Rèn Luyện và Nghiên Cứu Tâm Thức:

Rèn Luyện và Nghiên Cứu Tâm Thức:

Ði đến sự dung hợp giữa Thiền Phật giáo

và Khoa Thần Kinh học

 

NGUYÊN CHÂU  biên dịch

 

 

Mục Ðích Tổng Quát của Dự Án:

Mục đích tổng quát của dự án này nắm được những cái nhìn thấu suốt mới về tác động của thiền đối với các chức năng cảm xúc nhận thức bản, cũng như cách thức vận hành của não bộ trong việc phục vụ những tiến trình này. Thêm vào đó, cuộc nghiên cứu này cũng được đề ra nhằm bồi dưỡng một sự hiểu biết về bản chất của thụ thức. Một vài tính năng tinh thần tích cực vốn được tu dưỡng một cách tự giác trong Thiền quán Phật giáo, cụ thể như lòng từ bi, từ trước tới nay chưa hề một bộ phận trong cuộc nghiên cứu của khoa thần kinh học Tây phương liên quan đến khu vực tình cảm. Cuộc nghiên cứu này thế nhắm đến việc đưa các tính năng tinh thần tích cực này thành một chủ đề trọng điểm trong nghiên cứu khoa học. Thêm vào đó, bằng cách kết hợp giữa khảo sát trực tiếp chính xác về thụ thức được tu trì trong thiền quán Phật giáo với những khám phá của khoa thần kinh học Tây phương về những biểu hiện thần kinh tế bào thể của các trạng thái ý thức, những cái nhìn thấu suốt mới này thể chiếu dọi cho ta phần nào tia sáng vào bản chất của ý thức.

Mô Tả Dự Án Nghiên Cứu:

Dự án này bao hàm việc đo lường sự vận hành chức năng não bộ thông qua các phương pháp biểu hình não bộ trên các hành giả Phật giáo có công phu tu tập cao qua các tầng thiền. Những cuộc nghiên cứu này hiện đang được tiến hành tại Keck Laboratory, University of Madison, Wisconsin và tại LENA laboratory (CNRS, UPR 640), Hôpital de la Salpêtrière, Paris.

Chúng tôi đang tập trung nghiên cứu bốn trạng thái của tâm thức vốn đã được mô tả khá rõ ràng trong tâm lý học Phật giáo, được biết đến như định, xả (hay thiền tỉnh thức), quán tưởng và từ bi quán. Những kỹ thuật thiền định này tạo ra các tính năng tâm thức khác nhau, mà một số đã không được quan tâm đúng mức trong các tài liệu khoa học đương đại.

Ðịnh (śamathā): hay Thiền Chỉ-tập trung vào một điểm-liên hệ đến việc chú tâm  bền bỉ vào một đối thể duy nhất không để cho tâm bị xao lãng đi nơi khác, hay ngăn dứt các pháp bất thiện, lìa mọi ý niệm tà vạy, diệt trừ các phiền não tán loạn để tâm đạt đến sự vắng lặng, tịch tịnh; ngoài ra, nó còn có nghĩa khác là, duy trì được chánh niệm khi ta an trú ở nơi pháp bây giờ và ở đây, tiếp xử với giây phút hiện tại một cách sáng suốt.

Xả (upekā): đây là một trạng thái hoàn toàn buông xả, tâm ở trạng thái an trú vững chãi không còn thiên lệch, không còn bị vướng mắc vào bất cứ điều gì, hay nói rõ hơn, là tâm luôn ở trạng thái không ghét bỏ, không ưa thích cũng không bất mãn. Nó không quan tâm và bị ảnh hưởng bởi những tri kiến, hồi ức và tưởng tượng, ngay cả cũng không hề có bất cứ ý định nào nhằm cản trở hay ngăn chặn chúng.

Quán tưởng (vipaśyana): tâm tập trung vào một đối tượng nào đó để đối trị các vọng niệm như các cảm thọ tham dục, khát ái... hoặc là một loại phương tiện quán cần phải hành trì để đạt tới giải thoát và an lạc ngay trong giờ phút ta đang thực tập, và bao gồm cả việc tạo dựng đồng thời với sự quán tưởng về những chi tiết hình ảnh do tâm tạo ra.

Từ bi quán (maitrya-karuna): bao gồm sự tự nguyện vun trồng một trạng thái cảm xúc tích cực mà hành giả Phật giáo coi là thiết yếu để chống lại những loại tình thương đang vin theo khuynh hướng vị kỷ, hẹp hòi. Nó bao hàm cả việc tạo ra một trạng thái, mà trong đó lòng yêu thương và từ bi chan hòa vào tâm thức; thấy những cái đẹp nơi người khác hơn là cái xấu xa; ngoài ra không còn một mối quan tâm nào khác, ngay cả lý trí hay những tư tưởng tản mạn. Đây là nét đặc trưng cơ bản của Phật giáo.

Trong cuộc nghiên cứu mở đường sơ bộ, chúng tôi đã khảo sát những trạng thái này không qua bất cứ một tác nhân kích thích nào, trải qua sự trình bày các hình ảnh thấy được. Ba kỹ thuật não hình khu trú có mật độ cao được dùng đến là điện-não-đồ (EEG), từ-não-đồ (MEG), và chức năng từ trường cộng hưởng biểu hình (fMRI) (*). EEG (hình 1) và MEG (hình 2) là hai kỹ thuật khá nổi tiếng được dùng để đo lường cảm ứng từ trường ở bên ngoài đầu và những điện thế phóng thích ở mảnh da đầu do hoạt động điện trong những tế bào thần kinh tụ hội.

Hai kỹ thuật này có một hoành độ dung giải khá tuyệt hảo với biên độ khoảng một phần triệu giây có thể cho phép ta khám phá được thời gian năng động hoàn hảo của tiến trình hoạt động thần kinh trải qua các trạng thái thiền quán. fMRI hoạt động ở một thời độ tương đối chậm hơn (biên độ 100 của mỗi phần triệu giây) nhưng vẫn có khả năng sản xuất được một tung độ dung giải cao từ 1 đến 3mm. Kỹ thuật này ghi lại được những thay đổi về chuyển động máu xảy ra trong tiến trình hoạt động thần kinh. Khi tế bào thần kinh hoạt động, chúng gây ra những thay đổi cục bộ trong lưu lượng máu và mức độ oxy hóa, có thể được biểu hình như là một yếu tố tương liên của hoạt động thần kinh hệ (xem hình 3). fMRI còn cho ta những thông tin về kết cấu và chức năng của những cấu trúc vỏ não và bán vỏ não được khởi động trong một trạng thái tâm thức nào đó. (Xem hình 4-5) 

Bằng cách kết hợp những hoành độ tung độ dung giải của những kỹ thuật nói trên, chúng ta hy vọng thể nhận ra những cấu trúc của thần kinh được khởi động qua các trạng thái thiền định này đặc điểm hóa dấu vết riêng của hệ thần kinh trong sự phối hợp năng động của chúng. Thực vậy, một điều đã được chấp nhận khá rộng rãi rằng, trong não bộ, bất kỳ tiến trình tâm thức phức tạp nào (cụ thể như nhận thức, hành động, tưởng tượng, tình cảm, …) đều được đặc điểm hóa bởi hoạt động đồng bộ của các khu vực não bộ được phân bố, chuyên biệt hóa trong chức năng vận hành tác động lẫn nhau một cách liên tục. Bất cứ giả định nào về sở của một khoảnh khắc ý thức phải giải thích được sự phối hợp của các thành tố khác biệt này, vốn rất cần thiết trong việc hình thành một hoạt động tổng thể của não bộ được thống nhất một cách tạm thời.

Cơ cấu vận hành cho sự phối hợp này có thể là dây thần kinh đồng vị, do bởi vai trò được gán cho nó trong sự cấu thành những mạng lưới tạm thời nhằm phối hợp những tiến trình của các khu vực não bộ thành những hoạt động ý thức cao cấp có trình tự. Những kiểu mẫu kết hợp tạm thời như thế có thể tiêu biểu cho bộ phận thần kinh tương ứng với kinh nghiệm chủ quan mà gần đây người ta có thể ước tính được bằng các khí cụ toán học căn cứ trên các dữ kiện do EEG/MEG cung cấp (xem hình 6). Những giả định có cơ sở của chúng tôi như vậy là, trước tiên, các trạng thái thiền định đặc biệt có thể được tương ứng với những dấu vết riêng của hệ thần kinh năng động trong những kiểu mẫu đồng bộ này, và thứ hai, cái kiểu mẫu đồng bộ đó xảy ra ở một trạng thái thiền định có thể được giữ lại bằng một phương cách khả tín, cái cấu trúc tạm thời của những phản ứng thần kinh đối với kích thích về cảm giác.±

GHI CHÚ:

(*) Một số thuật ngữ chuyên môn nên liên hệ với Bác sĩ chuyên khoa thần kinh để tìm những danh từ thích đáng đang được sử dụng tại VN, ví dụ như MEG, fMRI, nhưng theo tôi, tốt nhất là cứ nên giữ nguyên những từ tiếng Anh viết tắt này.

Hình ảnh trong bài:

Hình 1: EEG

Hình 2: MEG

Hình 3: Sự phát sinh những thay đổi cục bộ hóa trong từ trường và điện trường bởi thần kinh hoạt hoá. (hình của Baillet S. et all. 2001).

Hình 4: Máy phân hình MRI và hình ảnh cấu trúc não bộ.

Hình 5: Những thí dụ về chức năng hoạt hóa (màu vàng và đỏ) tác động lên những hình ảnh của cấu trúc não bộ do fMRI tạo ra.

Hình 6: Mã hiệu màu đỏ phân bố trên mảnh da đầu cho thấy một sự gia tăng của sự đồng bộ hóa cục bộ được ghi lại bởi một điện cực duy nhất. Những đường màu đen tương ứng với giai đoạn viễn-cách đồng bộ xảy ra giữa hai nhóm thần kinh được ghi lại bởi hai điện cực khác nhau dao động với một giai đoạn chính xác, mà mối liên hệ luôn bất biến trong suốt một số lượng chu kỳ dao động nào đó (Lachaux et all. 1999). Sự nghiên cứu về đồng bộ đông-học-không-tuyến (*) trong cuộc nghiên cứu này sẽ sử dụng một số thuật toán do phòng thí nghiệm LENA, CNRS UPR 640, Paris, khai triển. Muốn biết thêm chi tiết xin liên lạc với Jean-Philippe Lachaux của  nhóm nghiên cứu Neurodynamical này.³

   

   

Chia sẻ: facebooktwittergoogle