"Phật giáo ở đâu...?": Câu hỏi muộn màng (Bài 3)

Minh Thạnh

Trong bài này, chúng tôi xin giản lược câu hỏi “Phật giáo ở đâu trên bản đồ vùng Tây Bắc?” thành “Phật giáo ở đâu…?”. Mục tiêu của việc giản lược này là để khảo sát chung quan hệ Phật giáo đối với cả đồng bào dân tộc thiểu số ở 2 vùng cao nguyên của Tổ quốc, là Tây Bắc và Tây Nguyên, với những nét tương đồng cơ bản về sinh hoạt tôn giáo. Bài viết này sẽ tìm hiểu những lần chậm trễ của Phật giáo Việt Nam đối với việc hoằng pháp đến với đồng bào dân tộc ít người miền núi và cao nguyên. Theo chúng tôi, quá trình chậm trễ đó của Phật giáo Việt Nam đã diễn ra trong khoảng 120 năm, với những mốc đánh dấu chính, và hiện nay vẫn đang trong tình trạng chậm trễ.

Quá trình Phật giáo Việt Nam chậm trễ trong việc hoằng pháp đến với đồng bào dân tộc ít người miền núi và cao nguyên gắn liền với tiến trình thiểu số hóa Phật giáo Việt Nam trong thế kỷ XIX và XX, là một tác nhân gây nên tình trạng thiểu số hóa tín đồ Phật giáo và cũng là một biểu hiện của quá trình thiểu số hóa đó (vì đã loại trừ một bộ phận dân cư sống trên lãnh thổ Việt Nam).

Những tài liệu chính mà chúng tôi căn cứ là:

-         Việt Nam Phật giáo sử luận, tác giả Nguyễn Lang

-         Năm mươi năm chấn hưng Phật giáo Việt Nam, tác giả Thích Thiện Hoa

-         Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam, tác giả Vân Thanh

VÀO CUỐI THẾ KỶ XIX, ĐẦU THẾ KY XX, Phật giáo Việt Nam rơi vào tình trạng suy thoái (về mặt chủ quan) và bị nhà cầm quyền thực dân Pháp chèn ép, gây những tác động tiêu cực (về mặt khách quan). Vì vậy, hoạt động hoằng pháp khi đó, ngay ở những vùng đô thị, đồng bằng, cũng rất yếu kém. Hoạt động của Phật giáo Việt Nam lúc đó hầu như chỉ là hoạt động cúng bái, ma chay. Số tu sĩ tín đồ am hiểu đạo Phật trong người Kinh vẫn rất hạn chế. Vì thế, tất nhiên việc hoằng pháp cho đồng bào dân tộc ít người ở miền núi và cao nguyên không được nghĩ đến. Phật giáo Việt Nam khi đó còn khó khăn để giữ những gì còn lại, nên ắt không thể có một mục tiêu nào khác. Ngay cả hoạt động hoằng pháp, phổ biến giáo lý còn không được chú trọng, thì đương nhiên không có một hoạt động hoằng pháp định hướng vào những vùng đặc biệt nào đó.

LẦN CHẬM TRỄ THỨ NHẤT, có thể nói, là xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Đây là giai đoạn đạo Ca tô La Mã truyền đạo lên Tây Nguyên và đã đạt được những kết quả bước đầu. Nếu như ở các thế kỷ trước, đạo Ca tô La Mã tập trung truyền đạo ở các vùng đất ven biển Việt Nam, kết quả là hình thành được nhiều xứ đạo, trải dài từ Quảng Ninh đến các tỉnh Nam Bộ, thì sau hòa ước 1885, xác định sự đô hộ của thực dân Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam, hoạt động truyền đạo Ca tô La Mã tiến sâu vào nội địa, mà các vùng cao nguyên với những dân tộc ít người là một mũi truyền đạo chính. Đạo Ca tô La Mã đến các vùng cao nguyên Việt Nam bằng 2 phương thức chính.

Trước tiên, là truyền đạo với mục tiêu rõ ràng là cải đạo người dân tộc thiểu số từ tín ngưỡng bản địa sang đạo Ca tô La Mã. Thứ hai, là đạo Ca tô La Mã có mặt cùng với sự hiện diện đông đảo của người Pháp theo đạo Ca tô La Mã (như trường hợp Đà Lạt rồi lan rộng đến người dân tộc bản địa theo hoạt động truyền giáo, vốn là bản chất hoạt động của tôn giáo này).

Đầu thế kỷ XX các vùng núi và cao nguyên mênh mông ở miền Bắc và miền Trung vẫn còn xa lạ với số đông người Việt Nam dân tộc Kinh. Do đó, với Phật giáo Việt Nam cũng vậy. Trong giai đoạn chỉ mới có những chuyển động đầu tiên dẫn đến sự khởi phát cuộc vận động chấn hưng Phật giáo, mục tiêu của Phật giáo Việt Nam cũng chỉ có thể giới hạn ở việc đưa Phật giáo vùng đồng bằng, thị tứ ra khỏi tình trạng suy thoái. Cho nên, những ngôi nhà thờ được xây dựng trên cao nguyên xa xôi sẽ không có một tiếng vọng nào đối với tăng ni Phật tử Việt Nam đầu thế kỷ XX. Điều đó, cũng có nghĩa là trong sinh hoạt tôn giáo ở vùng cao nguyên, Phật giáo Việt Nam đã ở phía sau một bước.

LẦN CHẬM TRỄ THỨ HAI của Phật giáo Việt Nam trong tiến trình hoằng pháp ở Tây Nguyên có thể đánh dấu bằng việc đạo Tin Lành đến truyền đạo ở miền núi và cao nguyên Việt Nam. Tin Lành chỉ mới có mặt ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, cụ thể là năm 1911, nhưng họ sớm vạch những đường hướng truyền giáo có tính chất chiến lược, theo quan điểm nhìn xa trông rộng. Truyền vào Việt Nam Tin Lành không có sự hậu thuẫn của chính quyền thực dân Pháp, mà trái lại còn có ít nhiều nghi kỵ, vì là đạo của người Mỹ. Địa bàn phát triển thuận lợi của Tin Lành đầu thế kỷ XX không thể là những vùng ven biển trù phú, nơi họ có thể đụng đầu với Ca tô La Mã. Rứt người dân Việt ra khỏi tôn giáo truyền thống là Phật giáo cũng không là việc dễ. Cao Nguyên, miền núi, nơi xa xôi khuất nẻo với những niềm tin thô sơ là một địa bàn lý tưởng.

Tin Lành đến với miền núi Cao nguyên vào nửa đầu thế kỷ XX một cách âm thầm và lặng lẽ (khoảng năm 1926), để lại phía sau sự thờ ơ của tôn giáo truyền thống ở Việt Nam là Phật giáo. Miền núi và cao nguyên Việt Nam vô cùng rộng lớn, vì vậy Tin Lành sớm tìm được những lãnh địa riêng, không va chạm với đạo Ca tô La Mã. Sinh hoạt tôn giáo của Tin Lành cũng khá đơn giản, không cần đến một hàng giáo phẩm cồng kềnh, nhiêu khê. Quy mô những nhà nguyện tiên khởi của Tin Lành cũng không đòi hỏi như Ca tô La Mã. Chính sự âm thầm, kín đáo, có thể tạm gọi là dấu mình đó của việc truyền đạo Tin Lành ở Tây Nguyên làm nên thế mạnh của đạo này và điều đó sẽ dẫn đến kết quả to lớn vào cuối thế kỷ, tạo nên một tình thế đã rồi và bất ngờ.

LẦN CHẬM TRỄ THỨ BA của Phật giáo Việt Nam đối với việc hoằng pháp ở miền núi và cao nguyên là không khai thác được sự hiện diện bắt đầu đông đảo dần của người Việt theo đạo Phật ở cao nguyên, bắt đầu khoảng giữa thế kỷ XX.

Từ nửa đầu thế kỷ XX, người Việt đồng bằng Bắc Bộ càng biết nhiều về vùng Tây Bắc, và cũng thế đối với người Việt ở Trung bộ từ Quảng Trị trở vào đối với Tây Nguyên. Việc nhà Nguyễn xác định Tây Nguyên, thời đó gọi là cao nguyên trung phần, là “Hoàng triều cương thổ” cũng là một động lực. Số người Việt di cư lập nghiệp ở miền núi và cao nguyên ngày càng nhiều, mang theo tôn giáo truyền thống là Phật giáo.

Đến lúc này, Phật giáo mới có mặt ở Tây Nguyên, nhưng chỉ theo con đường di dân, không phải theo con đường truyền đạo, hoằng hóa. Việc xây dựng chùa Sắc Tứ Khải Đoan ở Ban Mê Thuộc có thể coi là một sự kiện đánh dấu cho tiến trình này. Chùa Khải Đoan là biểu tượng cho hướng nhìn lên cao nguyên của hoàng gia nhà Nguyễn, cũng là biểu tượng của sự hiện diện định cư ở Tây Nguyên của một số người Việt lên đến một mức nào đó, mà đã phát sinh nhu cầu tôn giáo. Tuy nhiên, điều phải thấy ở đây là Phật giáo Việt Nam vẫn chưa nhìn thấy ở đây như một địa bàn hoằng pháp, nên đã tự giới hạn sự phát triển của Phật giáo trong cộng đồng người Kinh mới định cư.

Phía Phật giáo không có chủ trương, quan điểm nào rõ ràng trong vấn đề này. Tuy nhiên, qua tập 2 tác phẩm “Năm mươi năm chấn hưng Phật giáo Việt Nam”, tác giả Hòa thượng Thích Thiện Hoa, chúng ta có thể thấy được phần nào vấn đề. Ở các báo cáo từ giáo hội các tỉnh cao nguyên trung phần, có thể thấy cái nhìn của tăng sĩ Phật giáo Việt Nam đối với tôn giáo vùng này là:

-         “Đồng bào thượng” đã có tôn giáo riêng là “đa thần giáo”.

-         Không phát hiện xu hướng theo Ca tô La Mã hay Tin Lành của người dân bản địa như là một chuyển biến không có lợi cho Phật giáo.

Do nhận thức như trên, nên cũng không thấy nói đến chủ trương hoằng pháp cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi và cao nguyên.

Đây thật sự là một hạn chế của phía Phật giáo, vì từ giữa thế kỷ XX, hoạt động truyền đạo của Tin Lành ở cao nguyên trung phần được đẩy mạnh, nhất là vào thời gian những năm sau 1954, khi hòa bình được lập lại tạm thời, và sự hiện diện ngày càng nhiều của người Mỹ tại Việt Nam. Tin Lành phát triển ở cao nguyên trung phần những năm 1950, 1960 là một biểu hiện của ảnh hưởng Mỹ. Ấy vậy mà, theo chỗ những gì mà chúng tôi đọc được, thì think tank của Phật giáo miền Nam lúc bấy giờ là Viện Đại học Vạn Hạnh cũng không đi xa hơn những ghi nhận của sách “Năm mươi năm Chấn hưng Phật giáo Việt Nam”, một tài liệu có tính chất tổng kết của giáo hội lúc bấy giờ ở miền Nam. Không phải là một chủ trương rõ ràng, mà là một điều không được tính đến một cách đầy đủ, đồng bào các dân tộc thiểu số ở cao nguyên trung phần đã không được kể đến như là một đối tượng hoằng hóa. Việc quản lý hành chính Phật giáo ở các tỉnh cao nguyên cũng rất lỏng lẻo, hòa thượng Thích Thiện Hoa, trong quyển sách, có than phiền là không có được báo cáo của một số địa phương.

Đó là nguyên nhân chủ quan sự chậm trễ của Phật giáo trong việc hoằng pháp đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên giai đoạn giữa thế kỷ XX đến 1975. Tuy nhiên, những nguyên nhân khách quan cũng có vai trò rất quan trọng.

Giai đoạn 1954 – 1963 là giai đoạn Ngô Đình Diệm cầm quyền với một chế độ thân đạo Ca tô La Mã. Phật giáo miền Nam rơi trở lại vào tình trạng bị chèn ép, nhiều nơi xảy ra bức hại. Do đó, việc hành đạo của Phật giáo ngay tại các địa bàn truyền thống của mình, các đô thị lớn và làng quê đồng bằng ven biển cũng gặp khó khăn, huống chi là tính đến việc mở rộng địa bàn hoằng pháp lên cao nguyên.

Sau Pháp nạn 1963, thời gian Phật giáo miền Nam phát triển thuận lợi chỉ vỏn vẹn khoảng 1 năm, để rồi sau đó lại xảy ra va chạm với chính quyền, rồi nội bộ phân hóa, mâu thuẫn. Các vấn đề nội bộ đã đè nặng lên Phật giáo miền Nam những năm cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970 khiến nội lực Phật giáo bị tiêu hao, việc phát triển rơi vào bế tắc. Xu thế của Phật giáo Ấn Quang là ngày càng co lại, sau các cuộc phân hóa các năm 1967, 1969, chỉ còn 3 tập đoàn. Xu thế co lại này khiến tổ chức Phật giáo lớn nhất lúc bấy giờ vào thập niên 1970 chỉ giới hạn chỉ trong Phật giáo người Kinh (ngay cả Phật giáo người gốc Hoa và người Khmer cũng hoàn toàn tách biệt). Xu hướng đó không thể là động lực hoằng pháp theo diện mở rộng đối tượng dân tộc.

Trong quan điểm chủ quan như trên và xu hướng do hoàn cảnh khách quan đưa lại như thế, tất nhiên, sẽ không thể có chuẩn bị gì cũng như xúc tiến gì đối với việc hoằng pháp hướng vào đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.

Chiến tranh cũng là một nguyên nhân khách quan đưa đến sự chậm trễ của Phật giáo. Nhưng chiến tranh với sự hiện diện của quân đội Mỹ trên toàn lãnh thổ Việt Nam, lại là một thuận lợi của Tin Lành trong việc truyền đạo ở Tây Nguyên. Những người truyền đạo Tin Lành đương nhiên được sự hỗ trợ và bảo vệ của quân đội Mỹ. Thế là, chiến tranh điều bất hạnh cho dân tộc Việt Nam, đã trở thành thuận lợi cho đạo Tin Lành. Kết quả truyền giáo vượt trội của Tin Lành so với đạo Ca tô La Mã một phần cũng do ở chỗ này.

(đón đọc bài tiếp theo)

MT

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle
Các bài viết khác