Ba đặc tính của hiện hữu và sự liên hệ đến Khổ diệt
ba dac tinh
Ba đặc tính của hiện hữu và sự liên hệ đến Khổ diệt
Thích Thiền Minh
Ba đặc tính của hiện hữu (Tam pháp ấn) là
một trong những giáo lý căn bản và quan trọng của
Phật giáo, được trình bày cả trong kinh điển thuộc văn hệ Pāli
và A-hàm Hán tạng. Ba pháp này được Đức Phật dùng để chỉ ra bản chất của
mọi sự vật hiện tượng, từ sắc pháp cho đến tâm pháp. Các pháp này
thay đổi không ngừng và không tồn tại độc lập, riêng biệt.
Trong tiếng Pāli, ba đặc tính của hiện hữu được gọi
là Tilakkhaṇa
(Sanskrit: Trilakṣaṇa).
Lakkhaṇa
có nghĩa là dấu hiệu (sign, mark) mà khi nhìn vào
chúng ta có thể nhận biết đó là
thứ/vật/cái/điều gì. Lakkhaṇa
còn có nghĩa đặc tính (characteristic), tức đặc tính của
mọi sự tồn tại, hiện hữu. Ba đặc
tính của hiện hữu bao gồm: Khổ (Dukkhā, suffering), Vô
thường (Aniccā, impermanence), và Vô ngã (Anattā, no-self).
Khổ là đặc tính đầu trong ba đặc tính. Khổ là trạng thái khó
chịu, khổ đau, thuộc về cả thân và tâm. Trong kinh Chuyển pháp luân (Dhammacakkappavattana
Sutta), Đức Phật dạy về Khổ như sau: “Ðây
là Thánh đế về khổ, này các Tỳ-kheo. Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết
là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ,
cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ.”
Tuy nhiên,
cần lưu ý rằng, Đức Phật dạy khổ nhưng Ngài nói thật ra
không có một tác nhân độc lập chịu khổ, tức là chủ thể thọ nhận khổ không ai
khác ngoài năm uẩn.
Khổ có ba loại: Khổ khổ (Dukkha-dukkha), Hoại khổ (Vipariṇāma-dukkha),
và Hành khổ (Saṃkhāra-dukkha).
Khổ khổ là một loại khổ đau thông thường của chúng hữu tình, liên quan đến cả
khổ đau vật lý lẫn tâm lý. Ví dụ, một người khi được sinh ra đã là khổ đau rồi,
nhưng người đó còn phải chịu đựng những khổ đau khác như bệnh tật, hay những thứ
bất như ý trong cuộc sống. Hoại khổ là khổ đau do sự thay đổi, tan rã, biến hoại
gây ra. Khổ đau này có mặt do vì chúng ta không chấp nhận sự thay đổi hay biến
hoại của tất cả sự vật hiện tượng. Hành khổ có nghĩa là cái khổ có mặt khắp nơi,
bao trùm tam giới, sáu cõi. Nói cách khác, tất cả thế giới hiện tượng do Hành
tạo ra, và theo đó tạo nên sự có mặt của chúng hữu tình trong vòng luân hồi sinh
tử.
Đặc tính thứ hai của hiện hữu là Vô thường (Aniccā).
Tất cả vạn vật đều chuyển động và thay đổi không ngừng; từ
hình sắc vật lý cho đến các trạng thái tâm lý đều theo quy luật đó. Nói cách
khác, sắc vô thường, thọ vô thường, tưởng vô thường, hành vô thường, và thức
cũng vô thường. Đức Phật dạy rằng: “Sắc là vô thường, này Tỳ-kheo, ở đây ông
cần phải đoạn trừ lòng dục. Thọ là vô thường... Tưởng là vô thường... Các hành
là vô thường... Thức là vô thường, ở đây ông cần phải đoạn trừ lòng dục.”
Đặc tính thứ ba là Vô ngã (Anattā).
Vô ngã là không có một cái ngã hay cái tôi riêng biệt, không
có một tác nhân độc lập nằm bên ngoài năm uẩn và chi phối cuộc sống của chúng ta.
Sự có mặt của một hữu tình chính là sự có mặt của ngũ uẩn. Cho nên Đức Phật dạy:
“Sắc là vô ngã, bạch Thế Tôn, ở đây con phải đoạn trừ lòng dục. Thọ... Tưởng...
Các hành... Thức là vô ngã, ở đây con phải đoạn trừ lòng dục”.
Ngũ uẩn là vô ngã, do đó cần từ bỏ sự chấp thủ ngũ uẩn như là ngã, từ bỏ
những ham muốn thuộc về ngũ uẩn.
Để hiểu rõ hơn về ba đặc tính này, chúng ta sẽ khảo sát
một số đoạn kinh có liên quan. Ba đặc
tính của hiện hữu được nói đến trong kinh Pháp
cú rằng: Tất
cả các hành đều vô thường và trống
rỗng. Không có cái “ngã” nào được tìm thấy nơi các pháp trong thế giới
hiện tượng. Sự nhận biết về duyên khởi dẫn đến sự thấu hiểu về con đường thanh
tịnh.
‘‘Sabbe saṅkhārā
aniccā’’ti, yadā paññāya passati;
Atha nibbindati dukkhe, esa maggo visuddhiyā.”
“Sabbe saṅkhārā
dukkhā’’ti, yadā paññāya passati;
Atha nibbindati dukkhe, esa maggo visuddhiyā.”
“Sabbe dhammā anattā’’ti, yadā paññāya passati;
Atha nibbindati dukkhe, esa maggo visuddhiyā.”
“Tất cả hành vô thường
Với tuệ quán thấy vậy
đau khổ được nhàm chán;
chính con đường thanh tịnh”.
‘Tất cả hành khổ đau.
Với tuệ quán thấy vậy.
Đau khổ được nhàm chán;
Chính con đường thanh tịnh”.
‘Tất cả pháp vô ngã
Với tuệ quán thấy vậy,
Đau khổ được nhàm chán.
Chính con đường
thanh tịnh”.
Saṅkhārā
là hành, chi phần thứ hai trong
chuỗi mười hai duyên khởi. Hành là phần vị của nghiệp
thuộc đời sống trước đó.
Đó là chuỗi tương tục gồm các nghiệp thiện, nghiêp ác. Hành là những ấn tượng
tinh thần, được tích luỹ trong đời sống quá khứ, cũng như đời sống hiện tại, từ
đó thôi thúc những suy nghĩ, lời nói và việc làm. Hay nói cách khác, hành
chính là nghiệp lực của mỗi người. Đức Phật dạy, “Tất cả hành vô thường”
(Sabbe saṅkhārā
aniccā).
Mọi sự hiện hữu đều bị chi phối bởi đặc tính này, luôn
thay đổi và chuyển biến không ngừng. “Tất cả hành khổ
đau” (Sabbe saṅkhārā
dukkhā’).
Các hành gây nên khổ đau vì chúng vô thường, trong khi
con người có thói quen chấp thường. Cuối cùng, “Tất cả pháp
vô ngã” (Sabbe dhammā anattā).
Tất cả pháp có mặt nhờ hội đủ các điều
kiện; do đó các pháp không có tự ngã hay một thực thể độc lập.
Kinh Channa thuộc Tương ưng bộ
(Saṃyutta
Nikāya) cũng nói rằng tất cả các hành
vô thường và tất cả các pháp
vô ngã (sabbe saṃkhārā
aniccā, sabbe dhammā anattā).
Trong kinh điển thuộc văn hệ Hán tạng,
chúng ta thấy có đến bốn hành tướng hay đặc tính của khổ,
chứ không chỉ có ba như trong kinh tạng Nikāya. Cụ thể, trong
Du-già-sư-địa luận
(Yogācārabhūmi-śāstra,
瑜伽師地論) của Di Lặc Bồ-tát
(Bodhisattva Maitreya,
彌勒菩薩), chúng ta thấy có đề cập đến
bốn hành tướng của khổ, đó là vô thường, khổ,
không, và vô
ngã (謂無常行苦行空行無我行).
Trong Tạp A-hàm
(Saṃyuktāgama,
雜阿含),
có một đặc tính khác được đề cập, đó
là Niết-bàn (一切行無常,一切法無我,涅槃寂滅).
Ở đây Niết-bàn được xem là một đặc tính của hiện hữu, được thay
thế cho khổ đau…
Khổ diệt Thánh đế là phần
thứ ba trong Tứ Thánh đế. Trong kinh Chuyển
pháp luân,
Khổ diệt Thánh đế chính là sự thật về sự đoạn diệt khổ
đau, là sự lánh xa, rời bỏ, từ khước, thoát ly và
giải thoát khỏi tâm ái dục (Idaṃ
kho pana bhikkhave, dukkhanirodho ariyasaccaṃ:
yo tassāyeva taṇhāya
asesavirāganirodho cāgo paṭinissaggo
mutti anālayo).
Pháp có bốn phạm trù: Pháp hữu
vi (Saṃskṛta
Dharma, Conditioned Things), Pháp vô vi (Asaṃskṛta
Dharma, Unconditioned Things), Pháp hữu lậu (Āsrāva,
Impure Dharma), và Pháp vô lậu (Anāsrāva,
Pure Dharma). Pháp hữu vi là pháp
do các nhân duyên tạo thành, không có pháp nào có
mặt do một nhân duyên.
Pháp vô vi là pháp không do nhân
duyên tạo thành. Pháp vô lậu là
pháp không còn bị nhiễm ô bởi phiền não, hay không còn
liên quan, liên hệ đến phiền não; Pháp hữu lậu là pháp
còn bị phiền não chi phối, thúc đẩy, hay có liên quan,
liên hệ đến phiền não.
Khổ diệt Thánh đế là Pháp vô
lậu - vô vi, trong khi đó Tam pháp ấn (ba
đặc tính sự hiện hữu) là Pháp
hữu vi. Do đó, Khổ điệt
Thánh đế không có mối liên hệ đến ba đặc tính này, vì Pháp hữu
vi không thể làm nhân duyên để Pháp vô vi sinh khởi.
Niết-bàn là tịch tĩnh vắng lặng. Thánh đế thứ tư là Khổ diệt
Đạo Thánh đế (Dukkhanirodhagāminī Paṭipadā
Ariyasaccaṃ),
hay Bát Thánh đạo (Ariyo Aṭṭhaṅgiko
Maggo), là Pháp vô lậu nhưng Hữu vi, vì nó hướng dẫn
chúng hữu tình đến bến bờ giải thoát; ngoài ra, nó cũng
là pháp do nhân duyên mà thành lập. Do vậy, nếu nói Diệt đế là bờ bên kia, là
giải thoát Niết-bàn thì Bát Thánh Đạo
là chiếc bè ngang qua dòng sông có đặc tính là Khổ - Vô Thường - Vô ngã đó.
Tài liệu Tham khảo:
1.
Buddhaghosa, Visuddhimagga, Rhys Davids (ed), the
Visuddhi-Magga Of Buddhaghosa, London: PTS, 1975.
2.
Dhammapada,
Chapter 20: Maggavaggo, Verses: 277-279.
Website: https://www.tipitaka.org/romn/
3.
Kinh Pháp cú: Lời Phật dạy,
Thiện tri thức (biên tập), Hà Nội: Nhà Xuất bản Hồng Đức, 2014. Theo cách dịch
thi kệ của Hoà Thượng Thích Minh Châu từ nguyên bản Pāli.
4.
SN 22.90 PTS: S iii 132.
Website:
https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sltp/SN_III_utf8.html#pts.132
5.
SN 56.11, PTS:
S v 421.
Website:
https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sltp/SN_V_utf8.html#pts.420
6.
Thich Nhat Hanh, “the Three Dharma Seals,” trong the Heart of the
Buddha’s Teaching, New York: Broadway Books, 1998.
7.
Tương Ưng Bộ - Saṃyutta
Nikāya, Hòa thượng Thích Minh Châu (dịch Việt).
Website:
https://www.budsas.org/uni/u-kinh-tuongungbo/tu-00.htm
8.
Vasubandhu,
Abhidharmakośabhāsyam, transl., Louis de La Vallee Poussin; transl., Leo M.
Pruden, Berkeley, Calif.: Asian Humanities Press, 1988- 1990, Vol. 1.
9.
Walpola Rahula, What
the Buddha Taught (Revised edition), London and Bedford: Gordon Fraser,
1978.
10.
阿毘達磨俱舍論,
第9卷,
No. T29n1558_009, tr. [0048a25]. “宿諸業名行”
11.
瑜伽師地論,
第34卷,
No. T30n1579_034, tr. [0470c16]. “由四種行了苦諦相。謂無常行苦行空行無我行.”
12.
雜阿含經,
第10卷,
No. T02n0099_010, tr. [0066b12].
Vism (PTS), p.499; Walpola Rahula, What the Buddha Taught
(Revised edition), London and Bedforb: Gordon Fraser, 1978, tr.19.
SN
56.11, PTS: S v 421.
Website:
https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sltp/SN_V_utf8.html#pts.420
Vasubandhu, Abhidharmakośabhāsyam, transl., Louis de La Vallee
Poussin; transl., Leo M. Pruden, Berkeley, Calif.: Asian Humanities
Press, 1988- 1990, Vol. 1, tr.61-62.
Vasubandhu, Abhidharmakośabhāsyam, transl., Leo M. Pruden, tr.58.”
Đạo là con đường
(道,
magga, path).