Khái lược về học thuyết duyên khởi của Nhất Thiết Hữu Bộ
khai luoc
KHÁI
LƯỢC VỀ HỌC
THUYẾT DUYÊN KHỞI
CỦA NHẤT THIẾT
HỮU BỘ
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết
Nhất
Thiết
Hữu
bộ
là “Các
pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn.”
Vậy
điều này có trái ngược với thuyết
duyên
khởi
mà
Đức
Phật đã chứng ngộ dưới cội
bồ-đề
hay không? Lại cũng có thuyết quan niệm rằng “Tất cả pháp đều không.”
Vậy quan điểm này
có rơi vào
thuyết “đoạn diệt” của ngoại đạo không? Muốn
hiểu rõ
vấn đề này, chúng ta phải tìm hiểu về nguồn gốc của nó, và nguyên nhân tại sao
có sự mâu thuẫn này.
Nguyên nhân chính tạo ra sự mâu thuẫn này có nguồn gốc từ
thời
Đức
Phật còn tại thế, khi Man Đồng Tử hỏi Phật về 14 vấn đề vô ký:
“Thế giới hữu thường hay vô thường, thế giới hữu biên hay vô biên, sinh mạng
tức là thân hay sinh mạng khác thân, Như Lai tuyệt diệt hay Như Lai không tuyệt
diệt, hay Như Lai vừa tuyệt diệt vừa không tuyệt diệt, hay Như Lai cũng không
phải tuyệt diệt, cũng không phải không tuyệt diệt…?”
Đức
Phật
đã
không trả lời
những câu hỏi này
vì
chúng
không đem lại hạnh phúc thật sự cho người hỏi. Chính vì lẽ đó mà Phật giáo về
sau
có sự
tranh luận về những vấn đề này.
Các
bộ phái đã cố gắng
đưa ra những học thuyết riêng
của
mình nhằm giải đáp những thắc
mắc về vấn đề này,
tuy vậy
không
học thuyết
nào
có thể
làm thỏa mãn được tất cả.
Độc Tử
bộ
là bộ phái đầu tiên đưa ra chủ thuyết “Ngã
pháp
hằng hữu” (我法恆有
-
ngã
là phần
linh hồn,
pháp
là phần vật chất).
Bộ
phái này cho rằng cả ngã và pháp luôn luôn tồn tại. Trong khi ấy
Hóa
Địa
bộ
chủ trương
“Quá khứ vị lai vô, hiện tại vô vi hữu” (過去未來無,
現在無為有),
tức
là
quá
khứ đã qua rồi nên không có, vị lai chưa đến nên cũng không có, chỉ thật có pháp
hiện tại. Ở đây “vô
vi”
chỉ cho pháp “cực
vi”,
pháp này “có”, và
cái có này tạo ra vật chất thế gian;
còn quá khứ cũng như vị lai đều không tồn tại. Nhưng Nhất Thiết Hữu bộ không
đồng tình với những quan điểm này,
vì vậy
đã đưa ra chủ trương khác, đó là “Ngã vô, pháp hữu” (我無法有).
Các
nhà Hữu bộ giải thích
rằng,
“Ngã không” là cái mà Độc Tử bộ gọi là “Ngã hay Bổ-đặc-già-la” (pudgala) là
không có thật, tức phủ nhận Ngã không tồn tại, còn “Pháp hữu” là chỉ cho bản
thể của các pháp đều là thật có, không phải là giả. Không dừng lại ở đó, Hữu bộ
đã giải thích
học thuyết “Tam
thế thật hữu, pháp thể hằng tồn” (三世實有,
法體恆存)
mà
họ chủ trương
là,
không phải chỉ có hiện tại là có thật như Hóa Địa bộ đã đưa ra, mà ngay cả quá
khứ và vị lai cũng có thật. “Pháp thể hằng tồn” tức là bản chất của các pháp
là
thật có, không phải là giả có. Với chủ trương này,
Hữu bộ
đã trở thành một bộ phái chiếm ưu thế ở
Ấn Độ trong một thời gian dài, cho đến khi Đại
thừa
xuất hiện.
Phật giáo Đại thừa vào
thời kỳ đầu
đã
phản bác
lại chủ trương của Hữu bộ một cách kịch liệt với hai hệ thống tư tưởng: Tư
tưởng “Nhất
thiết pháp giai không” (一切法皆空)
thuộc hệ Bát-nhã
và tư
tưởng “Duyên khởi tánh không” (緣起性空)
của Long Thọ (龍樹,
Nāgārjuna) trong luận Trung
quán.
“Tất cả pháp đều không” của hệ Bát-nhã
được hình thành
nhằm đả phá tư tưởng “thật
có”
của Hữu bộ. Nhưng những lý luận của Hữu bộ khá chặt chẽ nên tư tương này không
giải quyết triệt để, cũng như Hữu bộ không chấp nhận tư tưởng “tất cả pháp đều
không” này. Vì thế Long Thọ đã đưa ra học thuyết mới “Duyên khởi tánh không”
nhằm
phá
bỏ
kiến chấp “thật hữu” đương thời. Tư tưởng này ra đời cũng nhằm
trả lời những chất
vấn của Hữu bộ đối với tư tưởng
tánh
không
của
hệ
Bát-nhã,
bên cạnh đó giải thích tường tận về “duyên khởi” tránh xa hai thái cực mà người
đương thời đang vướng phải.
Duyên
khởi
vào
thời kỳ Phật giáo Nguyên
thủy
Đức Thích Ca Mâu Ni
khi
giác ngộ dưới cội
bồ-đề
đã thấy rõ sự vận hành của các pháp là do
duyên
sinh.
Bên cạnh đó,
Đức
Phật
cũng
thấy chúng sinh
sở dĩ khổ đau
là do
“chấp”
các pháp là thật, rồi bám víu
vào
cái thật đó.
Sự
chấp thật có đó là
do vô
minh.
Nguyên
lý
duyên
khởi
mà
Đức
Phật chứng ngộ
có nghĩa rằng các pháp là do
duyên sinh hòa hợp kết tụ mà thành, chúng nương tựa ảnh hưởng lẫn nhau. Bởi vì
duyên sinh nên không có chủ thể
cố
định.
Kinh
Trung A-hàm
đã định nghĩa về
duyên
khởi
như sau:
“Do cái này có nên cái kia có,
do
cái này khởi nên cái kia khởi, duyên vô minh nên có hành… cho đến, duyên sinh
nên có già chết và tụ tập thuần một khối khổ lớn và thuần một khối khổ lớn diệt”.
Ở đây “cái này có” chỉ cho pháp được thành tựu, “cái kia có” là chỉ cho pháp này
trước khi thành tựu đã tồn tại một pháp trước nó, ý muốn nói là cái này thành
tựu là do nhiều cái thành tựu trước nó hợp lại.
Đây
là đứng về mặt
“vật
chất”
mà trình bày. Còn đứng về
“tâm
thức”
thì khổ đau của một người là do vô minh,
vì vô minh có hành, vì hành mà có thức… Khi duyên không đủ hay
kết thúc thì nó sẽ tan rã:
“Có nhân, có duyên để thế gian tập khởi; có nhân, có duyên cho sự tập khởi
của thế gian. Có nhân, có duyên để thế gian diệt; có nhân, có duyên cho sự diệt
tận của thế gian”.
Qua đây
cho thấy
rằng,
Đức
Phật đã tự chứng biết các pháp đều do nhân duyên sinh khởi và nhân duyên đoạn
diệt, nó vận hành theo thể tự nhiên không ai áp đặt hay tạo ra. Cả thế gian và
cho đến tâm thức của con người cũng đều theo định luật sinh
diệt này mà vận hành. Tại sao như vậy?
Bởi vì
nó không có tự tánh hay tự ngã thường hằng nên sự tồn tại của nó
chỉ
hiện hữu trong một thời gian nhất định.
Bởi vì các pháp do
duyên
sinh cho nên vô thường:
“Sắc
là vô thường. Nhân và duyên sinh ra các sắc, chúng cũng vô thường. Vậy, các sắc
được sinh ra từ nhân và duyên vô thường, làm sao có thể là thường được?”
Như vậy, vì
các pháp vốn vô thường nên không có một thực thể hằng tồn bất biến, không có một
thực ngã vĩnh hằng,
cho nên các pháp
là
vô
ngã.
Chúng ta cần nhận thức các pháp là như vậy để xa rời vọng chấp.
Tư tưởng
thật
hữu
của Nhất Thiết
Hữu
bộ
Hữu bộ với chủ trương “Tam
thế thật hữu, pháp thể hằng tồn”
đã
phân tích các pháp trên hai phương diện danh và sắc, cho rằng
vật chất luôn tồn tại trong ba thời “quá khứ, hiện tại và vị lai”, và pháp thể
tức là bản chất pháp ấy luôn thật có. Chúng ta
cần
tìm hiểu tại sao Hữu bộ lại đưa ra chủ trương này.
Như
đã đề cập
ở trên,
Đức
Phật
đã
không trả lời
có hay không có đối với các
vấn đề siêu hình,
vì dù
có trả lời như thế nào đi nữa cũng không giải quyết được khổ đau mà chúng sinh
đang
đối mặt và
đưa
họ
đến giải thoát. Dù trả lời là “có hoặc không” thì chúng sinh
vẫn
“sinh,
già, bệnh, chết”
như kinh Tiễn
dụ
đã nêu. Mặt khác,
việc trả lời có hoặc không
sẽ khiến cho người hỏi cũng như người đời sau chấp vào nhị biên (có
hoặc
không).
Vì muốn giải quyết các vấn đề
trong
cuộc sống cũng như
những
thắc
mắc
của người đời về vấn đề này
nên
Độc Tử
bộ
đưa ra chủ thuyết “Ngã
pháp
hằng hữu”, cả ngã và pháp luôn tồn tại. Độc
Tử
bộ phân tích, nếu tách ly “Ngã”, Bổ-đặc-già-la (pudgala)
ra khỏi ngũ uẩn thì không có cái gì từ đời trước chuyển sang đời sau. Độc
Tử
bộ không chấp nhận có cái ngã đi thọ nhận sinh
tử luân hồi,
nhưng
lại cho rằng có cái gọi là Pudgala đi thọ nhận quả báo, di chuyển từ đời
này sang đời khác.
Ở đây
cho thấy có sự mâu thuẫn. “Đứng trên chủ thể nhận thức, hoặc ký ức hay lập
trường luân hồi thì Độc
Tử
bộ cho là có
ngã”.
Nhưng thừa nhận
có
ngã
tức là đồng với tư tưởng Bà-la-môn,
không đúng với tinh thần
của Đức
Phật.
Đức Phật chủ trương
vô
ngã,
vì vậy Thuyết
Nhất
Thiết
Hữu bộ đưa ra tư tưởng “Ngã vô pháp hữu”
nhằm
tránh đi
quan niệm hữu
ngã
của Bà-la-môn
giáo,
tuy vậy cho rằng pháp
thể
luôn tồn tại. Nhưng Hóa
Địa
bộ
trước đó đã chủ trương “Quá khứ vị lai vô, hiện tại vô vi hữu”,
tức
quá khứ đã qua rồi nên không có, vị lai chưa đến cũng không có, chỉ có pháp hiện
tại là thật có. Còn “vô
vi”
là chỉ cho pháp “cực
vi”
và chỉ pháp này là thật có.
Ngược lại, Nhất Thiết Hữu bộ lại chủ
trương “Tam thế thật hữu, Pháp thể hằng tồn”. Hữu bộ khẳng định
rằng
không phải chỉ có pháp hiện tại là thật có mà ngay cả quá khứ và vị lai cũng đều
thật có. Hữu bộ căn cứ vào
lời dạy
Đức
Phật để làm cơ sở lý luận:
“Trong quá khứ ta tu tập như vậy, cho nên ta chứng đắc như vậy. Cũng vậy, nay
các Tỷ-kheo cũng tu
tập như vậy trong tương lai cũng sẽ chứng đắc như vậy”.
Vì quá khứ
Đức
Phật
đã tu tập như vậy, cho nên ngày nay Ngài mới chứng đắc như vậy.
Các Tỷ-kheo
nay tu hành như vậy, thì tương lai cũng sẽ được chứng đắc
như vậy.
Căn cứ vào đây Hữu bộ
cho
rằng Đức
Phật có nói về “quá khứ, hiện tại và vị lai”. Nếu như không có khái niệm thời
gian (quá khứ, hiện tại, vị lai) thì khái niệm chứng đắc, thành tựu, nhân
quả… trở thành vô nghĩa, vì không có quá khứ thì làm gì có hiện tại, không có
hiện tại thì làm gì có tương lai. Như vậy, khái niệm quá khứ hiện tại và vị
lai là có thật không phải là giả có.
Lý
luận của Hữu bộ thật xác đáng khi đứng về mặt hiện tượng. Đây chính là lý do Hữu
bộ
chủ trương “tam thế thật hữu”.
Hữu bộ tiếp tục chủ trương “Pháp thể hằng tồn”,
nghĩa là thể tánh (bản chất) của các pháp luôn tồn tại và thật
có. Cái mà các nhà Hữu bộ cho là “thật có” không phải là những hiện tượng chúng
ta có thể
thấy,
nghe hay xúc chạm, vì
Hữu bộ cho rằng nó là bản chất hay bản tánh của
pháp,
tức là những yếu tố “cực
vi”
kết hợp hình thành sự vật. Vậy làm thế nào để những
cực
vi
đó hình thành một pháp mà mắt có thể thấy, tai có thể nghe, thân có thể xúc
chạm…?
Luận
Đại Tỳ-bà-sa
cập đến vấn đề này
như sau.
“Hỏi:
Thể lượng của cực vi như thế nào?Đáp: Cực
vi là đơn vị cực nhỏ, không thể cắt xén, phá hoại, xỏ xuyên, lấy bỏ,
phân chia… Cũng
không thể dùng mắt thấy, dùng tai nghe, mũi ngửi
và thân xúc chạm.
Vì tính
chất của nó như vậy cho nên gọi là cực vi, là loại sắc cực nhỏ.
Bảy cực
vi kết lại thành một vi trần…
Bảy vi
trần kết lại thành
một
đồng trần…
Bảy
đồng trần kết lại thành
một
thủy trần…
Bảy thủy
trần kết lại thành
một
sợi lông
thỏ…”
.
Như vậy theo
luận này, pháp mà chúng ta thấy được hoặc sờ mó được là pháp giả có, do vô
số cực vi kết lại mà thành.
Bởi
vì cực vi là đơn vị nhỏ nhất không thể cắt xén, phá
hủy,
xuyên xỏ hay phân chia,
nên
pháp ta thấy được là đầu sợi lông
thỏ.
Vì thế có thể khẳng
định sợi lông
thỏ
là giả,
nhưng
những cực vi để kết thành sợi lông
thỏ
là thật.
Theo đó
các nhà Hữu bộ lý luận
rằng: “Nếu cực
vi là giả thì sợi lông thỏ cũng không có”, tức
là
nếu
cực vi này trống rỗng thì không thể hình thành nên sợi lông
thỏ.
Xét
ở
hiện tượng vật lý thì lý luận này rất hợp lý, vì nếu như bản chất các pháp ban
đầu là số 0 thì sẽ không có kết quả cho dù cả ngàn số 0 hợp lại. Từ đó
có thể
khẳng
định
rằng, cực vi là bản thể của các pháp. Bản
thể là cái có thật, còn
hiện tượng là cái giả có.
Ở
gốc
độ
khác, tứ đại là có thật,
còn thứ
gì do tứ đại tạo thành thì cái ấy là giả có,
và
đã là giả có
thì có sinh
ắt
hẳn phải
có
diệt (bởi vì bản chất các pháp là vô thường).
Đây là quan điểm “pháp thể hằng hữu” của Hữu bộ.
Nhưng các cực vi quá nhỏ và rời rạc
vậy
làm thế nào để cho nó kết tụ hình thành một pháp có thể thấy biết như một vật
thể hay
một
thế giới? Hữu bộ đưa ra thuyết
sáu
nhân
bốn
duyên để giải thích những quy
luật cấu kết hình thành mọi sự vật
trong
thế giới.
Thuyết duyên khởi
của
Hữu bộ
Thuyết
duyên
khởi
được
Đức
Phật
dạy
“Cái này có cho nên cái kia có, cái này không cho nên cái kia không…”
là để
áp dụng chung cho quy luật vận hành sinh
diệt của các pháp, trong đó có pháp về tâm lý và pháp về vật lý. Những
pháp
thuộc về tâm lý
được Đức
Phật
trình bày qua
thuyết 12 nhân duyên, “duyên vô minh nên có hành, duyên hành
nên có thức...”.
Đoạn kinh này
nói đến hai
chiều thuận nghịch của 12
chi phần
nhân duyên,
nhằm
giúp chúng sinh
biết cách đối trị chuyển hóa khổ đau,
đạt được
an lạc giải thoát.
Nhưng về pháp vật lý, hiện tượng thì cần giải quyết như thế nào? Nếu chỉ nói “Cái
này có cho nên cái kia có, cái này không cho nên cái kia không…” thì
quá
chung chung, nên Hữu bộ dựa
vào thuyết duyên
khởi
mà Đức
Phật nói
để
hình thành học thuyết
sáu
nhân
bốn
duyên
nhằm
giải quyết các vấn đề vật chất.
Như vậy ta thấy các nhà Hữu bộ chú trọng vào phương diện
vật chất hơn là tinh thần.
Luận Đại
Tỳ-bà-sa
có đoạn đề cập đến
lý do thành lập luận thuyết này:
“Hỏi:
Lý do tại sao hình thành lý thuyết này? Đáp: Vì mục đích ngăn ngừa kẻ ngu
muội cố chấp về luật nhân duyên và cho rằng tính
chất của nhân duyên là chẳng có thật.
Do
để
làm sáng
tỏ thể tánh của nhân duyên là thật có cho nên thành lập lý thuyết này”.
Theo luận
Đại
Tỳ-bà-sa,
“Thuyết
6 nhân có ý nghĩa không cùng tận, khó có ai có thể lý giải được hết ý nghĩa của
nó, do vậy chỉ đơn giản giải thích như thế này. Cái gì gọi là ‘tương ưng nhân’?
Là tất cả những pháp thuộc về tâm và tâm sở. Cái gì gọi là ‘câu hữu nhân’? Là
tất cả những pháp thuộc về hữu vi.
Cái gì gọi là ‘đồng loại nhân’?
Là tất cả pháp thuộc về quá khứ cũng như hiện tại.
Cái gì gọi là ‘biến hành nhân’?Là
tất cả pháp thuộc
quá
khứ và hiện tại biến hành với tùy miên, và nó có liên hệ đến ‘tương ưng nhân’ và
‘câu hữu nhân’. Cái gì gọi là ‘Dị Thục nhân’?
Là những pháp thuộc về thiện bất thiện và hữu lậu.
Cái gì gọi là ‘năng tác nhân’? Là tất cả pháp”.
Luận Câu-xá
sắp xếp
có khác
đôi chút,
nhưng nghĩa lý không sai khác:
“Nhân
có sáu loại:
năng
tác nhân, câu hữu nhân, đồng loại nhân, tương ưng nhân, biến hành nhân, dị thục
nhân”.
Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu về sáu nhân này theo Hữu bộ.
Ở
đây
người viết
dựa vào luận
Câu-xá
(quyển
6,
phẩm
2, Phân
biệt
căn)
để tóm tắt
luận thuyết này.
1. Năng tác nhân
có nghĩa
là
“trừ
tự, dư năng tác”,
tức là trừ cái tự thể ra, còn đối với hết thảy các pháp khác đều gọi là năng
tác. Tất
cả
là những điều kiện tương
trợ để thành lập nhân này. Vì
Hữu
bộ cho
rằng
tự mình không thể sinh
ra mình,
nên
trừ mình ra còn tất cả pháp bên ngoài đều là duyên.
2. Câu hữu nhân
có
nghĩa
là
“hỗ vi quả”, tức là điều kiện hỗ tương để thành lập một pháp. Chẳng hạn
như
khi chủ
thể và
khách
thể
phát sinh quan hệ, thì chủ
thể là nguyên
nhân của khách
thể,
khách
thể
là nguyên nhân của chủ
thể,
cả hai dựa vào nhau mà thành lập hiện tượng.
3. Đồng loại nhân
có
nghĩa
là “tương
tự”,
tức là khi nhân và quả cùng một tính chất thì nhân ấy được gọi là đồng loại
nhân. Hết thảy không những chỉ sát-na diệt,
mà đồng thời cùng một trạng thái đó luôn luôn kế tục.
Đó
chính là sự tương tục của đồng loại nhân và quả của nó (đẳng lưu quả).
4. Tương ứng nhân
có
nghĩa
là “quyết định
tâm, tâm sở đồng y”.
Nhân này thuyết minh cái quy định liên tưởng của những hoạt động tâm lý của ta.
Khi một tâm niệm sinh khởi, tất phải có những tác dụng tâm lý theo tâm đó
mà phát khởi.
5. Biến hành nhân
có nghĩa
là,
chính
cái phiền não mạnh mẽ nhất là nguyên nhân cho tất cả mọi phiền não của chúng ta
sinh
khởi. Nhân này đề cập đến ba thời, cùng biến hành với tùy miên, và nó có liên hệ
đến “tương ưng nhân và câu hữu nhân”.
6. Dị thục nhân (báo nhân).
Đây chính là tên gọi khác của thiện nghiệp
và
ác nghiệp,
tức là cái nhân dẫn đến kết quả sướng hay khổ trong tương lai. Theo nghĩa hẹp
thì thiện nhân sinh thiện quả, ác nhân sinh ác quả, và Dị thục nhân này chỉ
về luật nhân quả. Luận Câu-xá
(quyển
6)
giải thích là “khác loại mà chín - dị loại nhi thục”.
Tiếp theo là phân tích về 4 duyên. “Có
bốn
duyên: 1. Nhân duyên; 2. Đẳng vô gián duyên; 3. Sở duyên duyên; 4. Tăng thượng
duyên”.
Phần này được trình bày chi tiết trong luận Câu-xá
quyển 7, phẩm 2 Phân biệt
căn.
Ở
đây xin trình bày tóm tắt như sau:
1. Nhân duyên,
tức
chỉ cho bản thân sự vật có khả năng sinh ra cái khác. Ví dụ như hạt giống có khả
năng sinh ra mầm cây. Như vậy, hạt giống là nhân duyên của mầm cây.
2. Vô gián duyên,
tức
là ám chỉ cho những loại duyên liên tục, không bị gián đoạn. Cũng như tâm thức
chúng ta luôn sinh diệt, không một
giây
phút nào dừng nghỉ, không một
khoảnh
khắc nào ở trạng thái của cùng một tâm. Ví dụ như hít thở, ăn uống là điều
kiện trợ giúp cho sự sống con người. Như vậy, sự tương tục của tâm giữa khoảng
tiền niệm và hậu niệm không thể không có cái tương tục.
3. Sở duyên duyên
(Cảnh giới duyên).
Duyên này chủ yếu chỉ cho ý nghĩa khách quan, tức là thâu tóm tất cả những đối
tượng của tâm (12 xứ). Theo tâm lý học Phật giáo, tâm
sinh khởi tất phải nhờ vào cảnh, nếu không có cảnh thì tâm không sinh. Đứng ở
điểm sinh khởi của tâm mà nói thì cảnh giới duyên là duyên rất quan trọng.
4. Tăng thượng duyên
là chỉ cho tất cả các pháp, trừ tự thể ra.
Chỉ
cần khiến cho một việc gì đó được thành tựu, bất luận là tích cực hay tiêu cực
mà pháp đó được tăng trưởng
thì
gọi là duyên tăng thượng.
Ví dụ như phân bón, nước, ánh sáng… là trợ duyên cho sự trưởng
thành của cây lúa.
Các trợ
duyên này gọi là “Tăng thượng duyên”. Thông thường, khi nói nhân là có ý
chỉ cái nhân gần (thân nhân), và khi nói đến duyên là chỉ cho cái nhân xa (sơ
nhân). Do đó, Phật giáo vì coi trọng luật nhân quả nên không đặt nặng ở duyên mà
lại đặt nặng ở nhân. Trái lại, trong A-tỳ-đạt-ma,
duyên
được
xem
là trọng yếu hơn
nhân.
Qua nội dung cũng như ý nghĩa của thuyết
sáu
nhân
bốn
duyên, chúng
ta thấy rằng các nhà Hữu
bộ thành
lập học thuyết này nhằm củng cố học thuyết “Thật
hữu” của
mình và lý giải sự hình thành các pháp ở thế gian, tức là
do các yếu
tố “cực
vi”
kết hợp lại
mà tạo
thành những hiện tượng vật
lý.
Đây là một trong những lý thuyết cơ bản của các nhà Hữu
bộ. Các luận
sư của phái này không chỉ có quan điểm “Thể tánh của các pháp là thật có” mà còn
cho rằng thuyết
sáu
nhân
bốn
duyên này cũng thật có.
Kế đến là trình bày
về
đặc tính của “tứ
đại”
khi hình thành vật chất (pháp).
Hữu bộ lại cho rằng “tứ
đại”
là thật có,
nhưng các
pháp do tứ đại tạo thành
thì chỉ là giả có,
như đã nói
ở trên.
Ở đây
chúng ta cần tìm hiểu thêm về đặc tính của
tứ
đại
trong việc hình thành các pháp.
Theo luận Câu-xá,
quyển 1, phẩm 1 Phân
biệt
giới:
“Đại
chủng là bốn giới. Tức đất, nước, lửa, gió. Có khả năng trì giữ… Và các tính
chất cứng, ướt, ấm và chuyển động”.
Đất, nước, gió, lửa
theo Hữu bộ
có khả năng gìn giữ các
đặc
tính riêng của chúng, và các sắc pháp được chúng tạo thành (sở tạo sắc,
upādāyarūpa, bhautika) được gọi là giới (dhātu). Bốn giới này
còn
được gọi là đại chủng (mahābhūta) vì chúng làm chỗ dựa cho tất cả các
loại sắc khác. Bốn đại chủng này có khả năng tạo thành các nghiệp
như
trì giữ (dhārama), kết dính (nhiếp, samgraha), làm chín (pakti)
và làm tăng trưởng (vyūhama). “Tăng trưởng” có nghĩa là làm chuyển dịch (prasarpaṇa)
và lớn mạnh (vṛddhi).
Bốn đại chủng này có những tính chất
như:
“Địa
giới có tính cứng, thủy giới có tính ướt, hỏa giới có tính nóng, và phong giới
có tính động”.
Một pháp hiện hữu đều hội tụ đủ các đặc tính này, ví như thân người được kết hợp
bởi bốn đại. Đất tượng trưng cho xương thịt,
nước
tượng trưng cho máu, mủ…,
lửa
chỉ cho nhiệt độ cơ thể,
gió
tượng trưng cho hơi thở...
Và
nhờ có tứ đại này
mà
sắc uẩn
được hình thành.
Các pháp thế gian cũng
vậy,
nhờ có tính trì giữ, kết dính, làm chín, tăng trưởng mà các pháp sinh khởi, phát
triển và đoạn diệt…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
4.
A-tỳ-đạt-ma
đại tỳ-bà-sa
luận,《阿毘達磨大毘婆沙論》卷16:
(CBETA, T27, no. 1545, p. 80a16-22).
6.
A-tỳ-đạt-ma
thức thân túc luận,
《阿毘達磨識身足論》卷3:(CBETA,
T26, no. 1539, p.547b22-24).
8.
Sa-môn
Thích Tịnh Hạnh. Tạp A-hàm
quyển
2. Hội Văn
hóa
Giáo
dục
Linh Sơn Đài Bắc
-
Taiwan, 2000.
9.
Sa-môn
Thích Tịnh Hạnh. Tạp A-hàm
quyển
15.
Hội Văn
hóa
Giáo
dục
Linh Sơn Đài Bắc
-
Taiwan, 2000.
10.
Tuệ Sỹ
dịch,
Kinh Trung A-hàm,
tập
2.
NXB.Tôn
Giáo, Hà Nội, 2008.
11.
Thích Hạnh Bình, Những vấn đề cốt lõi trong kinh Trung A-hàm.
NXB.Hồng
Đức, 2018.
12.
Thích Hạnh Bình,
Dị
bộ
tông
luân
luận.
NXB.Phương
Đông, 2016.
Tuệ Sỹ dịch,
Kinh Trung A-hàm
tập 2,
221, kinh Tiễn dụ,
NXB.Tôn Giáo, Hà Nội,
2008,
tr.633.
-
Thích Hạnh Bình, Những vấn đề cốt lõi trong kinh Trung A-hàm,
NXB.Hồng
Đức, 2018, tr.185.
Sa-môn
Thích Tịnh Hạnh, Đại
tập
5 - Bộ A-hàm
V - Trung A-hàm
biệt
dịch
& Kinh Tạp A-hàm
số
1, Tạp A-hàm
quyển
15,
kinh
365. “Thuyết
pháp”,
Hội Văn
hóa
Giáo
dục
Linh Sơn Đài Bắc
-
Taiwan, 2000,
tr.1041.
Sa-môn
Thích Tịnh Hạnh, Đại
tập
5 - Bộ A-hàm
V - Trung A-hàm
biệt
dịch
& Kinh Tạp A-hàm
số
1, Tạp A-hàm
quyển
2 -
kinh
33: “Phi
ngã”,
Hội Văn
hóa
Giáo
dục
Linh Sơn Đài Bắc
-
Taiwan, 2000, tr.588.
Sđd;
Tạp A-hàm
quyển
1 - kinh 1,
“Vô
thường”,
tr.528.
Pudgala được giải thích trong cước chú
“Dị
bộ
tông
luân
luận”,
TT.Hạnh Bình, tr.81.
Sa-môn
Thích Tịnh Hạnh, Đại
tập
5 - Bộ A-Hàm V - Trung A-hàm
biệt
dịch
& Kinh Tạp A-hàm
số
1, Tạp A-hàm
quyển
15,
kinh
365. “Thuyết
pháp”,
Hội Văn
hóa
Giáo
dục
Linh Sơn Đài Bắc
-
Taiwan, 2000,
tr.1041.
A-tỳ-đạt-ma
đại tỳ-bà-sa
luận,《阿毘達磨大毘婆沙論》卷16:
(CBETA, T27, no. 1545, p.80a16-22).
A-tỳ-đạt-ma
thức thân túc luận,
《阿毘達磨識身足論》卷3:
(CBETA, T26, no. 1539, p.547b22-24).