Quán Tâm
QUÁN TÂM
QUÁN
TÂM
Thích Trung Hữu
Khi nói đến
“tu”
người ta thường nhắc đến chữ tu
tâm,
tức là tu cái tâm
của mình. Tuy nhiên, tu
tâm
cũng có nhiều khía cạnh, cấp độ khác nhau, từ cạn đến sâu, từ nghĩa thông thường
như tu tâm dưỡng tánh cho đến việc quán
tâm
để đạt đến giác ngộ giải thoát.
Hòa thượng Thích
Thiền Tâm có viết hai
quyển sách, là quyển Tu
tâm
và quyển Dưỡng
tánh,
để dạy người ta sửa đổi những tâm ác, những thói hư tật xấu (tu tâm) và nuôi
dưỡng, bồi dưỡng và phát triển những đức tính
thiện lành, tốt đẹp đã có nơi mình (dưỡng tánh). Tham lam, trộm cắp, tà hạnh,
nói dối, ngã mạn, ganh tỵ, lười biếng, nóng giận... là những tính
xấu ác cần nên từ bỏ. Còn những đức tính
tốt đẹp như chân
thật, khiêm
nhường,
rộng lượng, vị tha, yêu thương con người và động vật, hay có lòng giúp đỡ người
có hoàn khó khăn... là những đức tính
tốt nên nuôi dưỡng và phát triển cho ngày càng lớn hơn. Trong cuộc sống không
thiếu những người từng làm điều xấu ác, nhưng sau khi có duyên gặp Phật pháp, họ
liền “hồi đầu thị ngạn”, “phóng hạ đồ đao”, bỏ hết những thói hư tật xấu và tích
cực làm việc thiện, trở thành một người “Tạt nhật dạ xoa tâm, kim triêu Bồ-tát
diện”, lấy việc giúp đỡ người khác làm ý nghĩa đời sống của mình.
Những người như
trên được gọi là người tốt trong xã hội, và xã hội rất cần những người như thế
để giúp đỡ và xoa dịu nỗi đau cho những người bất hạnh khác, góp phần ổn định và
tạo nên một xã hội nhân văn đầy tình người. Đối với một người bình thường hay
một Phật
tử thì như thế là tốt rồi,
tuy nhiên
đối với người xuất gia thì bao nhiêu đó chưa đủ. Người xuất gia ở chùa không chỉ
làm một người tốt bình thường mà còn phải là người có đời sống tâm linh sâu sắc,
vượt lên những giới hạn của phàm phu để chứng nhập vào dòng
Thánh.
Mà muốn được như vậy thì người tu không chỉ làm từ thiện, không chỉ nghiên cứu
kinh sách để giảng dạy mà còn phải đi sâu vào nội tâm của mình, đem cả thân tâm
của mình ra để mà tu tập. Nói cách khác, nếu bạn muốn chứng đạt thì bạn không
chỉ làm những việc bên ngoài mà bạn phải biết quán
tâm.
Nếu bạn không biết quán
tâm,
không thực hành quán
tâm,
chưa từng trở về và sống với
tâm
mình thì bạn chưa gọi
là tu gì cả.
Chưa biết quán tâm tức là chưa biết đường lối, cách thức tu, chưa biết cửa vào
đạo
vậy. Tu mà không quán
tâm
lại
mong được giác ngộ thì chư Tổ gọi đó là lấy cát mong nấu thành cơm. Gạo nấu mới
thành cơm chứ cát thì dù nấu cho đến ngàn năm cũng không thể thành cơm được,
không thể ăn được.
Quán
Tâm là
“con
đường độc nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh, vượt khỏi sầu bi, diệt trừ
khổ ưu, thành tựu chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn”. Đức Phật nói “con đường độc
nhất” khi đề cập đến thiền Tứ niệm xứ, nhưng ta không nên hiểu một cách máy
móc, hạn hẹp là chỉ có
thiền Tứ niệm xứ mới là con đường độc nhất. Thiền không phải là
một pháp môn cụ thể, riêng biệt nào
mà thiền là bất cứ điều gì có xu hướng hướng hướng vào tâm, vào bên trong của
chúng ta, là
ý thức về thực tại của thân tâm một cách chánh niệm và đầy hiểu biết.
Dù cho bạn có tu pháp môn này hay pháp môn kia, nhưng nếu pháp môn đó không gắn
liền với tâm, xa rời tâm thì pháp môn đó sẽ không thể nào đưa đến giác ngộ và
giải thoát; ngược lại pháp môn nào đặt dưới sự quán chiếu của tâm thì đó là pháp
môn đúng đắn mà Đức Phật đã dạy, có thể đưa đến Niết-bàn. Chính vì điều này mà
có người đã định nghĩa chữ “ngoại đạo” là đạo hướng ra ngoài, là ngoài tâm mà tu,
thiết nghĩ cũng quá đúng. Dù bạn mang hình thức Phật giáo nhưng nếu ngoài tâm mà
tu thì bạn vẫn là ngoại đạo ở trong Phật Pháp mà thôi.
Trong Khóa hư lục của
vua Trần Thái Tông có một bài kệ như thế này:
Tỷ trước chư hương, thiệt
tham vị
Nhãn manh chúng sắc, nhĩ
văn thanh
Vĩnh vi lãng đãng phong
trần khách
Nhật viễn gia hương vạn lý
trình.
Nghĩa là:
Lưỡi vướng vị ngon, tai
vướng tiếng
Mắt theo hình sắc, mũi
theo hương
Lênh đênh làm khách phong
trần mãi
Ngày hết, quê xa vạn dặm
đường.
Bài kệ này đã nói lên một
cách chính xác và sâu sắc triết lý cũng như phương pháp tu của Phật giáo, rằng
tu là hướng vào trong chứ không phải chạy theo bên ngoài. Hướng vào trong mới là
con đường trở về nguồn cội, còn chạy ra bên ngoài thì càng chạy càng xa chân tâm
bản tánh của mình. Xa đến nỗi quên cả đường về.
Rồi năm này qua năm khác, đến gần cuối cuộc đời mà vẫn là kẻ lạc loài nơi đất
khách của ngũ dục lục trần, còn ngôi nhà tâm linh của mình thì ở đâu đó rất xa.
Đến đây thiết tưởng
cũng cần nói qua một chút về
tâm
là gì và quán tâm
là như thế nào. Tâm tức là
chân
tâm của mình, là Phật tính, là
tánh
biết, là bản
lai diện mục... Trong Phật pháp,
tâm
có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo tông phái, pháp môn, nhưng đều có đặc tính
là “thường
tịch quang”, tức là cái biết thường hằng và thanh tịnh. Tình cảm, cảm xúc và suy
nghĩ thì khi có khi không, còn cái biết ấy thì lúc nào cũng có mặt. Nó lúc nào
cũng có nhưng chúng ta không nhận ra để sống với nó mà chỉ sống với tình cảm,
cảm xúc, suy nghĩ, là những thứ do duyên hợp và rất vô thường. Tu chính là nhận
ra và sống với cái tâm
thường biết đó. Thấy được cái
tâm
đó gọi là kiến đạo, sống với cái tâm đó là tu đạo, và khi đã trở thành một với
cái tâm
đó gọi là chứng đạo. Đó là nói về chữ
tâm,
còn quán tâm
là như thế nào? Là dùng
tâm
ấy để nhận biết những gì khởi lên như tư tưởng, suy nghĩ, cảm xúc... Khi chúng
khởi lên ta biết chúng khởi lên, khi chúng hiện diện ta biết chúng đang hiện
diện, và khi chúng biến mất ta biết chúng đã biến mất. Khi những cái đó biến mất
rồi thì cái tánh biết đó vẫn còn. Cái
tánh
biết đó như một người quan sát lúc nào cũng có mặt để quan sát các hiện tượng
khởi lên. Chỉ quan sát thôi chứ không chạy theo, quan sát một cách tỉnh táo. Và
trong khi quan sát như vậy, ta vẫn không rời
chân
tâm hay tánh
biết của mình.
Khi chúng ta tham,
chúng ta biết là mình có tâm tham và (lầm tưởng) cho rằng lý trí ta biết;
thế
nhưng khi lý trí biết thì cái gì biết là lý trí biết? Hẳn nhiên lý trí không thể
tự biết nó đang biết. Phải có cái gì khác biết lý trí đang biết. Cái đó chính là
tánh
biết sẵn
có nơi mọi chúng sinh.
Những thứ mà con người sử dụng trong cuộc sống như tâm lý, tư tưởng, tình cảm,
cảm xúc, tư duy, sáng tạo… đều có nguồn gốc từ
tánh
biết ấy, dưới tác động của ngoại duyên. Lấy ví dụ như sự sáng tạo của con người.
Con người sáng tạo ra nghệ thuật hay sáng chế ra các thứ từ vật dụng hàng ngày
cho đến bom nguyên tử,
và
con người (lầm
tưởng) rằng đó là do lý trí, nhưng
thật ra không phải. Lý trí chỉ là sự tập hợp những học hỏi, kinh nghiệm. Vậy sự
sáng tạo có phải do cảm xúc? Cảm xúc thuộc về tình cảm, không có khả năng nhận
thức thì làm sao sáng tạo, phát minh được. Lý trí và cảm xúc, hay sự kết hợp của
chúng đều không có khả năng sáng tạo. Lý trí không khác gì cái máy nếu như không
có nền tảng là tánh
biết. Sự kết hợp giữa lý trí, cảm xúc dưới nền tảng của
tánh
biết nữa mới phát sinh sự sáng tạo. Tánh biết ấy luôn luôn chi phối, tác động
lên con người nhưng con người không biết. Con người tưởng đâu tất cả chỉ là do
những gì họ học hỏi được.
Người càng sống
được với tánh
biết thì càng trở nên thông thái, bởi vì trong
tánh
biết có đủ tất cả. Lục Tổ Huệ năng sau khi đại ngộ đã thốt lên rằng“Chẳng ngờ
tự tánh xưa nay vốn tự đầy đủ”. Đối với
Đức
Phật, những gì Đức
Phật dạy là do Ngài
tự biết chứ đâu phải do kiến thức
Ngài
học từ trước từ người khác. Ai hỏi cái gì
Đức
Phật cũng trả lời được, mà những lời
Ngài
nói ra đều phù hợp với chân lý. Tổ Huệ Năng không đọc,
học kinh điển nhưng ai hỏi nghĩa lý kinh điển ngài đều giải thích rõ ràng,
mà
những lời giải thích của ngài lại còn đúng hơn, còn hay hơn những người được gọi
là chuyên gia về kinh điển nữa. Ví như pháp sư Ấn Tông, một người chuyên về kinh
Niết-bàn,
sau khi gặp Huệ Năng và nghe Tổ giảng giải đã rất thán phục và thừa nhận với Tổ
rằng: “Tôi giảng kinh ví như ngói gạch, nhân giả luận nghĩa ví như vàng ròng”.
Sở dĩ như thế là vì những gì pháp sư Ấn Tông giảng là do học được, mà cái học
được từ bên ngoài thì có khi trúng, khi trật, cũng như bị pha tạp với thành kiến
của phàm phu; còn những gì Lục Tổ giảng là xuất phát từ tâm giác ngộ, là vàng
nguyên khối.
Mới hay chân
tâm bản tánh chỉ là một, khi trở về với
chân
tâm bản tánh đó rồi thì “Tâm - Phật - chúng sinh,
tam vô sai biệt”, “Phật Phật đạo đồng”. Chính vì điều này mà tôi nghĩ rằng, nếu
tâm mình thanh tịnh thì mình sẽ suy nghĩ giống như Phật, còn tâm mình mà không
thanh tịnh, còn tham sân si thì dù mình có học kinh điển gọi là uyên bác
tới đâu đi nữa cũng không thể nào hiểu đúng ý nghĩa chân thật của kinh được.
Mối quan hệ giữa
tánh
biết và các hiện tượng tâm lý, tinh thần là mối quan hệ giữa nước và sóng. Sóng
được hình thành từ nước dưới tác động của gió. Sóng là nước nhưng sóng không
giống như nước. Sóng không giống như nước nhưng sóng cũng chính là nước. Người
ngộ đạo là người trong khi hoạt động với sóng nhưng vẫn sống với tánh nước của
sóng. Tuy an trú trong tánh nước nhưng vẫn tùy duyên theo sự thay đổi của sóng.
Một ví dụ khác là vàng và đồ trang sức. Vàng thì nguyên khối nhưng đồ trang sức
thì có đủ các loại như cà rá, nhẫn, dây chuyền hay các đồ vật khác... Cho nên ở
nơi chân lý tuyệt đối không có những khái niệm nhị nguyên như thiện ác, nam nữ,
thánh phàm... Vàng thì chỉ là vàng thôi chứ đâu có ai nói vàng đực, vàng cái;
nhưng khi làm ra đồ vật thì người ta có thể tạo ra đủ các hiện tượng. Người chưa
giác ngộ thì sống với đồ trang sức, còn người giác ngộ thì sống với tánh vàng
của những đồ vật đó. Đồ trang sức thì thay đổi còn tánh vàng thì muôn đời vẫn
vậy. Đó là lý do tại
sao phàm phu thì đau khổ trước sự sinh diệt, đổi thay của vạn pháp, còn bậc
giác ngộ thì không. Bởi vì họ không sống với sóng và đồ trang sức mà họ sống với
nước và vàng, cho nên giữa muôn ngàn biến đổi họ vẫn như như bất động.
Khi chúng ta thường
xuyên sống với chân
tâm của mình cũng như biết quán
tâm
như thế, cuộc sống của ta sẽ dần dần thay đổi một cách tốt đẹp. Ta sẽ trở nên
bình tĩnh hơn, sáng suốt hơn, thấy và nhận định sự việc một cách khách quan và
đúng với bản chất của sự vật, sự việc, những thói quen không tốt trước đây ta cố
gắng bỏ mà không bỏ được thì giờ chúng dần dần không còn nữa, ta cũng không còn
cảm thấy cô đơn khi ở một mình nữa... Đó là những tác dụng trước mắt của người
biết quay lại sống với chính mình mà người nào thực hành đều có thể nhận ra. Còn
tác dụng cuối cùng của nó chính là giác ngộ. Giác ngộ không thể tìm trong kinh
sách mà chỉ có thể tìm nơi thân tâm của mình, bởi vì đơn giản giác ngộ là giác
ngộ cái tâm
này chứ không phải cái gì khác bên ngoài.
Và trong vũ trụ này
cũng chỉ có loài người mới có đủ tố chất tốt nhất để quán
tâm
và giác ngộ. Các loài thực vật thì vô tri vô giác. Các loài động vật có tri giác
nhưng không đủ nhận thức về thân và tâm của chúng. Một số loài động vật sống và
hoạt động như một cái máy, không hề ý thức được sự tồn tại, hiện hữu của bản
thân. Ví dụ như con chó nhìn vào gương thấy cái bóng của nó nhưng nó tưởng đâu
đó là một con chó khác chứ không phải là cái bóng của nó. Hay thỉnh thoảng ta
thấy con rắn cắn và ăn cái đuôi của nó, vì nó tưởng đó là con mồi chứ không phải
là một bộ phận của thân nó.
Điều đó chứng tỏ con chó và con rắn không ý thức về sự tồn tại của chúng.
Con người thì phát triển rất cao, không chỉ ý thức về sự hiện hữu của mình mà
còn ý thức được mình có một cái
tâm
cũng như khả năng sử dụng cái
tâm
đó để làm việc,
tu tập. So sánh một
chút như thế để thấy rằng con người được sinh ra không chỉ để sống một cuộc sống
bình thường như các loài khác mà còn để phát triển tâm linh.
Và phát triển tâm linh là
nhân cách cao nhất của con người. Cho nên không lạ gì trong suốt hàng ngàn năm
lịch sử nhân loại, không hiếm những người đã từ bỏ sự hưởng thụ thế gian để dấn
thân vào con đường tâm linh và Đức Phật là một trong những người như thế
vậy.
Nhìn lại Phật giáo
(Việt Nam) hiện nay, ta thấy rằng đa phần
Tăng
Ni
ngày nay hoạt động hướng ngoại nhiều hơn là tu tập để giác ngộ. Những việc làm
để phục vụ xã hội, cưu mang những người bất hạnh không phải là không cần thiết,
nhưng thử nghĩ xem, nếu đi tu chỉ là để nấu cơm cho các bệnh viện thì có uổng
phí một đời tu quá không? Bỏ thế gian để đi tu thì phải đạt được cái gì hơn thế
gian mới xứng đáng chứ.
Một người bình thường ngoài
đời, học xong lớp 12 rồi vào đại học, rồi đi làm công chức nhà nước hoặc công
tác xã hội, rồi thành gia lập thất thì gọi là người thành đạt, có công danh sự
nghiệp. Một người tu cũng vậy, học xong lớp 12 rồi vào đại học Phật giáo, rồi ra
làm việc Giáo hội hoặc làm công tác xã hội, có duyên thì được trụ trì một ngôi
chùa thì gọi là người thành tựu đạo nghiệp. Vậy thì giữa sự nghiệp thế gian và
đạo nghiệp trong đạo có gì khác nhau? Nếu đạo nghiệp được hiểu theo nghĩa đó thì
danh xưng tuy khác nhau mà tính chất không có gì khác, vẫn phấn đấu để thăng
quan tiến chức, vẫn hoạt động để hơn người khác. Chỉ khác là người đời có gia
đình còn người tu thì độc thân. Mà nếu vậy thì đạo nghiệp của người tu thua sự
nghiệp của người thế gian rồi. Vì người thế gian có thể hưởng tất cả các thứ dục
lạc, còn người tu thì không. Như vậy đi tu có ích lợi gì đâu.
Không những không
đạt được mục đích cao thượng mà ngay cả những hưởng thụ bình thường của đời
người cũng không có. Như vậy là mất cả chì lẫn chài
rồi.
Có lần có người
thấy tôi được Phật
tử cúng dường thì
nói rằng đi tu sướng quá, được cái này cái kia. Tôi liền nói rằng nếu muốn được
cái này cái kia thì tôi không đi tu. Vì ở trong chùa dù có hưởng thụ vật chất
thì cũng làm sao bằng người đời cho được. Nếu muốn hưởng thụ vật chất thì ở
ngoài đời hưởng thụ đầy đủ và dễ dàng hơn. Đi tu chính là
để tìm những giá trị cao thượng hơn, chân thật hơn; chứ nếu người đời ông nọ bà
kia mình cũng bà kia ông nọ, người đời nhà cửa đất đai mình cũng đất đai nhà cửa
thì có hơn họ gì đâu. Mà
nói thật, người đời gọi là đại gia nghe còn được, còn có chút tự hào vì đó cũng
là biểu hiện phần nào của sự thành đạt, chứ người tu mà gọi là đại gia nghe có
gì đó sai sai, vì người tu được cho là người không sở hữu mà sao
lại có nhiều
tài sản vậy? Hơn nữa người tu dù có tiền thì cũng là do người ta cúng chứ đâu
phải do tự mình làm ra, thì có gì mà tự hào. Người đời được khen giàu thì tự hào
chứ người tu mà khen giàu thì chính là một sự mỉa mai.
Rồi một đời luống qua, mấy
mươi năm ở chùa cũng vẫn là một phàm phu, vẫn trôi lăn trong sinh tử luân hồi
như bao nhiêu giám đốc, đại gia khác. Coi như một kiếp ở chùa không được gì
cả.
Nhiều
người nói rằng tu thời đại ngày nay không thể giác ngộ, chứng quả. Có lẽ là vậy.
Nhưng sao ta không đặt câu hỏi và nghiêm túc tìm câu trả lời là tại sao lại như
vậy? Và nếu tu không thể giác ngộ thì đi tu là ta theo đuỗi cái gì, tìm cầu cái
chi trên con đường mà mình đang đi? Tôi nghĩ rằng, có lý tưởng, mục tiêu đúng dù
không thành tựu
được vẫn tốt hơn là không có lý tưởng hoặc mục tiêu sai. Nếu ta đặt mục tiêu
là
giác ngộ thì giác
ngộ là điều quan trọng nhất đối với ta và do đó ta sẽ không quan trọng những thứ
khác. Nhưng nếu mục tiêu giác ngộ không có thì ta sẽ chạy theo những mục tiêu
khác, ta sẽ quan trọng những thứ khác, lấy những thứ khác để tô điểm cuộc đời
mình, và chúng ta sẽ biến Phật giáo thành một tổ chức xã hội nào đó chứ không
còn là con đường giác ngộ của
Đức
Phật ngày xưa nữa.
Nhưng than ôi, trong Phật giáo ngày nay có mấy người lấy giác ngộ làm mục tiêu
của đời mình?
Trên đây là những
trình bày về tâm
và quán tâm
trong sự tu tập. Đây chỉ là kiến giải của cá nhân người viết. Nó có thể đúng mà
cũng có thể sai, chỉ
là nêu ra để mọi người cùng tham khảo mà thôi.