáo lâu
đời nhất.