Vài dị đồng trong quan điểm về Phật thân của hai Bộ phái Phật giáo đầu tiên
vai di dong
VÀI DỊ ĐỒNG TRONG QUAN
ĐIỂM VỀ PHẬT THÂN
CỦA HAI BỘ PHÁI PHẬT GIÁO
ĐẦU TIÊN
Thích Quảng Minh
Quan
điểm về Đức
Phật có những khác
nhau trong
từng bộ phái
Phật giáo.
Khi các bộ phái Phật
giáo hiện diện
khắp cõi
Ấn Độ, tiếp cận
với mọi tầng lớp
quần chúng và với
những nền
văn hóa
địa phương
khác nhau,
họ đã
đưa ra
nhiều cách kiến giải khác nhau về
Đức
Phật để phù hợp nhân trí, tín ngưỡng, nguyện vọng của dân cư ở những nơi mà Tăng-già
truyền bá Phật pháp.
Chính từ nhiều yếu tố nội hàm và ngoại hưởng, Phật giáo Bộ phái đã xây dựng nên
học thuyết Phật thân bằng nhiều
quan điểm
khác biệt, đặc biệt
trong đó
là học thuyết
về Phật thân
của Thượng tọa
bộ
và Đại chúng
bộ.
Đầu tiên, về thân
Phật, Đại chúng
bộ
cho rằng:“Thân của chư Như Lai toàn là siêu xuất thế gian”,
và
“Sắc thân của chư Như Lai thật không có giới hạn”.
Ở đây các
luận sư cấp tiến của Đại
chúng
bộ
cố gắng xây dựng hình tượng
Đức
Phật toàn bích, siêu nhiên,
nhằm phù hợp tín ngưỡng tâm linh của dân tộc Ấn bấy giờ. Trong
khi
đó
Thượng tọa
bộ
lại đưa ra quan điểm
khác. Họ
cho rằng
Đức Phật cũng
“sinh
ra trong đời, lớn lên trong đời…”
như những người
khác, tức
cũng chịu sự tác động của thân người,
cũng chịu sự chi phối của lão hóa, bệnh tật và thương tích:
“Bạch Thế Tôn, màu da Thế Tôn nay không còn thanh tịnh, trong
sáng, tay chân rã rời, nhăn nheo, thân còm về phía trước và các căn đang bị đổi
khác...”.
“Lúc bấy
giờ, Thế Tôn bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh”.
“Chân Thế
Tôn bị miếng đá bể đâm phải. Cảm thọ Thế Tôn mãnh liệt...”.
Quan điểm đó muốn nói
rằng
Đức
Thế Tôn là một
con người lịch sử,
cũng chịu ảnh hưởng của thân thể vật lý chứ không siêu nhiên như nhận định của
Đại chúng
bộ.
Tuy nhiên, về
phương diện Phật thân chánh giác thì các luận sư Thượng
tọa
bộ
cũng thừa nhận những ưu việt phi thường của
Ngài:
“Này Cunda, món ăn mộc nhĩ còn lại, ngươi hãy đem chôn vào một
nơi...
Ta không
thấy một ai ở cõi Trời, cõi Người, ở Ma giới, ở Phạm Thiên giới, ...trong chúng
Sa-môn
và Bà-la-môn,
giữa những chư Thiên, Nhân ăn món mộc nhĩ này mà có thể tiêu hóa được, trừ Như
Lai.”.
Có thể nói, vì sinh
ra trong thế gian nên sinh hoạt thường nhật của
Đức
Như Lai cũng không khác biệt người thế gian. Trong
các
Nikāya,
Đức
Phật vẫn khất thực cùng chư Tăng:“Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng ấy, đắp y, đem
theo y bát vào thành khất thực”;
vẫn nghỉ ngơi:“Thế Tôn xếp y Sanghati (Tăng-già-lê) gấp bốn và nằm xuống như
cách nằm con sư tử, thân phía hữu, hai chân để trên nhau, chánh niệm tỉnh giác,
với tâm nghĩ đến lúc ngồi dậy”;
thậm chí khi tu tập thiền định dài hạn,
Ngài
cũng phải duy trì sự tiếp nhận vật thực:“Này các Tỷ-kheo,
Ta muốn thiền tịnh nửa tháng, không ai đến gặp ta, trừ vị mang vật thực.”
Thượng
tọa
bộ
ghi chép
rất kỹ về sinh hoạt
hàng này của
Đức
Phật nhằm nói
lên sự hiện hữu gần gũi
của vị giáo
chủ ở
thế gian. Ngược lại, Đại
chúng
bộ
mô tả
Đức
Phật vượt trội người thường.
Ngài không cần ngủ
nghỉ
và không có mộng mị:“Chư
Như Lai không ngủ và không mộng mị.”
Tuy nhiên, trong nhiều
đoạn kinh,
Thượng tọa
bộ
miêu tả Đức
Thế Tôn có nghỉ ngơi để phục hồi thể chất nhưng không đắm chìm như người thế
gian:“Thế Tôn xếp y Sanghati (Tăng-già-lê) gấp bốn và nằm xuống như cách nằm
con sư tử, thân phía hữu, hai chân để trên nhau, chánh niệm tỉnh giác, với tâm
nghĩ đến lúc ngồi dậy”;
hay “Ác Ma! Bậc Giác Ngộ/ Mọi sinh
y diệt tận/ Vị ấy nếu có ngủ/ Các ông làm được gì?”.
Điều
này
cũng lý
giải cho sự dị biệt khi nhìn nhận về thân thể của
Đức
Phật giữa hai bộ phái.
Vì Thượng tọa
bộ
chủ trương sự giác ngộ ở yếu tố tinh thần hơn thể chất nên họ tích cực xây dựng
Đức
Phật tại thế nhiều hơn xuất thế.
Bên cạnh đó,
trong khi
Đại
chúng
bộ
đưa ra quan điểm:“Tất cả Như Lai không còn hữu lậu”
để
bổ sung thêm cho sự
thánh hóa Phật thân thì Thượng
tọa
bộ
nhận định:“Nếu sinh thân Phật là vô lậu thì trái với Khế kinh. Như Khế kinh
nói: Vô minh che lấp, kiết ái trói buộc, kẻ ngu người trí đều có thức thân. Đức
Thế Tôn cũng thuộc về người trí, thân nhất định phải là quả báo của vô minh và
ái. Thế nên thân Phật nhất định là hữu lậu. Lại nếu thân Phật là vô lậu, thì
người nữ Vô Tỷ không nên đối với sinh thân Phật khởi tâm ái mộ. Chỉ Man đối với
Đức
Phật không nên sanh giận dữ. Các kẻ kiêu ngạo không nên sinh khinh mạn,
Ô-lư-tần-loa Ca-diếp-ba không sinh si mê...”
nhằm thế
hóa thân thể Đức
Phật. Các vị luận sư thuộc Đại
chúng
bộ
thậm chí
còn đưa ra quan
điểm:“Chất bài tiết của
Đức
Phật thù thắng hơn tất cả các mùi vị khác.”
Trong
khi vào
thời kỳ Phật giáo
Nguyên
thủy,
chính Đức
Phật đã
thừa nhận thân thể giả hợp này còn nhiều ô trược:“Thôi vừa
rồi, này Vakkhali, có gì đáng thấy với cái thân hôi hám này. Này Vakkhali, ai
thấy Pháp, người ấy thấy ta.”
Điều này
cho thấy rằng
cách nhìn của Thượng
tọa
bộ
thì
phù hợp với Đức
Phật lịch sử hơn cách
nhìn của Đại chúng bộ.
Tiếp theo là sự sai
khác về âm thanh của Đức
Phật.
Theo
quan điểm Đại chúng
bộ
thì
“Chư Như Lai chỉ
dùng một âm thanh nói tất cả pháp”,
tức là mọi loài chúng sinh
cảm ứng ngôn ngữ của Đức
Thế Tôn
bằng chính tiếng nói của mình.
Đồng
thời luận Tỳ-bà-sa
cũng dẫn bài kệ xưa
để nói lên điều này:
“Phật
dùng một tiếng diễn giải pháp/ Tùy loại chúng sinh
đều được hiểu/ Đều cho Thế Tôn đồng ngôn ngữ/ Riêng vì mình giảng nói nghĩa sâu”.
Vì các vị luận sư cấp tiến cho rằng
Đức
Phật thành tựu diệu âm nên khi thuyết pháp âm thanh phát ra tự chuyển hóa thành
ngôn ngữ mọi loài. Ở
thời hiện đại,
học giả Kimura Taiken lại nhận định khác rằng:“Phật dùng một tiếng, về nội
dung, tuy có thể giải thích nhiều cách, nhiều thức nhưng nếu nhận xét về vấn đề
quốc ngữ thì một tiếng, ít ra có thể giải thích là một quốc ngữ.”
Ông cho rằng có
một quốc ngữ chung vào thời đó
và
Đức
Phật đã dùng ngôn ngữ đó để thuyết pháp.
Ngược
lại, các luận sư Thượng
tọa
bộ
không đồng tình quan điểm
Đức
Phật dùng một tiếng nói chung để thuyết pháp:
“Không
phải một âm thanh của Phật nói được tất cả các pháp”.
Trong
Tỳ-bà-sa
luận
có ghi
chép
về việc hóa độ bốn vị Thiên vương.
Ở đó
Đức
Phật đã dùng ngôn ngữ Sanskrit để nói bài kệ cho hai vị Thiên vương
đầu tiên,
sau đó
dùng tiếng Tamil
(Nam Ấn) nói
cho vị kế tiếp,
và rồi dùng
tiếng Mleecha để độ vị cuối cùng.
Đồng
quan điểm với Thượng tọa
bộ,
các học giả hiện đại nhận định:“Đức Phật đã chọn sử dụng các địa phương ngữ
nơi Ngài
đi qua để thuyết pháp giáo hóa chúng sinh.
Khi vân du ở Magadha thì
Ngài
sử dụng tiếng Magadhi; khi lưu trú ở Jetavana thì sử dụng tiếng Kosala; khi ở
Kosambi thì sử dụng tiếng Bhasa; khi về Vesali thì sử dụng tiếng Vajji...”
Có
thể Đức
Phật là một nhà ngôn ngữ ưu việt thời đó,
tuy nhiên
không vì thế mà Thượng
tọa bộ
phủ nhận phạm âm vi diệu của
Đức
Phật, bởi vì
khi thuyết pháp
trong rừng
cho hơn một ngàn vị
Tỷ-kheo
cùng nghe thì phạm âm của
Đức
Phật đã trải
rộng và khuếch tán đến từng người.
Đó cũng là
biểu hiện của sự thần thông đặc dị.
Mặt khác,
về
phương diện tri kiến cũng có sự mâu thuẫn. Các luận sư Đại
chúng
bộ
cho rằng:“Chư Như Lai giải đáp các câu hỏi một cách không đợi suy nghĩ”;
hay“Chư
Như Lai thì tâm thức trong một sát-na
mà biết rõ tất cả pháp”.
Với
những nhận định đó, Đại
chúng
bộ
gián tiếp thừa nhận Đức
Phật là một bậc Nhất thiết
trí,
Nhất thiết
kiến
đối với vạn hữu. Điều này bị Thượng
tọa
bộ
cật lực phản đối:
“Khi Ta đi, khi Ta đứng, khi Ta ngủ và khi Ta thức, tri kiến luôn luôn tồn
tại, liên tục. Họ nói về
Ta
không đúng với điều đã được nói, họ đã vu khống Ta với điều không thực hư ngụy.”
Hay,
“Này các
Tỷ-kheo,
nếu Ta
nói rằng: Ta biết tất cả, cái gì trong toàn thế giới...
được thấy,
được ý tư sát. Như vậy, là có nói láo trong
Ta.”
Điều này
đã phủ nhận về một
Đức
Phật toàn tri toàn kiến trong mọi lúc. Theo các luận sư của Thượng
tọa
bộ,
Đức
Phật chỉ thấy biết tất cả mọi việc khi tác ý:“Sa-môn
Gotama là bậc có ba minh... Này Vaccha, khi nào
Ta
muốn, Ta sẽ nhớ đến đời sống quá khứ... với các nét đại cương và chi tiết... Này
Vaccha, nếu Ta muốn, với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, Ta thấy sự sống chết
của chúng sinh...
đều do hạnh nghiệp của họ.”
Nhờ
vào Tam minh mà Đức
Phật đạt được tri kiến chứ không theo tư tưởng toàn tri của ngoại đạo về Nhất
thiết
trí.
Thượng tọa
bộ
còn nhấn mạnh chính Đức
Phật tự tối ưu giáo thuyết của mình trước nguồn tri thức vĩ đại mà
Ngài
có:
“Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
thật là quá nhiều những gì Ta đã thắng tri mà không nói cho các ông! Thật là quá
ít những gì Ta đã nói ra!”.
Kế tiếp,
về
vấn đề Như Lai lực
thì cả hai bộ phái cũng tìm được tiếng nói chung.
Họ
đều thừa nhận Đức
Phật sở hữu những năng lực phi thường do công năng tu tập mà
Ngài
đạt được. Đại chúng
bộ
khẳng định:“Uy lực của
Đức
Như Lai không có giới hạn”;
còn Thượng
tọa
bộ
minh họa bằng nhiều hình ảnh như:“Thế Tôn đi đến sông Ganga (sông Hằng)...
Thế Tôn mau
lẹ như người địa lực sĩ duỗi cánh tay được co lại hay co lại cánh tay đã duỗi
ra, biến mất từ bờ bên này và hiện ra trên bờ bên kia với chúng Tỷ-kheo.”
Và,
“Khi ấy, con rồng không chịu nổi sự khổ sở nên đã phun ra
lửa. Đức Thế Tôn cũng nhập thiền đề mục lửa và đã phun ra lửa”.
Quan điểm trên cho thấy rằng
Đức
Phật sở hữu sức mạnh siêu nhiên cùng những công năng đặc dị nhưng cuộc đời Ngài
không chủ trương lấy thần thông lực mà hóa độ chúng sinh,
thay vào đó là sự minh triết
có được từ
thiền định và trí tuệ.
Cuối cùng là về thọ
mạng của Đức
Như Lai. Về phía Thượng
tọa
bộ,
họ chủ trương rằng Đức
Phật như những người
khác, có thọ
mạng thân thể
ngắn ngủi:“Này
Sariputta, nay Ta đã già, niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đi
đến cuối cuộc đời, tuổi ta nay đã đến tám mươi”.
Nhưng lại có
đoạn để cập đến
công năng kéo dài tuổi thọ của
Đức
Phật:“Này Ananda, nay Như Lai đã tu bốn thần túc... Như lai có thể sống đến
một kiếp hay phần kiếp còn lại.”
Tuy nhiên, thọ mạng
của Đức Phật
không phải kéo dài
vô tận như Đại chúng
bộ
nhận xét:
“Thọ
lượng của chư Như Lai càng không có giới hạn”.
Vì Đại chúng
bộ
nhận định về thân thể mang tám mươi vẻ đẹp của
Đức
Phật chỉ là báo thân thế gian và sanh thân mang thọ mạng con người như Thế Tôn
cũng là ứng hóa thân thị hiện,
nên
chỉ có pháp thân
Như Lai mới thọ lượng vô tận. Chính pháp thân Như Lai ấy
có mặt
trong mỗi
con người,
hay mỗi hành giả tu tập giác ngộ đều là một thực thể Như Lai riêng biệt. Có thể
nói, mỗi
khi chúng sinh
còn tồn tại thì chính thể giác ngộ hay Phật quả còn tồn tại, nên thọ mạng của
Như Lai như là thọ mạng của chúng sinh.
Về sau, ngài Nghĩa Tịnh có thuyết kệ:“Tỳ gia thành lý bất tằng sanh/ Sa-la
thọ giang bất tằng diệt/ Bất sanh bất diệt lão Cù Đàm...”
để nêu lên sự bất sinh
bất diệt của Phật quả.
Thông qua các tỷ
giảo trên, chúng ta thấy rõ quan điểm riêng của từng bộ phái trong
việc
nhìn nhận về cuộc đời và công năng của
Đức
Phật. Thượng tọa
bộ
tích cực đề cao Đức
Phật nhân loại, rằng
Ngài có thọ
mạng, nhân thân, sinh hoạt bình thường như con người trong thế gian nhưng cũng
siêu việt bởi năng lực đạt được do tu tập. Đại
chúng
bộ
cố gắng siêu việt
hóa mọi chi
tiết liên quan tới Đức
Phật. Đối
với họ, Đức
Phật phải phi thường từ nội hàm đến ngoại tướng. Thực chất, nhận định của mỗi bộ
phái nhằm truyền tải những tư tưởng tu tập nhất định.
Quan điểm
Đức
Phật từ nhân loại thành đạo quả của Thượng
tọa
bộ
nêu cao sự tự lực trong phương hướng hành trì, còn học thuyết
Đức
Phật siêu xuất thế gian của Đại
chúng
bộ
đại diện cho tha lực để chúng sinh
nương tựa. Những nhà
Thượng
tọa
bộ
chủ trương giữ gìn truyền thống tu tập tự thân từ thời
Đức
Phật nên họ lược đi những yếu tố huyền thoại về
Ngài
để tôn vinh giá trị nhân bản, còn các luận sư cấp tiến của Đại
chúng
bộ
lựa chọn canh tân giáo lý, phát triển hệ tư tưởng Phật học lên thành tín ngưỡng
nhằm thể nhập đại bộ phận quần chúng với mục đích khuyến tu dưới ảnh hưởng tha
lực của chư Phật. Cho nên, dù tự lực hay tha lực, sự giác ngộ tối hậu của tu tập
giải thoát cũng là trưởng thượng
Đức
Phật tiềm ẩn trong bản thân của chính chúng ta.