Nói đến  văn hóa, nhiều  người nghĩ 
ngay đến những  định nghĩa cầu kỳ, phức tạp, trừu tượng, những khái niệm ở 
tầm “vĩ mô “ như bản sắc văn hóa, như hiện tượng xã hội, hay những giá trị 
truyền thống; nhưng cũng có khi bình tâm, nhìn lại ta thấy văn hóa hiện ra như 
một thứ kính vạn hoa có thể soi chiếu, phản ánh nhiều mặt của cuộc sống.

Chùa Bái Đính
 Đức Phật và 
Sacombank
Có một giảng viên Anh 
ngữ ở Hội Việt Mỹ, vốn là người sử dụng tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ, nhân ngày đầu 
năm hỏi học viên lớp mình: Trình bày một  khía
cạnh của văn hóa Việt Nam và cho biết giá trị nền tảng của nó? Khi các học viên 
còn đang  lúng túng, ông ta hỏi tiếp, “Tại sao các bạn đi chùa 
đầu năm?”. Sau đó ông đưa ra nhận  xét: “Các bạn xem 
Đức Phật chẳng  khác nào Sacombank, bỏ ra ít tiền lẻ, cầu mong lấy lãi thật 
nhiều(!)”. Ông ta ngờ rằng ít có ai thật  sự không cầu mong giàu có trong ngày đầu năm khi đến 
cửa chùa… Nhận định ấy đúng hay sai?
Thử đọc vài trang báo 
đầu năm: “Hàng trăm mét kéo dài từ ngoài đường vào tận cổng chùa Đậu, không 
biết cơ man nào là lều bạt dựng lên, dây buộc tứ tung…. 
Mùi cá nướng, mùi dầu mỡ đặc quánh không gian chùa… không riêng gì các cô cậu 
choai choai, ngay cả những người được gọi là trưởng thành cũng váy ngắn cũn cỡn, 
guốc cao gót lộc cộc vào chùa. Có cơ quan tổ chức đi chùa,đàn ông đàn bà nói chuyện cứ oang oang như ở nhà… Tôi nghe 
được những lời khấn khứa, xin xỏ của họ: ‘Xin người ban lộc ban tài, ban cơm ban 
áo, ban gạo ban tiền, cho nhiều người trong gia trung chúng con có lộc có tiền 
có danh có tiếng có nhà có xe…’.
Một bà ủ rũ: ‘Con mới cho người ta vay lãi, bốn tháng nay chưa lấy được đồng nào, 
đến đòi tiền thì nó không trả, xin Ngài phù hộ độ trì cho con lấy lại được tiền, 
cho những đứa vay tiền của con mà không trả đi tàu chết tàu, đi xe chết xe…’” 
(Sơn Nam Thương – bài Những đồng tiền lẻ trên tay 
Đức Phật, báo Tuổi Trẻ và Đời Sống 2.2.2012).
Đi đến bất cứ lễ hội 
nào như lễ hội chùa Hương, Bà Chúa Kho, Yên Tử, Đền Hùng… đều có dịch vụ sắp lễ 
thuê, thậm chí cúng thuê. Những quầy hàng bầy la liệt, sát nhau lấn chiếm cả các 
lối đi lên di tích khiến cho quang cảnh linh thiêng trở nên bụi bặm, chợ búa, 
khó chịu và thực sự mất mỹ quan. Sau Tết Nguyên đán, ở Khu di tích Đền Hùng, từ 
cổng chính dẫn lên khu di tích có đến hàng chục phụ nữ cầm những xấp tiền giấy 
loại 200, 500 đồng mời khách đổi tiền để dâng lễ, mời mua đồ lễ. Đền Hạ là nơi 
mẹ Âu Cơ sinh hạ trăm trứng, khu nội điện chật ních người dâng lễ với các mâm ngũ quả đầy đặn bắt mắt. Vào chính hội thì thảm cảnh 
chen
lấn còn khốc liệt hơn nhiều. Ai cũng muốn mình đặt được một vài tờ tiền lẻ mệnh 
giá 200, 500, 1.000 đồng lên ban thờ dù những hòm công đức được bố trí ở khắp 
nơi, lại có bàn ghi công đức có người trực cả ngày. Nhưng bàn 
ghi công đức rất vắng lặng. Ở giếng cổ, tương truyền là nơi tắm cho các 
con của mẹ Âu Cơ, người ta cũng ném tiền lẻ xuống làm tiền vãi tứ tung, rồi các 
hiện tượng như nhét tiền vào kẽ chân thần linh, thánh tượng, hay các biểu tượng 
trang trí, ngẫu tượng… Ở chùa Mía (Sơn Tây), các tượng thánh cũng chịu 
chung
“kiếp nạn”, bị nhồi nhét tiền lẻ vào kẽ tay. (thoisuphatphap.worldpress.com)
Về mặt kinh tế, theo 
một thống kê, tỷ lệ trung bình của tiền lẻ được một người dùng vào dịp Tết 
Nguyên đán thông  thường  như sau: đặt lễ ở đền chùa chiếm gần 75%, dùng vào 
việc mừng tuổi, làm từ thiện chiếm 20%, chi trả ở siêu thị và chợ chỉ chiếm trên 
5%. Như vậy, một lượng tiền lẻ rất lớn đã không thực sự tham gia trong cơ cấu 
lưu thông  tiêu dùng  thông thường. Sự gia 
tăng  những
 đồng  tiền mệnh  giá nhỏ không những làm tốn kém về khối lượng vật tư in ấn cho 
ngành  ngân hàng, mà còn làm dư thừa, mất cân đối nghiêm  trọng theo vùng 
và nhịp độ thời gian lưu thông tiền lẻ trong năm.
Vì thế, kho tiền của 
Ngân hàng  Nhà
nước Hà Nội, bên cạnh những bao tiền cũ đã quay nhiều vòng trong lưu thông  có 
một  lượng lớn là các bao  tiền mới chỉ được sử dụng một lần. Vào thời gian cao điểm của mùa lễ hội, tiền lẻ về nhiều đến nỗi kho 
của Ngân hàng Nhà nước Hà Nội chẳng thể chứa nổi.
Ngay tại khu vực chùa 
Hương, vào mùa lễ hội đâu đâu cũng thấy bạt ngàn tiền lẻ. Tiềm thức cúng dường, tiền giọt dầu để cầu 
may, cầu phúc, cầu tài, cầu lộc được hiện hữu bằng việc người dân rải tiền khắp 
mọi nơi. Từ tay Phật, tay thánh,  ban
thờ thậm  chí là gieo luôn dưới chân mình khi không chen chân được vào trong bàn 
để lễ. Đền Bà Chúa Kho và nhiều đền chùa khác như chùa Bái Đính, Yên Tử, 
phủ Tây Hồ… đâu đâu cũng một thảm cảnh tương tự.
Những đồng tiền rơi vãi đặt không đúng chỗ, không chỉ làm mất 
đi cảnh quan trang nghiêm nơi cửa Phật mà còn làm xấu đi hình ảnh đồng tiền vốn 
được coi là một thương hiệu quốc gia.
Như vậy, nhận  xét của giảng  viên nước ngoài  nọ về thứ văn hóa cầu 
lợi cũng đáng  cho chúng  ta suy ngẫm. Phải chăng đó chính là biểu hiện của một thứ tín ngưỡng “lệch lạc” 
suy đồi.  Ngoài ra, ta băn khoăn tự hỏi tại sao một đất nước như 
Campuchia có thể cấm du khách không mặc quần short, váy ngắn trên gối vào 
hoàng  cung hay chùa chiền vì đó là phép  lịch sự tối thiểu của một người 
có “văn hóa” (!), một sự tôn trọng đối với văn hóa và với chính tư cách cá nhân 
mình.
Văn hóa trên nòng súng 
hoa cải
Không biết tự lúc nào 
hay chỉ trong khoảng 10 năm trở lại đây, dù chiến tranh đã lùi xa, nhưng người 
ta lại có thói quen  dùng
 súng  giải quyết  những  bất  đồng khúc mắc trong quan hệ con người. Thì 
ra trong tâm thức người ta chiến tranh vẫn còn đó, ý niệm lấy bạo lực làm 
phương  tiện giải quyết mọi vấn đề đang diễn ra ngày một nhiều. Không 
ngày nào không có những chuyện như vào quán, nhìn nhau thấy khó ưa là “xử“, va 
chạm giao thông, không cần đôi co, “giải quyết” luôn bằng dao, hận tình cũng 
thanh toán, thậm chí anh chị em trong  nhà hậm hực vì hành  vi lối sống của nhau 
cũng gài chất nổ phanh thây…
Cả  đến   quan  
 hệ  chính  quyền-nhân  dân   cũng nhuốm  màu bạo lực mà vụ cưỡng chế 
đất của dân ở Tiên Lãng (Hải Phòng) đang  là đề tài “nóng” bàn tán khắp nơi 
khiến đích thân các quan chức cao cấp phải tham gia giải quyết. Lý do chỉ vì các 
bậc phụ mẫu của dân sử dụng  vũ lực quá đà khiến người dân bất mãn và họ cũng không 
vừa khi gây sát thương  cho 6 công an viên…(!).
Người ta không còn dùng 
lời nói, ngôn ngữ để giao tiếp, thậm chí tranh luận để tìm ra chân lý mà vội lao 
ngay vào vũ lực như một  kế sách giải quyết  nhanh gọn nhất nhưng cũng “tàn bạo” 
nhất dù đó là cách giải quyết hoàn toàn không “văn hóa” vì không dùng ngôn ngữ. 
Ta hiểu “Văn hóa là một công cụ giao tiếp quan trọng. Chức 
năng giao tiếp là chức năng thứ ba của văn hóa. Nếu ngôn ngữ là hình thức 
của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó; điều đó đúng với giao tiếp giữa 
các cá nhân trong một dân tộc, lại càng đúng với giao tiếp giữa những người 
thuộc các dân tộc khác nhau và giao tiếp giữa các nền văn hóa” (Trần Ngọc 
Thêm, Bản sắc văn hóa Việt Nam).
Tình trạng  bạo  lực đang  trở thành  nỗi nhức nhối trong  lòng 
mọi người khi ra ngoài  đường  hay ở nơi công cộng  như sân vận động, quán 
xá… Chúng ta dần quen với thuật ngữ “bạo lực học đường, bạo lực sân cỏ, bạo hành 
gia đình…”.
Văn hóa thủ đoạn…
Đó là một cụm từ “khiên 
cưỡng” vì văn hóa mang tính lịch sử với bề dày thời gian và chiều sâu tâm linh 
thì không thể hàm nghĩa “thủ đoạn” được. Chúng ta tạm dùng để 
chỉ ra tình trạng thực giả mập mờ hiện nay ở mọi mặt. 
Cụ thể như xăng giả, gas giả, thuốc tây giả, phân bón giả… trừu tượng như bằng 
cấp giả, khai báo tài sản giả, nguy hơn là niềm tin, lý tưởng giả. 
Thậm chí người ta còn dùng “gia đình văn hóa, làng văn hóa dù bên trong có thể 
chưa hội đủ chất “văn hóa”.
Tính thủ đoạn  
ấy đang  làm hại chúng  ta khi hàng xuất khẩu bị nước ngoài kiểm định gắt 
gao như những mặt  hàng  thủy sản, nông  sản… bị khách hàng  hoài nghi về 
tạp chất, trọng lượng. Tính thủ đoạn ấy đang khiến du lịch Việt Nam chứng kiến 
cảnh du khách trong nước đi nước ngoài còn nước ngoài thì ngần 
ngại  đến Việt Nam theo  đường  du lịch vì sự gian dối của taxi, việc 
chèo kéo của những  người bán hàng, tình trạng lên giá bất thường, vô tội vạ của 
các loại dịch vụ… Tỷ lệ quay trở lại rất thấp:14% (?) .
Vì đâu và tại sao?
Chúng ta biết rằng văn 
hóa có tính lịch sử thể hiện ở chỗ nó bao giờ cũng hình thành trong một quá 
trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ.
Tính lịch sử của văn 
hóa được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống (truyền = chuyển giao, thống = 
nối tiếp) là cơ chế tích lũy và truyền đạt kinh nghiệm qua không gian và thời 
gian trong cộng đồng. Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định 
(những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được tích lũy 
và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian và được cố định hóa 
dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận… 
(Trần Ngọc Thêm, Sđd).
Truyền thống  văn hóa tồn  tại được nhờ giáo dục. 
Chức năng giáo dục là chức năng quan trọng thứ tư của văn hóa. 
Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn 
định (truyền thống), mà còn bằng cả những giá trị đang hình thành.
Như vậy chúng ta có thể 
nói giáo dục hiện nay không hay chưa làm tròn sứ mệnh chuyển giao, đào tạo văn 
hóa, xây dựng những giá trị cốt lõi, tạo nền tảng cho việc hình thành nhân cách. 
Giáo dục phải làm nên sự khác biệt giữa một đứa trẻ sống trong gia đình, được đi 
học với một đứa bé sống trong rừng, trên hoang đảo, hay mồ côi từ nhỏ, thiếu 
tình thương và sự giáo dục ban đầu như ý nghĩa của từ “culture” (gieo cấy, chăm 
bón…).
Nếu nói bóng  đá, văn chương hay lễ hội là ánh xạ của cuộc sống thì 
những biểu hiện của nó cũng chính là ánh xạ của văn hóa. Như vậy thì rất đáng 
báo động khi “gien” di truyền văn hóa dường như đang biến dạng hay đứt khúc, khi 
những giá trị đạo đức kế thừa đang phôi pha, thiếu liền lạc giữa các thế hệ. Có 
yếu tố khách quan do sự hội nhập thiếu chọn lọc, nhưng yếu tố chủ quan do giáo 
dục từ gia đình đến nhà trường đang… lệch hướng với dòng chảy của thời đại và 
dân tộc khi ta đang muốn xây dựng lại những thế hệ tim trong, óc sáng, ứng xử 
văn minh và biết trân trọng giá trị nhân văn muôn đời của dân tộc và nhân loại.
Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo số 147