Đời Thay Đổi Khi Tâm Chúng Ta Thay Đổi
New Page 1
Sơn An
Những khám phá gần đây của nền Vật lý hiện đại cho thấy một số quan niệm của 
Phật giáo cần phải được xem xét lại… Kể từ thế kỷ 20, nhiều khái niệm và lý 
thuyết đã được phát biểu hoàn toàn mới, trong đó vai trò của Ý thức trở thành 
một luận điểm then chốt. Người ta thấy không thể rạch ròi tách rời Ý thức con 
người ra khỏi thực tại vật lý được. 
Khái niệm trung tâm của vật lý từ xưa đến nay là Vật chất. Trong vật lý cổ 
điển, Vật chất là những hạt cứng chắc bất hoại. Trong vật lý nguyên 
tử, người ta thấy nó dường như là một cơ cấu trống rỗng với hạt nhân 
và những electron tí hon. Robert Oppenheimer (1904-1967), nhà vật lý xuất sắc 
người Mỹ, từng viết về hạt electron: Khi ta hỏi, liệu electron vẫn giữ nguyên vị 
trí hay không? ta phải trả lời là "không"; Khi ta hỏi, liệu vị trí electron có 
thay đổi theo thời gian không? ta phải trả lời là "không"; Khi ta hỏi liệu 
electron nằm yên? ta phải trả lời là "không"; Khi ta hỏi liệu nó đang vận động? 
ta phải trả lời là "không". Oppenheimer nói thế vì mỗi lần con người quan sát 
electron, ta lại thấy hạt, nhưng không thể biết trước đó nó ở đâu và sau đó nó ở 
đâu, nên chỉ có thể cho nó một tính chất xác suất. Và trong nền vật lý hạ 
nguyên tử, người ta thấy Vật chất gồm các hạt hoán chuyển được với 
nhau và có thể biến thành Năng lượng. 
Vật lý hiện đại xem Khối lượng là một dạng của Năng lượng, xem một Vật chất 
nằm im thật ra là Năng lượng đang hội tụ, xem Vật thể như là một "Hiện tượng", 
cách nhìn đó rất phù hợp với quan điểm của Duy thức Phật giáo. Vật lý không chấp 
nhận hình ảnh một “Thượng đế toàn năng”, nhưng với Duy thức, vật lý gặp một khái 
niệm tương tự, đó là Thức. Thức biến hiện ra mọi thứ, sinh ra thực tại vật lý 
lẫn toàn bộ tâm lý. Nhưng Thức khác với Thượng đế ở chỗ: nó vô ngã, nó vận hành 
vô chủ.
Theo Duy thức, Thức thứ 8: A-lại-da thức là nơi tàng trữ tất cả tập khí, kinh 
nghiệm, khả năng, mong ước, tư duy... trong dạng hạt giống, chủng tử. Những 
chủng tử khi đủ điều kiện thì sẽ hiện hành, như những hạt mầm đủ hơi ẩm, ánh 
sáng sẽ đâm chồi nẩy lộc. Đặc biệt, A-lại-da thức không thẩm định mọi chủng tử 
đó, nó không đánh giá chủng tử là tốt hay xấu, lành hay dữ, gây an vui hay đau 
khổ cho người mang nó. Thậm chí về sau, khi giác ngộ, Thức này biến thành Trí 
thì trí này cũng chỉ là "Đại viên cảnh trí", là tấm gương tròn đầy chiếu sáng 
mọi sự, không phân biệt. Sự thẩm định về tốt xấu, hay dở, thiện ác là nhiệm vụ 
của Thức thứ 7 (Mạt na thức) và Thức thứ 6 (Ý thức).
Tất cả mọi kinh nghiệm của con người trong cuộc sống được lưu giữ trong 
A-lại-da thức như những hạt giống và những hạt giống đó sẽ nẩy mầm khi đủ điều 
kiện. Mỗi hoạt động trong đời sống của chúng ta, đều để lại chủng tử trong 
A-lại-da thức. Tất cả các biến cố đó dù là: năng lực, tư duy, thói quen, hành 
động, yêu thương, thù hận, xúc cảm, ức chế, v.v… cũng thế. Nói chung là toàn bộ 
đời sống trên ba bình diện: Thân (hành động) - Khẩu (lời nói) – Ý (suy nghĩ) đều 
để lại dấu vết trong A-lại-da thức. Một khi chúng để lại chủng tử thì cá thể sẽ 
giải đáp, sẽ "thanh lý" chúng bằng cách sống thực, nếm trải thực, chứng nghiệm 
những dấu vết đó khi có đủ nhân duyên và do đó chiêu cảm những hoàn cảnh nhất 
định đến với mình.
Vì thế, kẻ giết người sẽ bị giết lại, kẻ dối trá sẽ bị lừa đảo, kẻ ích kỷ sẽ bị 
cô đơn, kẻ bủn xỉn sẽ bị nghèo khổ, kẻ ham học sẽ được sáng dạ, kẻ hay giúp sẽ 
gặp người ơn, kẻ yêu nhau sẽ gặp lại nhau để chung sống, kẻ ghét nhau cũng sẽ 
gặp lại nhau vì còn nợ nần nhau, kẻ thù nhau cũng gặp lại nhau để báo oán… Những 
hoàn cảnh đó xuất hiện một cách "tự động", không cần ai xem xét và dàn xếp. 
Chúng đều là những sự trình hiện của Thức cho từng cá thể và cơ chế cộng nghiệp 
sẽ đem những cá thể có liên hệ với nhau lại gần nhau, trong đó nhiều thế giới 
cùng lồng vào nhau không hề ngăn ngại. Trong sự tác động này của Nghiệp, điều bí 
nhiệm nhất là mối quan hệ giữa cộng nghiệp (nghiệp chung của một nhóm người) và 
biệt nghiệp (nghiệp riêng của mỗi cá thể). Chúng đan kết vào nhau vô ngại, biến 
hóa thiên hình vạn trạng và tạo cho ta có cảm tưởng như chỉ có một thế giới duy 
nhất. 
Hãy lấy một thí dụ, thông thường khi chúng ta lái xe đến ngã tư, gặp đèn đỏ 
thì dừng, gặp đèn xanh thì đi tiếp. Giả định rằng có một người bị mù màu, đối 
với anh ta, tín hiệu đèn giao thông không phải là màu sắc, mà theo thứ tự trên 
dưới, đèn phía trên (đỏ) sáng thì dừng, đèn phía dưới (xanh) sáng thì đi. Chúng 
ta không hề biết anh ấy bị mù màu, không biết anh ấy nhìn đèn giao thông khác 
chúng ta, bởi anh ấy tuân theo hiệu lệnh đèn giao thông như chúng ta. Thậm chí 
nói miệng với nhau thì anh ta cũng gọi là "đèn xanh, đèn đỏ" như chúng ta. Nhưng 
trên thực tế đã có hai cây đèn: cây đèn xanh - đèn đỏ cho chúng ta và cây đèn 
trên - đèn dưới cho anh ấy. Tương tự như vậy, vũ trụ hiện ra tùy theo nghiệp lực 
của mỗi người.
Albert Einstein (1879-1955), là người triển khai thuyết Tương đối cách đây 
đúng một thế kỷ. Vào thời kỳ đó, người ta cho rằng nền vật lý đã phát triển hết 
mức rồi, và những khám phá sau này chỉ thêm được những con số thập phân nằm sau 
dấu phẩy mà thôi. Nhưng với thuyết Tương đối và lý thuyết Cơ học lượng tử của 
Einstein, đã đóng góp rất nhiều cho nền vật lý hiện đại ngày nay. Einstein nhận 
giải Nobel vật lý năm 1921, ông được coi là nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ 
20 và là một trí thức lỗi lạc nhất trong lịch sử. Suốt một trăm năm qua, hai nền 
vật lý Tương đối và Lượng tử đã phát triển cao độ với những lý thuyết mới cũng 
như các phương pháp thực nghiệm mới. Giúp người ta có thể nghiên cứu từ lĩnh vực 
vô cùng nhỏ của nguyên tử và hạ nguyên tử đến mức độ vô cùng lớn của các thiên 
hà cách ta hàng tỉ năm ánh sáng. Trong quá trình khảo sát, nền vật lý lượng tử 
phát hiện rất nhiều "nghịch lý". Những nghịch lý đó nêu lên những câu hỏi quan 
trọng về nhận thức luận.
Trong thời điểm hiện nay, theo thuyết Lượng tử, vật chất có một số đặc tính 
"nghịch lý" điển hình sau đây:
Nghịch lý 1: Các đơn vị vật chất (thí dụ electron) có những đặc tính 
khác nhau. Khi thì nó xuất hiện như những hạt (dạng hữu hình), khi thì như sóng 
(dạng vô hình), tùy theo điều kiện xung quanh và tùy theo các phương tiện quan 
sát và dò tìm chúng (tức là tùy thuộc vào nhân duyên). Đặc tính này được xem là 
một nghịch lý vì sóng và hạt là hai dạng tồn tại của vật chất hoàn toàn khác 
nhau, loại bỏ lẫn nhau. Thế nhưng hai dạng tồn tại đó của vật chất được kết quả 
thực nghiệm thừa nhận một cách thuyết phục, thậm chí thiết lập mối quan hệ về 
toán học giữa hai bên một cách dễ dàng (phương trình Sóng-Hạt của Schrodinger, 
Nobel vật lý năm 1933).
Nghịch lý 2: Vì nguyên lý bất định (do Heisenberg khám phá ra, Nobel 
vật lý năm 1932) nên ta không thể nào biết được một electron có chức năng gì và 
nó đang ở đâu, một electron có thể có mặt ở nhiều nơi cùng một lúc, cách hiểu 
này hoàn toàn mới lạ so với vật lý học cổ điển, vốn cho rằng mọi vật đều có tính 
cách chỉ định. 
Trong kinh Hoa Nghiêm có lần Đức Thế tôn có mặt một lần ở cả ba cõi: Ngài đến 
thăm cõi trời Dạ ma, đồng thời cũng có mặt ở cõi Ta-bà và cõi trời Đao-lợi nữa. 
Trong thời hiện đại ngày nay thì có nữ thiền sư Dipa Ma (1921-1989) người Ấn độ 
có thể cùng một lúc phân thân ra ở hai nơi. Cuộc đời bà được ghi lại trong sách 
"Knee Deep In Grace" (một sưu khảo của Amy Schmidt, bản dịch Việt ngữ là "Ngập 
Sâu Trong Ân Sủng"). Sau đây là một trích đoạn trong sách:
"Đôi khi Dipa Ma và em bà là Hema đi đến trình pháp với thiền sư Munindra 
(người thầy của bà) bằng cách bất thần hiện hình lên trong phòng ông, và Dipa Ma 
cũng có lúc bước ra khỏi phòng xuyên qua cánh cửa khép chặt. Cũng tựa như trò 
đùa, bà đứng lên khỏi ghế, bước tới vách gần đó và đi ngang qua tường.
"Nếu bà đi bộ một mình trong đêm tối, bà phân thân ra, thành có thêm một bạn 
đồng hành đi bên cạnh, để khỏi bị ai khuấy phá.
"Khả năng của Dipa Ma về địa hạt này đã được trắc nghiệm lại và được một nhóm 
khoa học gia khác xác nhận. Thiền sư Munindra có quen biết với một giáo sư về Cổ 
sử Ấn độ tại trường Đại học Magadh, ông ấy đã tỏ ra rất nghi ngờ về các năng lực 
thần thông. Munindra mới đưa đề nghị chứng minh sự có thật của các năng lực thần 
thông và cả hai ông cùng thiết lập một cuộc thử nghiệm. Vị giáo sư liền nhờ một 
người sinh viên tín cẩn ngồi canh chừng trong căn phòng Dipa Ma đang ngồi thiền, 
để chắc chắn rằng bà chẳng hề rời khỏi chỗ ngồi của bà trong phòng. Đến ngày đã 
hẹn trước, người sinh viên kiểm nhận là Dipa Ma chẳng hề rời khỏi tư thế ngồi 
thiền, và cùng lúc ấy, bà lại hiện lên trong văn phòng của vị giáo sư cách đó 
mười dặm và trò chuyện cùng ông...
Nghịch lý 3: Trong một số trường hợp, hai đơn vị vật chất trước đó thuộc về một 
chỉnh thể nay đã bị cách ly nhưng vẫn có một mối liên hệ liên thông. Hai đơn vị 
đó "biết" đến tình trạng của nhau một cách tức thời, dù chúng bị cách ly với 
khoảng cách xa bất kỳ. Đặc tính thứ ba của vật chất này mới nghe qua không có gì 
to tát lắm, nhưng thực ra nó dẫn ta tới nghịch lý quan trọng nhất từ xưa tới 
nay. Đó là, vì tính chất "liên thông" này, đã thật sự phủ định quan niệm: “Có 
một thế giới khách quan tồn tại độc lập ở bên ngoài ý thức con người”. 
Nhưng trước hết ta cần giải thích do đâu mà có đặc tính thứ ba nói trên. Năm 
1935, Einstein và cộng sự đề nghị một phép thí nghiệm, thí nghiệm nổi tiếng này 
được mệnh danh là: Nghịch lý EPR (chữ viết tắt tên của ba tác giả của nó: Albert 
Einstein, Boris Podolsky, và Nathan Rosen). Ở đây ta chỉ trình bày Nghịch lý EPR 
một cách hết sức đơn giản. Trong nghịch lý này Einstein cho cách ly hai đơn vị 
vật chất A và B (thí dụ nguyên tử hay electron), chúng vốn nằm trong một thể 
thống nhất và do đó chúng có sẵn một mối liên hệ với nhau, thí dụ tổng số spin 
của chúng bằng không. Nay ta cách ly chúng hàng vạn dặm, không để cho chúng có 
thể tương tác lẫn nhau. Khi đo một trị số spin của A thì B lập tức có một trị 
số, để tổng số của chúng bằng không. Điều đó có nghĩa hai hạt A và B có mối liên 
hệ liên thông dù chúng cách xa hàng vạn dặm, tuy bị tách rời hai hạt này hành xử 
như là một khối thống nhất. Dường như có một sự tương tác đáng kinh ngạc và sâu 
sắc ở nơi linh hồn của vật lý. 
Người ta ngờ rằng thế giới hiện lên trước mắt chúng ta sở dĩ có tính chất 
riêng tư của chúng ta là vì hành động đo lường (nhận thức) của chính chúng ta. 
Thế thì phải chăng thế giới mà chúng ta đang thấy vì chúng ta đo lường nó hay 
nhận thức nó mà nó "có"? Phải chăng thế giới vật chất với những đặc tính riêng 
của nó không hề tồn tại độc lập mà chỉ xuất hiện khi ta nhận thức nó? Người ta 
chỉ biết rằng, cần phải đưa hành động đo lường (tức là Quan sát viên) vào trong 
một tổng thể: Vật được quan sát và Người quan sát thì mới hiểu được sự vật. Đi 
xa hơn, nhiều người thấy phải đưa ý thức hay hoạt động của ý thức như là một yếu 
tố chủ yếu vào tổng thể này, thí dụ Eugene Wigner, nhà vật lý đoạt giải Nobel, 
ông tin rằng yếu tố nhận thức là cần thiết trong quá trình đo đạc cơ học lượng 
tử. 
Đi xa hơn nữa, người ta phải thấy “ý thức thông thường” của con người là một 
loại ý thức bị quy định trong tầm nhìn “cổ điển”, bắt nguồn từ thời Hy Lạp cổ 
đại, không tương thích với tính chất lượng tử của nền vật lý mới. Nhà vật lý 
Nick Herbert viết như sau: "Nguồn gốc của mọi nghịch lý lượng tử hình như xuất 
phát từ thực tế là: sự nhận thức mang tính chất cổ điển của con người tạo ra một 
thế giới gồm những thực thể riêng biệt, trong khi đó thế giới lượng tử thì hoàn 
toàn không phải như thế".
David Bohm (1917-1992), nhà vật lý lý thuyết, giáo sư tại Đại học London, đã 
đưa ra một thí nghiệm làm cho tên tuổi của ông trở nên nổi tiếng đó là: Ảnh toàn 
ký (Holo-Gram). Ảnh toàn ký là hình ảnh ba chiều được hình thành bởi tia sáng 
laser. Đầu tiên, một vật thể ba chiều được chiếu rọi bằng laser và sau đó cho 
phản chiếu lên phim. Tấm phim lại được rọi bằng một nguồn laser khác. Hai nguồn 
laser sẽ giao thoa với nhau trên phim và ảnh giao thoa sẽ được ghi lại trên 
phim. Ảnh giao thoa chỉ là những nét chi chít đậm nhạt hầu như vô nghĩa. Thế 
nhưng nếu ta rọi phim đó bằng một nguồn laser khác thì sẽ hiện lên hình ảnh của 
vật thể ban đầu trong dạng ba chiều.
Điều kỳ lạ là nếu ta cắt tấm phim ra làm hai phần và chỉ rọi một nửa thì toàn 
bộ hình ảnh ba chiều vẫn tái hiện. Nếu ta cắt nhỏ tấm phim ra thành những đơn vị 
rất nhỏ, thì hình ảnh toàn phần ba chiều vẫn hiện lên đầy đủ, dĩ nhiên kích 
thước của nó bị thu nhỏ đi. Điều đó có nghĩa, mỗi phần nhỏ nhất của tấm phim vẫn 
chứa đầy đủ nội dung toàn phần của vật thể ban đầu. 
Theo Bohm, mỗi thực tại, mỗi sự vận động có thứ bậc của nó. Cùng với các phát 
hiện mới, ngành vật lý dần dần khám phá thứ bậc của sự vận động, với những mức 
độ từ cạn tới sâu. Sự vận động cơ giới trong lý thuyết của Newton được Bohm gọi 
là có thứ bậc thấp (thứ bậc không gian Descartes). Trong thứ bậc này, mọi sự vật 
đều được xem là riêng lẻ, cái này nằm ngoài cái kia và tác động lên nhau bằng 
lực tương tác giữa vật thể. Với lý thuyết tương đối và cơ học lượng tử, Bohm 
thấy cả hai đều mang một thứ bậc mới, đó là ta phải xem sự vật là một cái toàn 
thể không thể phân chia, trong đó sự cách ly các yếu tố của sự vận động không 
còn được chấp nhận. Thứ bậc này hoàn toàn khác với thứ bậc trong nền vật lý của 
Galileo và Newton. Thí dụ: không gian, thời gian là một thể thống nhất trong 
thuyết tương đối, người quan sát và vật được quan sát là một thể thống nhất 
trong cơ học lượng tử. Ở đây, Bohm cho rằng phải đi sâu thêm một mức độ nữa để 
thấy một thứ bậc mới của thực tại. Thứ bậc này được Bohm mệnh danh là “thứ bậc 
nội tại” (implicate order). Nội dung của thứ bậc này là: “cái toàn thể nằm trong 
từng cái riêng lẻ”. Nói rõ hơn, thực tại là hình ảnh của toàn vũ trụ được ẩn 
tàng trong từng đơn vị nhỏ nhất của nó. 
Từ thí nghiệm Ảnh toàn ký ở trên, Bohm kết luận thế giới vật chất mà ta đang 
thấy xung quanh mình là dạng hình được khai triển từ một thực tại sâu kín hơn 
(thứ bậc nội tại). Thực tại sâu kín này là một cái toàn thể bất khả phân, không 
thể định nghĩa, không thể đo lường. Trong thực tại này, mọi sự đều liên kết chặt 
chẽ với nhau. Thực tại này không nằm yên mà luôn luôn vận động và nó là nguồn 
gốc, là cơ sở của mọi dạng xuất hiện của vật chất và tâm thức. 
Hãy nêu lên vài ẩn dụ để tới với cách nhìn này: Trong cơ thể sinh vật, mỗi một 
tế bào nhỏ nhất cũng chứa DNA, thông tin của toàn bộ cơ thể đó. DNA cũng là một 
hình ảnh dễ hiểu của quan niệm "một trong tất cả, tất cả trong một". Thí dụ giản 
đơn và có tính cơ giới hơn là một thanh nam châm với hai cực nam bắc. Nếu ta cắt 
thanh nam châm đó làm hai thì lập tức chỗ cắt sẽ sinh ra hai cực nam bắc. Nếu 
tiếp tục cắt thì ta sẽ có tiếp những thanh nam châm nhỏ hơn nữa. Do đó ta có thể 
nói mỗi điểm trong thanh nam châm đã chứa "ẩn tàng" hai cực nam bắc. Có cắt thì 
hai cực đó mới hiện ra, không cắt thì chúng nằm trong dạng "nội tại".
Theo Bohm, thực tại là một thể thống nhất đang vận động, không thể phân chia, 
không thể đo lường mà một số dạng xuất hiện của nó hiện ra với ta như hạt, như 
sóng hay như những đơn vị tách lìa nhau và có tính chất ổn định tương đối. Những 
đơn vị vật chất thí dụ electron, chỉ là một cái tên tạm đặt cho một khía cạnh 
xuất hiện của thực tại đó. Vật chất chỉ là một số dạng được “dẫn xuất” từ thực 
tại đó. Các quy luật vật lý đều là những lý thuyết áp dụng cho một số hiện tượng 
xuất phát từ sự vận động toàn thể đó. Và toàn thể vận động chính là sự tiếp nối 
liên tục giữa hai giai đoạn ẩn (nén) - hiện (giải nén).
Trong quá trình ẩn (nén) - hiện (giải nén) nhanh chóng của sự vận động toàn thể 
đó, có những dạng xuất hiện mà giác quan ta thấy là hạt. Chúng nối tiếp nhau 
xuất hiện dàn trải, khi thì ta thấy chúng nằm trên đường thẳng, khi thì hình 
cong trong không gian và tưởng có những lực tương tác chúng với nhau. Thực tế 
chúng là dạng xuất hiện kế tiếp nhau của một “tập hợp” không mang tính chất 
không gian. Ngược lại, vì chúng “hiện” ra liên tiếp, cái này sau cái kia mà ta 
thấy có không gian. Quan niệm này giải thích dễ dàng sự phi liên tục (gián đoạn) 
trong sự vận động được nêu ra bởi cơ học lượng tử. Ngoài ra, vì dạng hạt chỉ là 
dạng xuất hiện của sự vận động toàn thể, nên khi những điều kiện thay đổi thì 
dạng xuất hiện cũng thay đổi, lúc đó nó có dạng sóng. Nghịch lý sóng-hạt không 
còn tồn tại trong quan niệm về thực tại này nữa.
Thứ bậc nội tại có nhiều chiều. Không gian ba chiều của chúng ta chỉ là một 
hình chiếu của thứ bậc nội tại. Trước vấn đề của mối liên hệ “liên thông” trong 
nghịch lý EPR, Bohm dùng ẩn dụ “hồ cá” sau đây để minh họa. Trong một hồ cá chỉ 
có một con cá duy nhất. Hồ cá được thu hình bằng hai máy quay phim từ hai hướng 
khác nhau. Hai máy quay phim đó được chiếu hình lên hai màn ảnh khác nhau A và 
B. Như ta thấy, hình A và B không hề có mối liên hệ hay tương tác gì với nhau 
cả, chúng chỉ là hai hình của một vật thể (con cá) duy nhất.
Tương tự như thế, hai đơn vị vật chất có mối liên hệ “liên thông” chẳng qua chỉ 
là hình chiếu của một đơn vị duy nhất của một thực tại nhiều chiều hơn. Thật ra 
chúng chẳng tương tác gì với nhau cả, chỉ là hai dạng khác nhau của một thực 
thể. Sự tách biệt của chúng trong không gian chỉ là một ảo tưởng của chúng ta 
khi đứng trước thứ bậc dàn trải, nơi đó thực thể nọ đã bị “dàn trải” làm hai đơn 
vị. Theo Bohm, số lượng kích chiều của thứ bậc nội tại là vô tận.
Cuối cùng, Bohm đi một bước dài và cho rằng ý thức và vật chất cùng lưu xuất 
từ thứ bậc nội tại đó. Vật chất và ý thức có tác dụng hỗ tương lẫn nhau. Hai mặt 
này bắt nguồn từ một thứ bậc chung, có kích chiều cao hơn. Cả hai: vật chất lẫn 
ý thức đều là dạng xuất hiện của thực tại nhiều kích chiều đó. Bohm đề nghị một 
đơn vị cơ bản của sự vận động trong thứ bậc nội tại đó, ông gọi là “chập” 
(moment). Một chập chứa tất cả những chập khác, có khả năng “bung” ra trên thứ 
bậc dàn trải để thành không gian và thời gian. 
Thuyết “sự vận động toàn thể” với quan niệm then chốt “thứ bậc nội tại” là một 
bước nhảy vọt của khoa học vật lý trong vũ trụ quan. Xưa nay, người ta thấy thế 
giới hiện tượng là một thực thể khách quan, nằm ngoài con người và xem nó là đối 
tượng đích thực của ngành vật lý. Thực tế là, quan niệm “vật ở ngoài nhau” là 
đặc trưng của ý thức hệ phương Tây, bắt nguồn từ thời Hy Lạp cổ đại. Nay, khi 
thuyết của Bohm xem thế giới hiện tượng chỉ là thứ bậc dàn trải, là sự trình 
hiện của một thứ bậc sâu xa hơn - thứ bậc nội tại - khi đó, Bohm đã làm một bước 
nhảy vọt về nhận thức. 
Thuyết của Bohm không thể không làm ta liên tưởng đến triết học Phật giáo. Quan 
niệm "Tất cả trong một, một trong tất cả" chính là tư tưởng Kinh Hoa Nghiêm. Chủ 
trương "Thực tại xuất hiện như một cảnh tượng khi bị quan sát" đã được Kinh Lăng 
Nghiêm nói đến. "Ý thức lẫn vật chất đều lưu xuất từ một thể" chính là quan niệm 
Duy thức trong Phật giáo.
Kinh Lăng Nghiêm nói về một thể uyên nguyên, được tạm gọi là "Chân tâm". Tính 
chất của "Chân tâm" là phi hình tướng, phi tính chất, không thể nghĩ bàn. Tạm 
hình dung Chân tâm như một “biển tinh lực uyên nguyên” hay một “vầng trăng tròn 
đầy”. Chân tâm có hai "công năng" như sau: lặng lẽ chiếu soi và có khả năng tự 
chiếu soi mình. "Chiếu soi "có thể được hiểu như "nhận thức" trong ngôn ngữ hiện 
đại.
Xuất phát từ một Chân tâm thuần túy "lặng lẽ chiếu soi" đó, bỗng một "vọng tâm" 
nổi lên, đó là lúc Chân tâm quay qua tự nhận thức chính mình và thấy có một thể 
bị nhận thức và một thể nhận thức. Theo ngôn ngữ hiện đại thì với "vọng tâm", 
xuất hiện hai thể tính: người quan sát và vật bị quan sát. "Vọng tâm" được so 
sánh với giấc ngủ. Khi ngủ mê, thì hiện ra giấc mộng, trong đó có người có ta, 
có cảnh vật, có diễn biến, có không gian và có thời gian. Khi tỉnh dậy thì tất 
cả cảnh vật trong mơ cũng không còn. 
Đối với Phật giáo, thế giới hiện tượng là một sự trình hiện, là một huyễn cảnh 
như “hoa hiện trong hư không”. Thế giới đó trình hiện cho một chúng sanh nhất 
định, mỗi chúng sanh có một thế giới. Thế nhưng như ta đã nói ở trên, chúng sanh 
lẫn thế giới hiện tượng đều là những phần tử của Chân tâm. Cả hai đều lưu xuất 
từ Chân tâm, bị “vọng hóa” mà thấy có chủ thể và khách thể. "Nếu vọng tâm sinh 
khởi thì các pháp đều sinh khởi, vọng tâm diệt đi thì các pháp đều diệt". 
Từ có sự phân biệt chủ thể và khách thể đó mà chúng sanh sinh khởi thương 
ghét, yêu thích hay từ chối đối với thế giới hiện tượng được quan sát vì tưởng 
rằng có thế giới hiện tượng tồn tại độc lập ở bên ngoài nên chấp pháp và đồng 
thời chúng sanh đó tưởng mình là một chủ thể có thực, có một cái Tôi tồn tại 
riêng biệt ở bên trong nên chấp ngã. 
Xuất phát từ hai thành kiến chấp pháp và chấp ngã, với mọi tâm trạng yêu và ghét 
diễn biến liên tục, cá thể sinh ra vô số quá trình vọng hóa với nhiều mức độ tâm 
lý với nhiều tính chất khác nhau, chồng chất bao phủ lên nhau. Đạo Phật chia các 
quá trình tâm lý đó thành bốn mức độ mà thuật ngữ gọi là: thọ, tưởng, hành, 
thức. Ngoài bốn quá trình tâm lý đó, đạo Phật còn xem “sắc” là toàn bộ hiện 
tượng mà ta gọi là vật chất. Do đó: sắc, thọ, tưởng, hành, thức được gọi chung 
là “Ngũ uẩn”, là toàn bộ tiến trình của vọng tâm được sinh ra và phát triển, khi 
Chân tâm “dại dột” tự nhận thức chính mình và sa vào chấp pháp, chấp ngã. 
Ngũ uẩn bao phủ quanh cá thể với các dạng tâm lý và vật lý. Thế giới đang bao 
trùm xung quanh chúng ta chỉ là một thế giới đang hiện lên cho mỗi cá thể chúng 
ta. Thế giới đó gồm sắc, tức là các dạng vật chất, cộng với các hoạt động tâm lý 
(thọ, tưởng, hành, thức) đang được duy trì và phát triển liên tục.
Mỗi thế giới đó tuy là có giá trị cho mỗi cá thể nhưng chúng hòa vào nhau, 
tưởng chừng như thể nhiều cá thể, toàn xã hội, toàn loài người... có chung một 
thế giới. Đó là vì “cộng nghiệp” chung của nhiều cá thể làm cho những cá thể đó 
thấy chung một thế giới, như thể chỉ có một thế giới duy nhất. Vì sự vật chỉ là 
sự trình hiện nên không thể nói “có” hay “không có” một cách tuyệt đối được. Khi 
nói “có” là “có” cho những cá thể nhất định, đối với người này là “có” nhưng đối 
với người khác là không, cũng như người nằm mơ thấy “có sự vật” nhưng sự vật đó 
không có cho người khác. Như Lời Phật trong Kinh Lăng Nghiêm: "Này A-nan, như 
người đau mắt, vì nghiệp riêng của họ, nên "vọng thấy" cái đèn có vầng đỏ hiện 
ra... Như dân chúng trong một nước, do ác nghiệp chung tạo của họ nên đồng thấy 
có những điềm không lành hiện ra. Lên một từng nữa là toàn cả chúng sinh trong 
mười phương thế giới ngày nay đây, đều do "vô minh vọng động từ vô thỉ" nên đồng 
vọng thấy có thế giới chúng sinh hiện ra vậy".
Điều nói trên còn dẫn đến hai kết luận, đó là "Pháp vô ngã" và "Nhân vô ngã". 
Pháp vô ngã cho rằng không có sự vật nào tồn tại với tự tính riêng của nó cả, 
tất cả đều chỉ là sự biến hiện làm cho ta thấy "có" khi đủ điều kiện (nhân duyên 
sinh) để cho sự vật trình hiện trước mắt ta. Nhân vô ngã cho rằng con người mà 
ta tưởng là có một cái Tôi đứng đằng sau chỉ là sự vận hành vô chủ của Ngũ uẩn. 
Các tình trạng của Ngũ uẩn diễn ra, cái này tiếp nối cái kia, nhưng không ai làm 
chủ chúng cả. Triết lý nhân vô ngã và pháp vô ngã cho thấy mặc dù thế giới hiện 
tượng và tâm lý vận hành liên tục nhưng đó là sự vận động nội tại của nó, không 
ai làm chủ cho chúng cả. Sự vận động đó chủ yếu xuất phát từ "Hành", còn được 
gọi là động cơ tâm lý tạo tác hành động, và qua đó tạo tác thế giới. Toàn bộ 
những động cơ tâm lý đó được gọi là "Nghiệp" hay "Nghiệp lực". Nghiệp lực của cá 
thể và của toàn thể là tác nhân làm thế giới vật chất được duy trì, nó làm cho 
vũ trụ được sinh ra và phát triển.
Ngũ uẩn cũng không phải là năm yếu tố riêng lẻ lẫn nhau mà vì chúng có chung 
nguồn gốc Chân tâm nên chúng dung thông và chứa đựng lẫn nhau trong tinh thần 
"Một trong tất cả, tất cả trong một". Một hệ quả của quan niệm này là mọi hoạt 
động trong tâm lý (thọ, tưởng, hành, thức) đều có dấu vết trong vật lý (sắc) và 
ngược lại mọi điều chỉnh trong vật lý đều có tác dụng trong tâm lý. Sắc chính là 
Không, Không chính là sắc (tư tưởng Tâm kinh). Do đó "trên đầu một cọng cỏ chứa 
tam thiên thế giới" (tư tưởng kinh Hoa nghiêm). Như vậy, đối với Phật giáo, vật 
chất được hình thành và duy trì là dựa trên vọng tưởng của tâm thức. Một đặc 
tính quan trọng khác là: vật chất không có tự tính riêng biệt, chỉ tồn tại trên 
cơ sở tương quan đối với người quan sát. Mỗi người quan sát sống trong một thế 
giới riêng của họ, thế giới tưởng là chung cho tất cả chẳng qua là do cộng 
nghiệp xây dựng thành.
Cả vật chất lẫn ý thức là những dạng xuất hiện của Chân tâm, chúng chỉ là 
những dạng hình thứ cấp lưu xuất từ Chân tâm. Do đó quan niệm về một thực tại ẩn 
tàng chứa cả vật chất, ý thức và có nhiều chiều như Bohm quan niệm là rất gần 
với tư tưởng Phật giáo. Trong lý thuyết của Bohm, vật chất là những cấu trúc 
xuất hiện có tính chất tạm thời, tương đối, chúng là hình ảnh xuất hiện từ sự 
vận động toàn thể. Sự vận động toàn thể của Bohm có thể được xem gần giống như 
sự lưu chuyển của A-lại-da thức, trong đó thế giới hiện tượng chỉ được xem là 
những vọng tưởng lưu lại dưới dạng hạt giống khi đủ nhân duyên chín mùi thành 
vật chất.
Phật giáo quan niệm "Sắc chính là Không", thế giới vật chất chính là Chân 
tâm. Do đó mỗi nơi mỗi chỗ trong thế giới vật chất đều chứa năng lượng vô tận 
của Chân tâm. Quan niệm về "chân không lượng tử" hiện nay cho rằng, mỗi đơn vị 
tí hon trong chân không lượng tử chứa năng lượng vô tận, cũng đi gần với quan 
niệm về Sắc - Không của Phật giáo. Hơn thế nữa Phật giáo cho rằng mỗi nơi mỗi 
chỗ trong Sắc cũng chứa toàn bộ thế giới vật chất trong quan niệm "Một trong tất 
cả, tất cả trong một". Do đó quan niệm của Bohm về Ảnh toàn ký (Holo-Gram) cũng 
rất tương tự với hình ảnh "trên đầu một cọng cỏ có chứa tam thiên thế giới" được 
minh họa trong kinh Hoa Nghiêm. Bohm cũng quan niệm thế giới vật lý xuất hiện 
như một ảo ảnh ba chiều khi mắt tiếp xúc với ánh sáng, đó là điều mà đạo Phật đã 
nhấn mạnh với từ "hoa hiện trong hư không".
Vì vật chất chỉ là dạng xuất hiện từ Chân tâm, không có tự tính riêng, chỉ 
tùy nhân duyên mà trình hiện nên Phật giáo không thấy có mâu thuẫn giữa hai dạng 
sóng - hạt của vật chất. Cả sóng lẫn hạt đều xuất hiện khi đầy đủ nhân duyên hội 
tụ cho chúng xuất hiện. Trong vật lý hạ nguyên tử, "nhân duyên" chính là cách dò 
tìm của người quan sát và cách xếp đặt thiết bị đo lường. Sự nghịch lý sóng - 
hạt chỉ có khi ta cho rằng vật chất phải có một tự tính riêng.
Nghịch lý EPR của những hạt liên thông cũng không tồn tại với thế giới quan 
của Phật giáo vì rằng mọi hạt vật chất đều lưu xuất từ Chân tâm. Giữa các dạng 
vật chất đó đều có sự dung thông vì tất cả đều là Chân tâm. Do đó những hạt liên 
thông có mối quan hệ trên một cấp bực khác, sâu hơn cấp bực của vật chất. Vì vậy 
mà chúng có trao đổi với nhau, “biết” đến lẫn nhau dù ở cách xa nhau hàng vạn 
dặm. Trong thế lĩnh vực của thế giới hiện tượng, vì có thời gian và không gian 
xuất hiện nên mọi vận hành bị giới hạn trong những mức độ đo được. Do đó vận tốc 
ánh sáng, hằng số Planck... là những số rất lớn/ rất nhỏ nhưng có giới hạn. Còn 
trong lĩnh vực tâm lý của: thọ, tưởng, hành, thức mọi tín hiệu đều có vận tốc vô 
tận, tức là có tính chất liên thông mà thuật ngữ Phật giáo gọi là "dung thông".
Quan niệm phải đưa quan sát viên vào quá trình chung với vật được quan sát của 
thuyết tương đối và cơ học lượng tử là hoàn toàn tương thích với thái độ của 
Phật giáo. Theo Phật giáo khi không có quan sát viên thì cũng không có vật được 
quan sát, vật đó chỉ có khi có ai quan sát nó. Nếu không có ai quan sát nó thì 
cũng không có nó. Đối với Phật giáo, không có vật nào tồn tại độc lập cả mà đều 
chúng chỉ tồn tại trên cơ sở tương quan với vật khác.
Khuynh hướng chia chẻ thế giới, cảm nhận thế giới thành ra những vật thể 
riêng lẻ và cảm nhận chính mình là một cá thể độc lập, khuynh hướng đó được xem 
là một vọng tưởng, xuất phát từ một tâm thức ưa phân biệt, đánh giá. Phật giáo 
xem khuynh hướng đó là vô minh, đó là một dạng của vọng tâm, cần vượt bỏ. Theo 
quan niệm Phật giáo, mọi "pháp hữu vi" (thế giới hiện tượng) là "mộng, huyễn, 
bào, ảnh, như sương sa, như điện chớp" (tư tưởng kinh Kim Cương), mọi dạng vật 
chất chỉ tạm thời, không có tự tính, không tồn tại thực sự mà chỉ tồn tại trên 
cơ sở tương quan với người quan sát. Với quan điểm đó, ta có thể lý giải dễ dàng 
mọi điểm cơ bản của thuyết tương đối và cơ học lượng tử.
Theo Phật giáo, vật chất được hình thành và duy trì bởi lực tạo tác của cộng 
nghiệp và biệt nghiệp (nghiệp chung của một nhóm người và nghiệp riêng của mỗi 
cá thể). Các nghiệp lực đó xuất phát từ sự vận hành của Ngũ uẩn mà Ngũ uẩn là vô 
ngã, nó vận hành vô chủ theo nhân duyên. Do đó mọi dạng vật chất đều thành hình 
một cách ngẫu nhiên theo luật nhân-quả, không do chủ ý của ai. "Tất cả các pháp 
đều xuất hiện một cách ngẫu nhiên, như một áng mây, như một tia chớp, chúng 
chẳng dừng chân dù trong một khoảnh khắc..." (Kinh Duy Ma Cật). Trên cơ sở đó ta 
có thể lý giải tính chất "thống kê" trong cơ học lượng tử một cách dễ dàng. 
Cuộc sống là một dòng tâm thức không đầu không đuôi. Nếu hôm nay ta nhức đầu 
thì có lẽ tại hôm qua ta uống rượu quá nhiều chứ không do một lẽ bất công nào 
cả. Và ngay hôm nay ta có thể chấm dứt uống rượu để ngày mai ta khỏi nhức đầu, 
đó là sự tự do mà mỗi cá thể đều có và có ngay bây giờ. Trong thế giới Phật 
giáo, không có một “Thượng đế toàn năng nào”, mà chỉ có một sự vận hành tự nhiên 
và tất nhiên theo luật nhân-quả của Thức, với một cơ chế mà thực ra tư duy của 
chúng ta chỉ có thể hiểu được một phần. Bởi thế, quan niệm về Nghiệp của đạo 
Phật không phải dễ hiểu và dễ được chấp nhận.
Đơn giản hóa, nếu quy một đời người về một ngày và giả định giấc ngủ là cái 
chết, thì ngày hôm trước cách ngày hôm sau đúng một giấc ngủ. Nếu hôm nay tôi 
uống nhiều rượu, ngày mai tôi bị nhức đầu, hôm nay tôi nóng giận, ngày mai trong 
người tôi vẫn còn vương bực dọc... Sự tiếp nối đó rất dễ hiểu, nhưng vì người ta 
nửa tin nửa ngờ nên Nghiệp trở nên huyền bí. Đời này của chúng ta như là ngày 
hôm nay. Trước đó đã có vô số ngày và sau đó cũng còn vô số ngày. Vô số những 
ngày trước đó đã tạo ra một tâm thức có tính cá thể mà ta gọi là “Tôi”. Tính cá 
thể đó được cụ thể bằng vô số những chủng tử nằm trong A-lại-da thức.
Mỗi chúng ta chính là tác giả của những chủng tử đó. Chúng ta đã tự tay gieo 
trồng những chủng tử, đã mong chờ, đã thiết tha được chứng nghiệm chúng. Khi đủ 
nhân duyên thì những hạt giống ấy trong A-lại-da thức lại đâm chồi nẩy lộc. 
Chúng ta là kẻ đã xây dựng nên môi trường, gia đình và bè bạn mà chúng ta đang 
sống. Tất cả những cảnh tượng đó do ta bày ra. Họ đều là những nhân vật trên một 
sân khấu mà chính ta là đạo diễn. Chính ta là kẻ viết kịch bản, bày ra các biến 
cố và đồng thời cũng đóng luôn vai chính. Đến khi vào cuộc, sống đời sống thường 
ngày, chúng ta lại nhập vai quá say sưa và quên rằng đây chính là vở kịch do 
mình bày ra. Chúng ta vui, chúng ta buồn, mừng vui và thất vọng theo những tuồng 
tích của chính mình và tất cả mọi kinh nghiệm buồn vui đó lại được chứa chấp vào 
trong A-lại-da thức của ta để một vở kịch mới sẽ được ra đời.
Có thể trong vài thập niên tới đây người ta sẽ phát hiện được một cách chính 
xác rằng, những điều mà hiện nay ta không gọi là vật chất - cũng có những thực 
tại của chúng, cũng có những dạng hình thấy được bằng thiết bị, cũng có năng 
lượng đo được, thậm chí trong một mức độ nhất định, người ta sẽ thấy mối liên hệ 
rất cụ thể giữa tâm thức và vật chất. Hãy thay đổi bản thân, thế giới sẽ thay 
đổi theo. Đời thay đổi khi tâm chúng ta thay đổi. Đó là khẳng định của tư tưởng 
Phật giáo. Mặc dù quan niệm này không dễ thuyết phục và cũng không dễ thực hiện, 
thế nhưng đó là kết luận nhất quán của đạo Phật. Phật giáo và Khoa học giờ đây 
có thể ngồi lại với nhau với hy vọng góp sức vào việc mang lại hạnh phúc cho 
nhân loại.