Những ca khúc in dấu trên những chặng đường lịch sử (phần 7)

nhung ca khuc in dau

          Tâm Quang Đặng Ngọc Bích

 

Đến giữa năm1964, nhạc sĩ Anh Lạc (tức Huynh trưởng Tâm Bản Nguyễn Đình Luyện) đã tưởng nhớ và cảm xúc viết nên ca khúc Mây Loạn. Mây loạn là ca khúc ghi lại trung thực những nét chính trong đêm Pháp nạn 20.8.1963, đêm mà chính quyền Ngô Đình Diệm ra lệnh bao vây, tấn công, đốt phá, bắt giam quý Ôn, quý Thầy cùng đông đảo Tăng Ni, Phật tử trong tất cả chùa viện, cơ sở Phật giáo lớn ở miền Nam Việt Nam.

 

          Mây Loạn là lời réo gọi nghẹn ngào, đau thương của chư Tăng Ni và Phật tử trong vòng kẽm gai vây bủa, trong tầm lưỡi lê súng đạn, giữa những hàm răng nhọn hoắt của bầy cảnh khuyển hung dữ và những bộ mặt đỏ ngầu đằng đằng sát khí của lũ bạo tàn quân Ngô Đình Diệm. Giai điệu tức tưởi, nghẹn ngào. Lời ca chất ngất cả trời thương đau:

                 “... Nghẹn lời kinh,

                       Muôn trùng cửa khóa,

                      Hơi bốc lên mùi máu còn tanh.

                      Đá núi lá rừng, căm thù héo nát!                                                                                                             

 

                      Mồ hôi nước mắt, tháng năm đầy.

                     Hãi hùng, hãi hùng, thịt nát xương tan,

                     Đau thương, đau thương,

                     Chùa xưa gươm súng, giày đạp tan hoang...”

 

          Tất cả anh chị em chúng ta khi nghe lời réo gọi về những tháng năm sục sôi máu lửa ấy, chắc không ai lại không nghe lòng mình se thắt lại và gợi nhớ cho chúng ta một thời đã dấn thân không biết mỏi mệt vào Đại cuộc. Một Đại cuộc mà chính quyền Ngô Đình Diệm đã sử dụng đủ trăm mưu, nghìn kế nhưng vẫn không đủ sức để tiêu diệt Phật giáo. Đêm 20.8.1963, là đêm mà chính quyền Ngô Đình Diệm “đã dành”cho Phật giáo một nỗi kinh hoàng và đau thương nhất trong lịch sử. Chắc cả triều đại Ngô Đình Diệm khi hành động hung tàn như thế cũng không ngờ rằng đến ngày 1.11.1963, thì đất nước Việt Nam đã chôn vùi cả triều đại ông xuống một hố đen sâu thẳm nhất trong lịch sử dân tộc.        

         Ca khúc Mây loạn đã ghi được những chứng tích trên chặng đường lịch sử, nhưng lại không được hát rộng rãi trong sinh hoạt của Gia đình Phật tử. Âu cũng là một điều thiếu sót đối với lịch sử khi anh chị em chúng ta không hát cho vang dội ca khúc nầy.

                                                    &

 

         Như quý anh chị Huynh trưởng đều biết, cuộc cách mạng lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm đã kết thúc vào ngày 1.11.1963, nhưng mãi cho đến cuộc Chỉnh lý ngày 30.02.1964, khi Trung tướng Nguyễn Khánh lên nắm quyền Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng kiêm Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, ông mới ký Sắc luật số 158-SL/CP, ngày 14.5.1964 hủy bỏ hoàn toàn Đạo dụ số 10 đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Quý ngài lãnh đạo Phật giáo tưởng như thế là đã thoát khỏi cơn đại nạn và không còn bị kềm tỏa của một Đạo dụ phi lý đã kéo dài suốt 14 năm. Nhưng không ngờ, sau đó có mấy tháng thì chính phủ Nguyễn Khánh lại bị một cuộc đảo chánh khác lật đổ, rồi Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu lên nắm chính quyền.

 

         Bước chân lên chính trường chân ướt, chân ráo ông Nguyễn Văn Thiệu đã áp dụng ngay kế hoạch phá hoại và sắp đặt nhiều âm mưu tiêu diệt Phật giáo.

 

        Đứng trước tình thế ấy, buộc Phật giáo phải bước vào thế tiếp tục đấu tranh để ngăn chận và đòi hỏi những quyền lợi chính đáng cho dân tộc và Đạo pháp. Từ tháng 8 năm 1964 trở đi cho đến năm 1967, Phật giáo đòi chủ quyền quốc gia, đòi tổ chức Quốc hội lập hiến, đòi soạn thảo Hiến pháp và ban hành Hiến pháp. Nhất là đòi phải hủy bỏ Sắc luật 23/67, một sắc luật phi lý và khắc nghiệt không thua kém gì Đạo dụ số 10 dưới thời thực dân Pháp. Vì thế, tất cả mọi lực lượng của Phật giáo đều hăng hái lên đường nhập cuộc.

 

        Để “mở màn” cho những cuộc đấu tranh sống mái nầy, ngày 26.01.1965, chị Đào thị Yến Phi (14). Huynh trưởng Gia đình Phật tử Khánh Quang, Khánh Hòa, đã tự nguyện thiêu thân trước tòa Tỉnh trưởng tỉnh Khánh Hòa (Nha Trang) để cúng dường Phật pháp và xin làm ngọn đuốc để soi sáng cho những thế lực vô minh đang mưu đồ phá hoại Phật giáo.

 

         Sự hy sinh của Huynh trưởng Đào thị Yến Phi đã làm chấn động lương tâm nhân loại trên toàn thế giới. Hàng vạn anh chị em Huynh trưởng và đoàn sinh Gia đình Phật tử chúng ta khi nghe tin Huynh trưởng Yến Phi tự thiêu đều vô cùng đau xót, ngậm ngùi, không ai ngăn được nước mắt. Có nhiều anh chị em đã khóc như đang khóc cho người thân yêu nhất của mình vừa nằm xuống!

         Đau đớn và xót xa đến vô lường!

         Anh chị em chúng ta khóc vì thương tuổi đời của Phi còn quá trẻ. Cuộc đời của em đẹp như một cánh hoa vừa mới nở mà đã đem vùi trong đống lửa hồng đang rực cháy. Lên làm Huynh trưởng chưa được bao nhiêu ngày tháng mà đã tự nhận hy sinh thân mình để bảo vệ cho lý tưởng chung được vững bền, thì sự hy sinh của em dù đem sông dài biển rộng, núi cao rừng thẳm cũng không làm sao so sánh được!

                                                                                                              

 

          Em Thiêng liêng và Cao cả quá!

          Cảm xúc trước sự hy sinh lớn lao và kiên cường của Huynh trưởng Yến Phi, nhạc sĩ Minh Kim (tức Huynh trưởng Phú Toàn Cang) đã ngậm ngùi viết nên ca khúc Lửa Từ Bi.         

           Lửa Từ bi không chỉ hết lòng ca ngợi đức hy sinh và lòng dũng cảm của người chị trưởng Yến Phi, mà ca khúc đã thể hiện rất rõ tinh thần Bi Trí Dũng trong sứ mệnh Hộ pháp của người Huynh trưởng Gia đình Phật tử Việt Nam. Vì không có người Huynh trưởng trung kiên nào lại không ý thức được rằng: sự mất còn của Giáo hội là sự sinh tử của tổ chức Gia đình Phật tử chúng ta!

 

          Giai điệu: Chậm - Buồn - Thương đau - Luyến tiếc.

          Lời ca nghẹn ngào, xót xa, càng nghe càng cảm thấy trong lòng dâng lên vời vợi một nỗi thương đau!

                   “...Nhìn thân em ngã bên đường,

                        Lửa hồng bừng cháy công trường

                        Mắt nhìn theo ngấn lệ vương...”

 

          Sau khi ca khúc Lửa Từ bi của nhạc sĩ Minh Kim ra đời được một thời gian, thì nhạc sĩ Hằng Vang cũng cảm xúc viết nên ca khúc Tưởng Niệm Yến Phi.

          Tưởng niệm Yến Phi cũng là một ca khúc thể hiện rất sâu sắc và trọn vẹn tấm lòng kính mến trước tấm gương hy sinh hào hùng, bất khuất của Một người Huynh trưởng Gia đình Phật tử. Một Con Người - Sống đã hết lòng vì lý tưởng thiêng liêng và Chết đã không hỗ thẹn với non sông đất nước, với dân tộc giống nòi.

         Em đem thân làm ngọn đuốc, đó là đuốc của trí tuệ để chiếu rọi vào thế lực vô minh. Thịt da Em rồi sẽ trở thành tro bụi miên viễn giữa lòng Đất Mẹ, nhưng chí khí sắt son và nghị lực kiên cường của Em mãi đến nghìn thu vẫn còn rạng rỡ và bất diệt giữa lòng Đạo pháp và dân tộc. Các thế hệ Huynh trưởng và đoàn sinh Gia đình Phật tử Việt Nam đến muôn đời còn “Tưởng Niệm Yến Phi”.

 

         Tưởng nhớ Em không chỉ cất lên những lời ca vang vọng giữa không gian mênh mông, không chỉ nhìn sự hy sinh cao cả của Em ghi đậm nét trên trang sử vàng của dân tộc và Đạo pháp, mà Tưởng nhớ Em là để un đúc chí khí kiên trinh, rèn luyện thân tâm bền vững, rồi có khi nào đó sẽ bước theo dấu chân Em trên những nẻo đường lâm nguy của Đạo pháp mà Em đã một lần hăng hái bước đi qua...!

 

          Với hai ca khúc nêu trên, hai nhạc sĩ Huynh trưởng đã không hết lời ca ngợi và tỏ lòng tưởng nhớ đến sự hy sinh cao cả của Một Con Người - Đúng hơn và thắm thiết hơn là Một Người Em cùng chung Màu cờ, Sắc áo - Một Người Em đã không hề tiếc thân mạng son trẻ của mình để thể hiện trọn vẹn tinh thần Bi Trí Dũng trong sức nóng của ngọn lửa hồng.

 

         Hai ca khúc nầy ra đời không bao lâu sau ngày Yến Phi tự thiêu, nhưng rất tiếc là cả hai ca khúc đã không được hát rộng rãi trong Huynh trưởng và đoàn sinh Gia đình Phật tử chúng ta lúc bấy giờ. Một phần cũng do hơi khó tập, khó hát và phần còn lại là cả hai ca khúc nầy đều “sinh bất phùng thời”, vì khi hai ca khúc nầy ra đời thì anh chị em Huynh trưởng và đoàn sinh lại hăng hái “lên đường” trong những cuộc đấu tranh liên tiếp của Phật giáo Việt Nam với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu

          Do đó, mà các anh chị em Huynh trưởng và đoàn sinh có muốn hát cũng không còn tâm trí hay thì giờ để hát. Âu đó cũng là một chướng duyên để anh chị em chúng ta không làm tròn bổn phận đối với người Huynh trưởng trẻ trung, hiền dịu đã quên thân mình vì lý tưởng thiêng liêng và cao quý của chúng ta.

                                                      &

 

         Vào khoảng tháng 3 năm 1965, Nha Tuyên úy Phật giáo (15) Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại miền Nam Việt Nam, đã tổ chức kỳ thi sáng tác Phật nhạc. Trong kỳ thi nầy, có trên 100 tác phẩm gửi về tham dự.

 

           Sau khi các ca khúc trúng giải, đều được Nha Tuyên úy Phật giáo ấn hành dưới hình thức quay ronéo để gởi đến cho các tác giả và lưu hành. Các ca khúc nầy, lần lượt được phát thanh trong chương trình của Nha Tuyên úy Phật giáo trên hệ thống B, của đài phát thanh Sài Gòn lúc bấy giờ.

          Ca khúc Ánh Đạo vàng của nhạc sĩ Huynh trưởng Hằng Vang (Ban Hướng dẫn GĐPT. Daklak) chiếm Giải nhất trong kỳ thi nầy (Xin xem phần viết về ca khúc Ánh Đạo vàng ở trang 51).

 

          Qua cuộc thi Phật nhạc do Nha Tuyên úy Phật giáo tổ chức, tôi có đôi điều suy nghĩ như sau: Suốt 15 năm qua - từ năm danh hiệu Gia đình Phật tử ra đời cho đến năm 1965 - kể chung tất cả các tổ chức Phật giáo nằm trong hệ thống Giáo hội, thì đây là lần đầu tiên và duy nhất có một tổ chức Phật giáo mở cuộc thi sáng tác Phật nhạc.

         Vì thế cho nên tôi thấy có một điều thật đáng tiếc là cuộc thi nầy lại không do Ban Văn nghệ của Ban Hướng dẫn Trung Ương tổ chức, mà lại do Nha Tuyên úy Phật giáo tổ chức. Trong khi đó, theo chỗ tôi được biết rõ thì hầu hết các tác phẩm dự thi đều do các nhạc sĩ Huynh trưởng Gia đình Phật tử sáng tác và gởi đi tham dự. Hơn nữa, Nha Tuyên úy Phật giáo là một tổ chức Phật giáo mới được thành lập từ ngày 01. 7.1964, mà đến tháng 3 năm 1965 đã tổ chức và đạt kết quả mỹ mãn một kỳ thi sáng tác Phật nhạc.

         Trong khi đó, Gia đình Phật tử ra đời đã 25 năm - từ năm 1940 đến năm 1965 - mà lại chưa tổ chức được một kỳ thi sáng tác Phật nhạc nào! Âu cũng là một điều đáng suy gẫm, nếu không muốn nói là đáng buồn! Việc nầy, đến Hội nghị Gia đình Phật tử toàn quốc họp tại Sài Gòn, năm 1967, tôi mới thấy ghi ở Điều 33,39,41 và 45, ở Chương thứ III (Phần huấn luyện) trong bản Quy chế Huynh trưởng Gia đình Phật tử Việt Nam rằng:”Trại ca, sẽ do Ban Hướng dẫn Trung ương tổ chức cuộc thi sáng tác”. Thế nhưng mãi cho đến ngày 30.4.1975, tôi vẫn chưa thấy có cuộc thi sáng tác Phật nhạc nào!

 

 

          Mặc dầu Gia đình Phật tử không tổ chức, nhưng sau đó thì cũng đã được bổ sung thêm nhiều ca khúc rất hay do cuộc thi của Nha Tuyên úy Phật giáo tuyển chọn.

 

 

          Tóm lại, trong suốt 25 năm xây dựng và phát triển, tổ chức Gia đình Phật tử đã vun đắp được một nền ca nhạc đặc thù và mang đậm sắc thái màu áo Lam, đã gặt hái được nhiều thành tựu to lớn trong mọi sinh hoạt với nền ca nhạc nầy.

 

          Có thể nói, đây là giai đoạn mà nền ca nhạc Gia đình Phật tử Việt Nam ở vào thời kỳ hưng thịnh bậc nhất. Rất nhiều ca khúc được các nhạc sĩ Huynh trưởng sáng tác đã làm sáng rực cả khung trời sinh hoạt của màu áo Lam. Và những ca khúc nầy chắc chắn đã in những dấu son chói lọi trên chặng đường lịch sử của tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam chúng ta.

 

          Đến đây, tôi xin chấm dứt Phần biên khảo giai đoạn I, từ khởi nguyên cho đến năm 1965.

 

                                                     &

 

         Chú thích:

          1. Chúng tôi chưa tìm được nguyên tác ca khúc Hải Triều âm, trước khi được sửa đổi thành ca khúc Trầm Hương đốt.

          2. Đoàn Thanh niên Phật học Đức dục, ngày đầu thành lập gồm có 12 đoàn viên, đó là các anh: Phạm Hữu Bình (Đoàn trưởng), Đinh Văn Nam (HT.Minh Châu) (Đoàn phó), Ngô Điền (Thư ký), Đinh Văn Vinh, Ngô Thừa, Võ Đình Cường, Nguyễn Hữu Quán, Nguyễn Khải, Lê Kiểm, Phạm Quỵ, Hoàng Ngọc Phu, Lê Đình Duyên. Một thời gian sau lại có thêm 3 anh nữa, đó là các anh: Ưng Hội, Tráng Thông và Lâm Công Định (Tư liệu nầy do anh Lê Kiểm cung cấp).

          3.  Lời 2 và lời 3 bằng tiếng Pháp như sau:

                                  2. Vers le mieux sans un repit

                                       En avant d’ une mêm ferveur

                                       La terre résonnera

                                       Sous nos pas triomphateurs.

                                       Semons loin la vérité

                                       Allons donc levons nous tous

                                       La  chaleur des belles suttras

                                       Donnera paix et bonheur.                                      

                                   3. A l’ exemple des Arahants

                                       S’ en allant répandre leur zèle

                                       Apprenons au monde qui râle

                                       Ce qui cause sa douler.

                                       Quand partout rayonneront

                                       L’amour et le Pureté

                                       Toutes les voix entonneront

                                       Ce refrain plein de vigueur.

                                                                            

          4. Trích “Lịch sử GĐPT.Việt Nam”, do BHD.TƯ, ấn hành trong tài liệu Bậc Trì, trang 140.

          5,9. Phật lịch 2.507 là Phật lịch cũ, Phật lịch nầy tính theo niên đại đức Phật đản sinh năm 563.TCN. Năm 1956, Phật giáo Việt Nam vẫn còn sử dụng Phật lịch nầy.

          6-7. Theo “Sứ mệnh Gia đình Phật tử” của Người Áo Lam, do Lữ Hồ xuất bản năm 1965 tại Sài Gòn.

          8. Theo “Đây...Gia đình” của Võ Đình Cường, Nhà in Liên Hoa, Huế ấn hành năm 1956.

          10. Theo “Đoàn Thanh niên Phật học Đức dục ”của Nguyên Định Lê Kiểm, bản in năm 1995, tại Nha Trang.

  

          11. Hòa thượng Thích Quảng Đức, pháp danh Thị Thủy, pháp tự Hành Pháp. Thế danh là Lâm Văn Tuất, ngài sinh năm Đinh Dậu, 1897, tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Năm Nhâm Tuất, 1912, ngài thọ Sa Di giới với Hòa thượng Hoằng Thâm. Năm Đinh Tỵ, 1917, ngài thọ Đại giới.

          Năm Nhâm Thân, 1932, Hội Phật học tỉnh Ninh Hòa cung thỉnh Hòa thượng làm chứng minh Đạo sư. Trải qua 33 năm trời hoằng hóa, ngài đã kiến tạo và trùng tu đến 31 cảnh chùa. Năm Quí Tỵ, 1953, Giáo hội Tăng già Nam Việt cung thỉnh ngài về trú trì chùa Phước Hòa (ở khu Bàn cờ, Chợ Lớn). Ngày 11.6.1963, ngài phát nguyện tự thiêu tại ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt, Sài Gòn.

          12. Thiếu nữ Quách Thị Trang, sinh năm Mậu Tý, 1948, tại làng Cổ Khúc, huyện Tiên Hưng, tỉnh Thái Bình. Di cư theo gia đình vào Nam năm lên 6 tuổi (1954). Sống với cha mẹ tại vùng khám Chí Hòa. Năm lên 8 tuổi xin đến sinh hoạt với Gia đình Phật tử  Minh Tâm. Cho đến ngày 25.8.1963, trong khi đi đầu đoàn biểu tình thì bị cảnh sát của Ngô Đình Diệm bắn chết ngay tại công trường Diên Hồng. Năm 1964, tượng đài Quách Thị Trang được dựng ở công trường nầy. Đến sau ngày 30.4.1975, tượng đài Quách Thị Trang đã bị dở bỏ.

           13. Tâm Đại là pháp danh của Huynh trưởng Lê Văn Dũng, Ban viên BHD. Tổng Hội. Theo quyết định số 84-HDTH/HT ngày 10.3.1956, anh được xếp Cấp Tấn.

 

        14.  Huynh trưởng Đào Thị Yến Phi, sinh ngày 26.4 năm Đinh Hợi (ngày 06.01.1948), tại tỉnh Hà Đông, Bắc Việt. Năm Mậu Tuất, 1958 gia nhập Đoàn Oanh vũ nữ Gia đình Phật tử Linh Thứu, Nha Trang. Năm 1961, được lên ngành Thiếu. Năm 1962, quy y Tam bảo, được đặt pháp danh là Nguyên Thường, tự Tuệ Mai. Năm 1964, tham dự trại huấn luyện Lộc Uyển tại Khánh Hòa. Sau khi trúng cách, Yến Phi xin về sinh hoạt với Gia đình Phật tử Khánh Quang cho gần gia đình. Lúc 14giờ 30 ngày 26.01.1965, Yến Phi phát nguyện tự thiêu trước tòa Tỉnh trưởng Khánh Hòa (Nha Trang), giữa lúc đông đảo Tăng Ni và Phật tử đang ngồi tuyệt thực

 

         15. Nha Tuyên úy Phật giáo Quân lực Việt Nam Cộng hòa được thành lập do Quyết định số 04/VT/VP/QĐ ngày 07.3.1964 của Viện trưởng Viện Hóa đạo GHPGVNTN. Và Sắc lệnh số 224/QP ngày 01.7.1964 của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Thượng tọa Tâm Giác được cử làm Giám đốc với cấp bậc đồng hóa Trung tá Quân đội Việt Nam Cộng hòa lúc bấy giờ.

                                        

 

 

          I. SỬ LIỆU

             Chúc từ của Gia đình Phật tử Thừa Thiên đọc trong Lễ khai mạc “Hội nghị Phật giáo toàn quốc Việt Nam”, năm 1951 tại chùa Từ Đàm, Huế.

             Thưa quí vị Đại biểu,

             Chúng con thay mặt cho toàn thể Gia đình Phật tử trân trọng có lời xin chúc mừng Hội nghị.

             Trước cảnh tưng bừng chưa từng có nầy, lòng chúng con rộn lên vì sung sướng. Bao năm Bắc Nam chia cách, hôm nay lần đầu tiên, chúng con mới thấy được cảnh đoàn tụ huy hoàng.

             Quen sống trong cảnh sum họp, vui vầy của Gia đình Phật tử, chúng con hằng mong ước rằng Phật giáo Việt Nam cũng thành một Gia đình vĩ đại. Lòng mong ước ấy đã được thực hiện hôm nay, đất Việt Nam yêu mến!

              Thưa quí vị Đại biểu,

              Để kỷ niệm ngày lịch sử hôm nay, chúng con xin dâng quí vị một bó hoa mà chúng con mệnh danh là “Bó hoa Thống nhất” và một bài hát mà chúng con vừa mới đặt tặng cho Hội nghị, nhan đề là ”PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT”.

             Xin kính chào quí vị.

 

 

         II. CÁC CA KHÚC

              Xếp theo thứ tự được trình bày trong Phần biên khảo.

 

 1. Hải triều âm - Trầm Hương đốt           Bửu Bác

 2. Rangeons-nous mes amis                    Ưng Hội

 3. Hoa Sen trắng                                      Ưng Hội,

                                       Phạm Hữu Bình, Nguyễn Hữu Quán

 4. Phật giáo Việt Nam thống nhất            Lê Cao Phan

 5. Vui dựng gia đình                                Kim Bảng

 6. Dây thân ái                                           Lê Lừng

 7. Gia đình thân ái                                    Lê Mộng Nguyên

           8. Dòng Anôma                                        Hoàng Cang

           8bis Thành Catỳla                                    Hoàng Cang

          10. Mục Kiền liên                                      Kim Bảng

          11. Em đến chùa                                        Dương Thiện Hiền

          12. Xuất gia                                               Hoàng Cang

          13. Chim bốn phương                                Hoàng Cang

          14. Kính mến Thầy                                    Dương Xuân Dưỡng

          15. Trai áo Lam                                          Mạnh Cương

          16. Kết đoàn                                               Anh Lạc

          17. Tiến trong Ánh vàng                            Lê Cao Phan

          18. Hướng Phật đài                                    Lê Mộng Nguyên

          19. Mừng Khánh đản                                 Lê Mộng Nguyên

          20. Mừng ngày Đản sanh                           Nguyên Thông

          21. Mừng ngày Phật đản                Y Mai, Đặng Lê Nguyễn

          22. Về dưới Phật đài                                  Trần Nhật Thành

          23. Tôi yêu màu Lam                                 Trần Nhật Thành

          24. Nhớ mái chùa xưa                    Nguyên Đàm, Nguyên Diệu

          25. Chùa làng tôi                            Nguyên Đàm, Hiếu Nghĩa

 

          26. Ánh Đạo vàng                                         Hằng Vang

          27. Trái tim Bồ tát                                        Trường Long

          28. Em là vì sao sáng                                    Nguyễn Hiền

          29. Từ Đàm quê hương tôi             Nguyên Thông, Tâm Đại

          30. Mây loạn                                                 Anh Lạc

          31. Lửa Từ bi                                                Minh Kim

          32. Tưởng niệm Yến Phi                              Hằng Vang

 

               Tác phẩm của các nhạc sĩ ngoài Gia đình Phật tử,

                              đề cập trong Phần biên khảo.

 

            1. Mầm Măng                                             Lưu Hữu Phước

            2. Họp đoàn                                                Tâm Nguyện

            3. Thiếu nhi thôn quê                                 Tâm Nguyện

            4. Hát to hát vang                                       Tâm Bảo

            5. Trăng Trung thu                                     Tâm Bảo

            6. Thằng cuội                                              Lê Thương

            7. Rước đèn tháng tám                               Văn Thanh

            8. Đêm trong rừng                                      Hoàng Quý

 

                                                     &

 

 

       Được sự đồng ý của tác giả, Học chúng Đà Di chúng tôi, chỉ in ấn được vài chục tập chuyền tay nhau Lưu hành nội bộ và các Gia đình Phật tử lân cận. Do kinh phí hạn hẹp, nên không đáp ứng được nhu cầu của độc giả. Vì vậy, các tổ chức, đơn vị GĐPT. nếu có nhu cầu xin tự in ấn, hoặc hỗ trợ kinh phí cho chúng tôi tiếp tục in ấn.

       Tập II, tác giả đã hoàn thành bản thảo, nhưng cũng chưa có điều kiện để in ấn. Kính mong quý độc giả chung tay góp sức cùng Học chúng Tô Đà Di để thực hiện việc in ấn nói trên. Mọi ý kiến đóng góp xin gởi về:

 

             “Học chúng Đà Di, chùa Phước Duyên, Huế”

               Đt. 0167.8732.563

 

 

 

 

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle
Các bài viết khác