Hình ảnh ngôi chùa trong văn hóa nghệ thuật Nam bộ

hinh anh ngoi chua

Hoài Phong

 

Văn hóa nghệ thuật là một thành tố quan trọng cấu thành nên văn hóa. Theo cách hiểu ngày nay, văn hóa nghệ thuật bao gồm nhiều lĩnh vực, trong đó có cả văn chương. Tuy nhiên, do hình ảnh ngôi chùa trong văn chương Nam Bộ đã được công bố trong một bài viết cách đây ít lâu, nên trong phần này, người viết chỉ đề cập tới hình ảnh ngôi chùa trong một số loại hình nghệ thuật khác như mỹ thuật, điêu khắc, nghệ thuật sân khấu và nghệ thuật điện ảnh.

1. Ngôi chùa trong hội họa, điêu khắc Nam Bộ

Điểm nổi bật đầu tiên trong việc thể hiện hình ảnh ngôi chùa trong hội họa Nam Bộ là hình ảnh ngôi chùa gắn liền với cảnh sắc quê hương của vùng đất mới. Đây là chủ đề mang tính truyền thống mà hội họa Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng thường thể hiện. Có thể thấy mảng chủ đề này qua nhiều tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau như tranh vẽ, tranh thêu, tranh cát, tranh gốm, tranh sơn mài... Đặc biệt ở Nam Bộ, hình ảnh ngôi chùa còn được thể hiện qua tranh kiếng - một thể loại đặc trưng của hội họa Nam Bộ. Trong các tác phẩm thuộc thể loại này, hình ảnh ngôi chùa cũng được phản ảnh như là một bộ phận tạo nên điểm nhấn quan trọng cho tổng thể một tác phẩm hội họa. Điều đó dễ hiểu, bởi vì ngôi chùa là cơ sở tôn giáo, là không gian văn hóa, là một biểu tượng tâm linh gắn với các giá trị văn hóa cộng đồng, do đó, việc phản ánh ngôi chùa vào trong các tác phẩm hội họa Nam Bộ không chỉ khiến cho cảnh sắc quê hương Nam Bộ vốn đa sắc màu càng trở nên có hồn hơn mà còn khiến cho tác phẩm phản ánh trọn vẹn hơn cảm quan của người nghệ sĩ đối với cuộc sống, con người Nam Bộ.

Bên cạnh hình ảnh những ngôi chùa gắn với cảnh sắc quê hương, một số tác phẩm hội họa Nam Bộ còn cho thấy hình ảnh ngôi chùa còn gắn với những vùng đất, những nơi hoang vu, tịch tĩnh. Có thể thấy các tác phẩm này nơi một số các ngôi chùa ở Nam Bộ như: Chùa Viên Âm, Chùa Bửu Lộc (Đồng Nai), Chùa Long Hoa (Bà Rịa Vũng Tàu)... Đó là những không gian gắn liền với dốc núi, ngọn đồi, những con sông, khe suối ít người qua lại. Trong các bức tranh đó, sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống xã hội bên ngoài hoàn toàn vắng bặt. Chỉ có núi rừng, tiếng chim kêu, tiếng sóng vỗ... và tâm thức thoát tục của các nhà sư như là một thực tại hiển hiện thông qua lăng kính tâm hồn người nghệ sĩ. 

Ngoài việc gắn với thiên nhiên, cảnh sắc quê hương, với không gian tịch tĩnh của núi rừng hoang vắng, hình ảnh ngôi chùa còn gắn với sinh hoạt của con người, trong đó có cả những sinh hoạt tu học của các nhà sư hay chú tiểu ở trong chùa như trường hợp bức tranh Vui đạo[1] của thiền sinh Thiền viện Thường Chiếu. Trong bức tranh này, sự hồn nhiên, vui tươi của các nhân vật được phản ánh ở một góc nhỏ của ngôi chùa khiến cho người xem phần nào cảm nhận được đời sống tu học của những hành giả trẻ tuổi này trong chốn thiền môn yên tĩnh. Sự tương phản một bên là hình ảnh ngôi chùa cũ kỹ, nghèo nàn và một bên là sự hồn nhiên vui chơi của các chú tiểu trong bức tranh càng tô đậm hơn chủ đề của tác phẩm, đó là niềm an vui, hỷ lạc của những hành giả tu tập trong những ngôi chùa ở Nam Bộ.

Trong điêu khắc, hình ảnh ngôi chùa cũng được thể hiện trong một không gian thiên nhiên đẹp. Tuy không nhiều, không đa dạng nhưng sự hiện diện của nó cũng góp phần khẳng định vị trí quan trọng của ngôi chùa trong đời sống tinh thần của cư dân người Việt Nam Bộ. Có thể thấy những bức phù điêu này ở các ngôi chùa khác nhau như Thiền viện Thường Chiếu (Đồng Nai), Chùa Kiều Đàm (quận 9)... Trong những bức phù điêu này, hình ảnh ngôi chùa chỉ xuất hiện mang tính ước lệ, đôi khi chỉ được thể hiện bằng một phần của mái ngói cong vút của ngôi chùa như trường hợp bức phù điêu Huệ Khả cầu đạo ở Thiền viện Thường Chiếu, công trình điêu khắc công viên tượng đài Bồ-tát Thích Quảng Đức...  

Ở một số trường hợp khác, hình ảnh ngôi chùa còn được thể hiện trong hơi hướng của cuộc sống hiện đại gắn với sinh hoạt đời thường của con người. Tiêu biểu cho trường hợp này là tác phẩm Ngưỡng thiện ác của họa sĩ Võ Thị Hoàng Anh. Điểm đặc biệt là, mặc dù được điêu khắc trên nền gỗ nhưng tác phẩm được phối màu, tạo thành một bức tranh thể hiện nếp sinh hoạt đa dạng của con người trong một ngôi chùa Phật giáo. Tại đây, dường như cũng có sự tương phản nào đó giữa một bên là đời sống tôn giáo, tín ngưỡng hướng thượng của hai mẹ con người phụ nữ và một bên là sự lợi dụng tín tâm của những người đi lễ chùa của một thành phần xã hội nào đó để trục lợi. Có thể nói bức tranh đã phản ánh một vấn đề hết sức bức thiết đang diễn ra trong không gian chùa Nam Bộ. Nó khiến cho người xem suy nghĩ thật nhiều về các giá trị của xã hội, đồng thời mở ra một chiều sâu tư duy về ranh giới mỏng manh giữa thiện – ác, tốt – xấu trong xã hội hiện đại này.

Trong khi đó, ở một số ngôi chùa khác như Vĩnh Nghiêm (thành phố Hồ Chí Minh), Viên Âm (Đồng Nai), hình ảnh ngôi chùa lại được chạm nổi trên các bàn thờ nơi chánh điện hoặc trên các bức khảm xà cừ treo tường. Tại đây, ngôi chùa không đặt riêng biệt mà được đặt cạnh các ngôi chùa khác tiêu biểu cho kiến trúc chùa ở Trung và Bắc Bộ. Điều đó cho thấy, hình ảnh ngôi chùa trong điêu khắc ở những trường hợp này không chỉ được xem là một phần của bức tranh thiên nhiên đẹp thường thấy nữa mà hơn hết, nó biểu hiện cho các giá trị kiến trúc, giá trị văn hóa đặc trưng của vùng miền. Không phải ngẫu nhiên mà người ta lại chạm nổi hình ảnh Chùa Một Cột để tượng trưng cho chùa chiền Bắc Bộ và cũng không phải ngẫu nhiên mà người ta lại chạm nổi hình ngôi chùa Thiên Mụ để tượng trưng cho chùa chiến xứ Huế, rộng hơn là Trung Bộ. Đó là các ngôi chùa gắn với đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng, là biểu trưng của Phật giáo vùng Trung Bộ và Bắc Bộ. Trong tương quan đó, ngôi chùa Nam Bộ cũng mang ý nghĩa đại diện cho các giá trị văn hóa Phật giáo vùng như thế. 

2. Ngôi chùa trong nghệ thuật sân khấu Nam Bộ

Ở Nam Bộ, nghệ thuật sân khấu có nhiều loại, bao gồm: kịch, hát bội, nói thơ, nói truyện, hát chập, cải lương... Trong đó, cải lương là loại hình sân khấu có sức hút mãnh liệt đối với người dân Nam Bộ.

Ra đời vào khoảng cuối thập niên hai mươi của thế kỷ XX, chỉ trong vòng một thời gian ngắn, loại hình nghệ thuật này gần như chinh phục một cách trọn vẹn thị hiếu của người dân ở đây, thậm chí còn lan nhanh qua các vùng khác trong cả nước. Số lượng soạn giả, các tác phẩm kịch bản, các đoàn hát ra đời ngày một nhiều hơn, nội dung phản ánh thì vô cùng phong phú với nhiều khuynh hướng nghệ thuật khác nhau như cải lương kiếm hiệp La Mã, cải lương Phật giáo, cải lương kiếm hiệp kỳ tình, cải lương lãng mạn... Trong đó, cải lương Phật giáo là một trong ba khuynh hướng nổi bật nhất của sân khấu cải lương giai đoạn đầu[2], với nhiều vở diễn nổi tiếng lúc bấy giờ như Đức Phật nhập Niết-bàn, Quán Âm Bồ-tát, Tam Tạng thỉnh kinh, Quả báo kỳ duyên...

Là một bộ phận và là bộ phận đặc biệt của Phật giáo gắn liền với sinh hoạt cộng đồng, ngôi chùa nhanh chóng trở thành đối tượng phản ánh của sân khấu cải lương trong những năm đầu tiên và trở thành hình ảnh quen thuộc trong đời sống sinh hoạt của loại hình nghệ thuật này.

Trước hết là hình ảnh ngôi chùa như là một không gian tâm linh trong vở diễn nổi tiếng gắn liền với tên tuổi của các nghệ sĩ tài danh như Út Trà Ôn, Út Bạch Lan: Trăng rụng sau chùa. Nội dung vở cải lương này xoay quanh cuộc tình ngang trái của hai nhân vật chính là Thiệu Linh và Vân Sương. Đó là một mối tình đẹp, trong trắng đầy hứa hẹn. Tuy nhiên, cuộc gặp gỡ định mệnh giữa Vân Sương và Hòa thượng Kỳ Sơn – trụ trì  ngôi chùa vô danh đã biến cuộc tình ấy thành một tấn bi kịch đầy nước mắt. Thông qua cuộc gặp gỡ và kỷ vật mang trên mình, Hòa thượng bất ngờ nhận ra Vân Sương chính là đứa con gái hơn hai mươi năm xa cách của mình; đồng thời ông cũng cho biết Thiệu Linh – người yêu của Vân Sương chính là anh ruột của cô. 

Không vượt qua được những khổ đau do sự thật này mang đến, Vân Sương đã nhảy suống giếng chùa tự vẫn trước sự khổ đau tột độ của mọi người. Tuy nhiên, với trí tuệ sáng suốt của một người suốt hơn hai mươi năm nương náu chốn thiền môn, bằng một buổi pháp thoại ngắn về luật nhân quả, Hòa thượng Kỳ Sơn đã tháo gỡ những oan khiên, nghiệp chướng, giúp cho mọi người vượt qua những khổ đau, hệ lụy và tiếp tục sống một cuộc đời an vui, hạnh phúc trước sự mất mát đau thương bởi cái chết của Vân Sương.

Vở cải lương mở đầu bằng hình ảnh của một ngôi chùa và cũng khép lại trong phối cảnh ngôi chùa ấy. Đó là nơi chứng kiến mối tình đẹp đẽ của đôi trai gái yêu nhau, mặc dù gia đình họ không chấp nhận; là nơi che chở, thăng hoa đời sống Hòa thượng Kỳ Sơn trên hai mươi năm dài; là nơi cha gặp lại con, vợ gặp lại chồng và cuối cùng ngôi chùa là nơi bộc lộ sự thật về cuộc đời của một gia đình, nơi an ủi những tâm hồn đang quặn đau trước sự mất mát của người thân yêu.

Tiếp theo đó là hình ảnh ngôi chùa như là kết tinh của những giá trị văn hóa cộng đồng. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là các vở Máu nhuộm sân chùa, Đêm lạnh chùa hoang...

Đêm lạnh chùa hoang của tác giả Yên Lang là một vở cải lương thuộc khuynh hướng kiếm hiệp trữ tình lãng mạn. Nó lấy bối cảnh của cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai dân tộc Mông Cổ và Trung Hoa làm nền cho vở diễn. Trong cuộc chiến khốc liệt này, Tần Lĩnh Sơn – một kẻ giang hồ lang bạt mang trong mình trái tim nhiệt huyết của tuổi trẻ yêu quê hương đất nước Trung Hoa đã vô tình đem lòng yêu thương Hồ Bảo Xuyên – một người con gái trực tiếp đem quân sang xâm lược quê hương xứ sở của mình. Khi hiểu ra sự thật, cả hai bị đặt vào một tình thế hết sức khó xử: hoặc là vì Tổ quốc thiêng liêng, hoặc vì tình yêu đôi lứa. Trước sự lựa chọn khắt khe này, Hồ Bảo Xuyên đã gạt qua sứ mệnh thiêng liêng của Tổ quốc là phải lấy cho được bức mật đồ đem về Mông Cổ để đổi lấy cái chết đẹp đẽ cho tình yêu.

Có một điểm đáng nói là, ở đây, cái chết của quận chúa Bảo Xuyên được đặt trong bối cảnh của một ngôi chùa hoang sơ, cô quạnh ở đất Trung Hoa – kết quả tất yếu của cuộc chiến tranh tàn khốc giữa hai dân tộc. Tuy nhiên, từ phương diện phối cảnh sân khấu cho thấy, ngôi chùa trong vở cải lương Đêm lạnh chùa hoang lại mang dáng vẻ của một ngôi chùa người Việt, và trong trường hợp này có thể hiểu đó là ngôi chùa người Việt Nam Bộ. Có hai lý do có thể đi đến kết luận như thế về hình ảnh ngôi chùa trong vở diễn này. Thứ nhất, vở cải lương này ra đời và diễn ở Nam Bộ, do đó hình ảnh ngôi chùa phải được phối cảnh phù hợp với tâm thức, thẩm mỹ của người Nam Bộ. Thứ hai, phản ánh chiến tranh bằng hình ảnh ngôi chùa hoang sơ, tiêu điều là bút pháp thường xuất hiện qua nghệ thuật văn chương Nam Bộ.

Một điểm nổi bật khác là hình ảnh ngôi chùa gắn với đời sống tôn giáo, tín ngưỡng nhưng có phần tiêu cực trong đời sống cộng đồng. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là các vở Đẹp duyên chùa tháp, Quả báo kỳ duyên, Áo cưới trước cổng chùa...

Không góp phần phản ánh chiến tranh như hình ảnh ngôi chùa trong Đêm lạnh chùa hoang, hình ảnh ngôi chùa trong vở diễn Áo cước trước cổng chùa của soạn giả Kiên Giang thực sự là một ngôi chùa tôn nghiêm với rất nhiều sinh khí của một cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng. Tuy nhiên, có một điểm dường như xuất phát từ định kiến sai lầm của một bộ phận người nào đó trong xã hội khi xem ngôi chùa ở đây không phải là nơi hun đúc đạo đức, tâm linh mà chỉ là nơi gá thân, nương nhờ của những người chán đời hay thất bại trong tình yêu đôi lứa. Ý nghĩa này không chỉ xuất hiện trong vở diễn Áo cưới trước cổng chùa mà còn có thể tìm thấy ở một số vở diễn khác như Lan và Điệp, Nửa đời hương phấn….

Gần đây, hình ảnh ngôi chùa như là chốn trở về của đời sống tín ngưỡng, tâm linh mới thực sự được định hình với hàng loạt vở diễn như Nỗi niềm hối hận của tác giả Lâm Hữu Tặng và Xuân Phúc, Khai sáng đạo mầu của tác giả Thích Minh Giới, Cán cân nhuộm máu của Lê Quang Nậm... Có lẽ, sự xuất hiện hình ảnh ngôi chùa trong các vở diễn này xuất phát từ nhu cầu thực tế của khán giả Nam Bộ, nhưng cũng có thể nó xuất phát từ hoạt động truyền bá Phật pháp của các nhà sư hoặc các tín đồ hữu tâm với nhà Phật. Cho dù xuất phát từ trường hợp nào, việc đưa hình ảnh ngôi chùa vào trong nghệ thuật sân khấu cải lương cũng mang thông điệp nào đó nhằm xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn cho cộng đồng, theo quan điểm nhà Phật. Chính vì vậy, ngôi chùa trong những trường hợp này không còn bị nhận thức là nơi lánh đời, tiêu cực nữa mà trở thành không gian tâm linh hướng thượng, giúp con người thanh tẩy ô uế của trần tục, sống cuộc đời hạnh phúc hoặc ít nhất cũng là nơi hướng con người đến cái thiện, nơi đào thải cái ác.

3. Ngôi chùa trong nghệ thuật điện ảnh

Trong lĩnh vực nghệ thuật điện ảnh, ngôi chùa cũng góp phần tạo nên một dấu ấn riêng của nó. Đặc biệt, là hình ảnh ngôi chùa với chức năng văn hóa - xã hội sâu rộng của nó, trong đó có cả việc ngôi chùa là nơi nuôi giấu cán bộ cách mạng. Tiêu biểu là bộ phim Biệt động Sài Gòn của đạo diễn Vân Long, sản xuất đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Trong bộ phim này, hình ảnh ngôi chùa chỉ xuất hiện trong một phân đoạn ngắn nhưng lại phản ánh phong phú các chức năng khác biệt của ngôi chùa, trong đó, có cả việc nuôi giấu cán bộ cách mạng. Đây là chức năng quan trọng và nổi bật nhất của ngôi chùa ở Nam Bộ so với ngôi chùa ở các vùng khác trong cả nước. Thực ra, trước đó, chức năng này của ngôi chùa đã được phản ánh khá nhiều trong các hồi ký, bút ký của các tác giả Nam Bộ. Tuy nhiên, có thể nói, trong nghệ thuật điện ảnh, việc để cho Huyền Trang – nữ nhân vật chính của phim giả dạng một tu sĩ ẩn náu chốn thiền môn để hoạt động cách mạng là một hình ảnh mà trước đó chưa hề có. Việc làm này, một mặt góp phần làm phong phú hơn về hiện thực đời sống đấu tranh của dân tộc, mặt khác cũng cho thấy vai trò mới của ngôi chùa trong tâm thức của người dân Nam Bộ.

Trong các bộ phim xuất hiện sau này mang chủ đề Phật giáo, hình ảnh ngôi chùa được phản ánh nhiều và đa diện hơn. Đặc biệt là sự xuất hiện của thể loại phim ký sự Phật giáo mà tiêu biểu nhất là bộ phim ký sự Hành trình chùa Việt của đạo diễn Điệp Văn. Bộ phim này đã thực sự mang đến cho khán giả một cái nhìn toàn diện về ngôi chùa Việt Nam, trong đó có ngôi chùa người Việt Nam Bộ. Ngoài việc giới thiệu lịch sử hình thành, lịch sử truyền thừa của ngôi chùa, bộ phim còn giới thiệu đến khán giả những nét văn hóa tiêu biểu của những ngôi chùa ở khắp nơi trên đất nước. Qua đó, khán giả có thể cảm nhận nét đẹp, nét văn hóa đặc trưng của kiến trúc, điêu khắc cũng như các yếu tố, hình thức thờ tự trong ngôi chùa.

Ngoài ra, người ta còn thấy hình ảnh ngôi chùa xuất hiện như là nơi hun đúc, đào tạo nhân tài cho Phật giáo Nam Bộ trong một số phim tài liệu về cuộc đời các nhân vật nổi tiếng của Phật giáo như Bác sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám (Đài truyền hình Việt Nam sản xuất), Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu – cuộc đời và sự nghiệp (Đạo diễn Diệp Văn). Ở thể loại phim này, ngôi chùa được xem là cái nôi che chở, hun đúc lý tưởng sống của của họ trong sự nghiệp hoằng dương Phật pháp, cống hiến cho xã hội.

Gần đây, nhiều ngôi chùa còn được các kênh truyền thông chuyên đề giới thiệu như là những danh lam thắng cảnh, những di sản văn hóa của dân tộc. Tiêu biểu nhất cho khuynh hướng này là tác phẩm Những ngôi chùa cổ Sài Gòn của Phật Âm. Mặc dù có nhan đề là Những ngôi chùa cổ Sài Gòn, nhưng thực chất tác phẩm giới thiệu nhiều ngôi chùa khác nhau ở đất Sài Gòn như chùa Giác Lâm, chùa Giác Viên và cả những ngôi chùa xây dựng vào thế kỷ XX nhưng nổi tiếng ở Sài Gòn như chùa Vĩnh Nghiêm... Điều đó cho thấy, ngôi chùa ngày càng có khả năng đi vào đời sống của người dân Nam Bộ một cách sâu rộng hơn.

Như vậy, từ việc gắn bó với đời sống sinh hoạt hằng ngày của người dân Nam Bộ thông qua dấu ấn để lại trong các loại hình nghệ thuật, ngôi chùa trở thành yếu tố văn hóa gần gũi, gắn bó và có khả năng tác động vào toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần của người dân Nam Bộ. Sự gắn bó, gần gũi đó đã góp phần đưa ngôi chùa trở thành biểu tượng đạo đức, tâm linh, biểu tượng văn hóa của cộng đồng.

chùa vĩnh nghiêm, Tp hcm

 



[1] Chủ để bức tranh do tác giả đặt.

[2] Tuấn Giang, Lịch sử cải lương. - http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=16419

Chia sẻ: facebooktwittergoogle
Các bài viết khác