Phật giáo và đạo đức kinh doanh

phat giao va dao

Phật giáo và đạo đức kinh doanh

Wan Kah Ong & Peng Chan*


1.Giới thiệu

Mục đích của bài viết này xác định những đặc điểm chung của các hệ thống kinh doanh hiện nay mà chúng tương hợp với giá trị Phật giáo. Đồng thời, áp dụng các nguyên tắc và lời dạy của Đức Phật, bài viết này tìm cách hòa giải những xung đột không có thật tồn tại giữa hai hệ thống này. Bài viết bắt đầu bằng cách xem xét một số hạn chế và thách thức đe dọa việc thực hành đạo đức trong môi trường kinh doanh. Tiếp theo, bài viết sẽ thảo luận về một số nhận thức sai lầm thông thường mà mọi người đang có về Phật giáo và giáo lý Phật giáo, với một cái nhìn tổng quan về các quan điểm trọng yếu của đạo đức Phật giáo. Tiếp theo là đánh giá tính thích hợp, bản chất và những hàm ý của Phật giáo, về việc bổ sung sự ứng dụng đạo đức kinh doanh vào môi trường hiện nay.

2. Xem xét tài liệu

2.1 Những giới hạn của đạo đức kinh doanh

Có một số câu hỏi then chốt mà chúng ta nên hỏi trước khi nghiên cứu lĩnh vực đạo đức kinh doanh: "Các công ty liệu có là các tổ chức lý trí và phi cảm tính? Liệu một công ty có lương tâm? Một công ty có chịu trách nhiệm về đạo đức với xã hội? Nếu có, thì ở mức độ nào?”

Những câu hỏi này là một phần trong một cuộc tranh luận đang diễn ra mà nó xoay quanh những vấn đề sau đây: 1) Nếu một công ty không có lương tâm và chủ yếu là một tổ chức vì lợi nhuận phi cảm tính, thì những trách nhiệm gì một công ty phải có với các bên liên quan, chẳng hạn như người tiêu dùng, nhân viên, chính quyền, và xã hội? Luật lệ nào, và ai, nên chi phối và kiểm soát hoạt động của công ty, những hoạt động có dính líu về mặt đạo đức với các bên liên quan của công ty, nếu công ty không thể hoặc sẽ không làm như vậy? 2) Nếu một công ty có nhiều hơn một thành viên liên quan đến hoạt động tạo lợi nhuận, điều gì là nền tảng và cơ sở về trách nhiệm đạo đức của nó? Từ đó liệu công ty có chịu trách nhiệm nào ngoài các nghĩa vụ kinh tế của mình? Công ty nên đáp ứng trách nhiệm đạo đức và xã hội của mình với bên liên quan với nó như thế nào? (Weiss, 1994).

Bài viết này bắt đầu bằng việc thảo luận và đánh giá hai quan điểm khác nhau về bản chất của các công ty (tập đoàn) và trách nhiệm xã hội của họ như đã đề cập ở trên: 1) Quan điểm đầu tiên về bản chất không có lương tâm và là một tổ chức phi cảm tính – một thành viên liên quan chỉ cam kết với các cổ đông và chủ sở hữu của nó; 2) quan điểm thứ hai xem xét các tập đoàn như một tổ chức liên đới cả môi trường kinh doanh và xã hội, có nghĩa là bên cạnh nghĩa vụ kinh tế của mình cho cổ đông, công ty có lương tâm và hoạt động như một đại diện đạo đức trong mối quan hệ với các bên liên quan.

2.2 Quan điểm thứ nhất: Các tập đoàn không có lương tâm

Rất ít người không đồng ý với thực tế là hầu hết các tập đoàn kinh doanh để kiếm lợi nhuận cho chủ sở hữu và cổ đông. Một câu hỏi quan trọng là liệu công ty có thể và nên có trách nhiệm về mặt đạo đức với các bên liên quan ngoài các cổ đông của họ hay không. Quan điểm của các "tập đoàn là tổ chức phi tình cảm, vì lợi nhuận" cho rằng nghĩa vụ chính của các doanh nghiệp là tạo lợi nhuận, không phải là để hành động có trách nhiệm đạo đức. Theo quan điểm này, các cơ sở trách nhiệm đạo đức nằm bên ngoài công ty. Quan điểm này thì quan trọng trong lĩnh vực đạo đức kinh doanh, vì định nghĩa các công ty như một tổ chức phi cảm tính cho thấy rằng trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm pháp lý không thể quy cho một tổ chức (Weiss, 1994).

Adam Smith (1723-1790) là người đầu tiên đề xuất quan điểm này. Ông lập luận rằng các doanh nghiệp là các tổ chức phi luân lý không có ý thức về đạo đức (không có nghĩa là trái đạo đức) mà chúng thúc đẩy lợi ích cá nhân và lợi ích kinh tế của các chủ sở hữu, và cho rằng lợi ích riêng của từng cá nhân tạo động lực và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của xã hội và đó là do có "bàn tay vô hình" đã định hướng và thúc đẩy lợi ích chung của xã hội. Theo quan điểm này, trách nhiệm xã hội cần đến các luật lệ và sự bắt buộc thực thi luật lệ, nhưng điều này là trách nhiệm của nhà nước, không phải của doanh nghiệp. Những người gần đây ủng hộ quan điểm này bao gồm nhà kinh tế học Milton Friedman, người đã mạnh mẽ cho rằng doanh nghiệp không có trách nhiệm xã hội nào ngoài việc tối đa hóa lợi nhuận.

Quan điểm đã nhận được sự chấp nhận rộng rãi rằng các ban quản trị và các nhà lãnh đạo lao động có trách nhiệm xã hội ngoài nghĩa vụ phục vụ lợi ích của các cổ đông của họ hoặc các thành viên quản trị. Quan điểm này cho thấy một quan niệm sai lầm cơ bản về các đặc tính và bản chất của một nền kinh tế tự do. Trong một nền kinh tế như vậy, có một và chỉ có một trách nhiệm của doanh nghiệp với xã hội - là sử dụng nguồn lực của mình và tham gia vào các hoạt động phù hợp để tăng lợi nhuận của mình, miễn là nó nằm trong các quy tắc của cuộc chơi, rõ hơn là, tham gia một cuộc cạnh tranh mở và tự do, mà không có sự lừa dối, gian lận... Vài xu hướng có thể phá hủy triệt để các tổ chức trong xã hội tự do của chúng ta như việc chấp nhận của các lãnh đạo công ty về việc ưu tiên trách nhiệm xã hội hơn là tạo ra càng nhiều lợi nhuận cho các cổ đông của họ càng tốt (Friedman, 1962).

Từ trích dẫn ở trên, Friedman rõ ràng chủ trương rằng các công ty không kinh doanh để giúp đỡ xã hội, đúng hơn là, để giúp các doanh nghiệp đáp ứng trách nhiệm chính mình –  tạo ra lợi nhuận cho chủ sở hữu và cổ đông.

Tuy nhiên, có một số hạn chế liên quan đến quan điểm vẫn đang phổ biến này. Joseph Weiss (1994) trong cuốn sách “Đạo đức kinh doanh” của mình đã vạch ra những suy xét sau. Đầu tiên, quan điểm các công ty như là các tổ chức phi cảm tính không nhằm mục đích củng cố nhận thức rằng các công ty và hành động của họ thì phi luân lý. Để lập luận rằng các công ty tổ chức không có nền tảng đạo đức để chịu trách nhiệm với các hoạt động của mình là để đưa ra giả thuyết rằng những nhà quản lý có quyển tự do để sử dụng các nguồn tài nguyên lớn cho các hoạt động công ty và điều đó có thể gây hại cho người tiêu dùng. Thứ hai, góc nhìn công ty là tổ chức phi cảm tính không nhằm mục đích có thể cung cấp một sự bảo vệ dành cho các chủ sở hữu quyền lực và các nhà quản lý hàng đầu bằng sự bất lợi cho các nhân viên cấp dưới, những người có thể trở thành con dê tế thần cho các hoạt động bất hợp pháp của công ty. Thứ ba, các công ty cũng như các tổ chức kinh tế đều có nhân tính, thì tại sao các tổ chức được đăng ký hợp pháp không mang nghĩa vụ và trách nhiệm cho hạnh phúc của cộng đồng nơi họ thực hiện kinh doanh và cho công nhân viên, những người làm nên sự tồn tại của họ? Thứ tư, sự sản xuất trong nền kinh tế cạnh tranh và vì chỉ lợi nhuận không tất yếu sản xuất ra sản phẩm tốt nhất với số lượng lớn nhất.

Weiss tiếp tục lập luận rằng, không có sự hợp tác từ địa phương, tiểu bang, chính phủ liên bang và công chúng, nhiều doanh nghiệp không thể trang trải việc duy trì hoạt động công ty hoặc "chi phí bên ngoài," (các chi phí phát sinh của các doanh nghiệp nhưng được chi trả bằng xã hội, chẳng hạn như các ảnh hưởng phụ lên không khí và ô nhiễm nguồn nước). Liên quan đến sự chỉ trích này là một sự thật rằng không phải tất cả các doanh nghiệp đều có thể tồn tại hoàn toàn ở thị trường tự do, một số doanh nghiệp bị kiểm soát và được hỗ trợ bởi chính phủ, đó là, bằng tiền thuế của công chúng. Điển hình là Tập đoàn Chrysler, nếu  không có một khoản vay của chính phủ vào năm 1979, công ty có lẽ sẽ không còn tồn tại.

Quan điểm thứ hai: Những tập đoàn như những cổ đông xã hội và kinh tế

Quan điểm khác, rất phổ biến ở hầu hết các tập đoàn hiện nay, cho rằng các công ty vì lợi nhuận là pháp nhân và là một tập hợp của nhiều cá nhân và nhóm. Các giám đốc điều hành và cán bộ quản lý cấp cao được thuê để tối đa hóa lợi nhuận cho chủ sở hữu và cổ đông. Tuy nhiên, để thực hiện việc này, công ty cũng phải đáp lại một loạt các lợi ích, quyền lợi và nhu cầu chính đáng của các bên liên quan (nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp, các cơ quan chính phủ). Từ quan điểm này, công ty có nghĩa vụ đáp ứng quyền lợi về kinh tế của các chủ sở hữu; tuy nhiên, để tồn tại và thành công, nó cũng phải đáp ứng yêu cầu về pháp lý, xã hội, chính trị và môi trường với một tập hợp các bên liên quan trong nội bộ cũng như bên ngoài (Weiss, 1994).

Cũng được gọi là giải pháp khế ước xã hội đối với quản lý doanh nghiệp, phương pháp này lập luận rằng vì công ty phụ thuộc vào xã hội để tồn tại và tiếp tục phát triển, có một nghĩa vụ cho công ty để đáp ứng nhu cầu của xã hội đó chứ không phải chỉ riêng nhu cầu của một nhóm khách hàng mục tiêu. Bằng cách nhận biết tất cả các bên liên quan của họ chứ không phải chỉ là cổ đông của họ, các công ty phải duy trì một tầm nhìn dài hạn hơn là chỉ đối phó với số liệu thu nhập hàng quý (Ghillyer, 2010).

Quan điểm bên liên quan của công ty đã trở thành một quan điểm hữu ích cho sự hiểu biết trách nhiệm xã hội và đạo đức của một công ty đối với các chủ thể liên quan của mình. Tuy nhiên, tương tự với quan điểm đầu tiên, quan điểm này về công ty cũng có các phê bình. Một số người cho rằng quan điểm này không có nền tảng lý thuyết vững chắc cho sự đáp ứng về mặt xã hội của công ty. Rogene Buchholz (1991) trong bài viết "Trách nhiệm doanh nghiệp và một xã hội tốt đẹp" lập luận rằng "mô hình bên liên quan là một công cụ hữu ích để phân tích và mô tả nhiều mối quan hệ khác nhau mà một công ty có để cấu thành chính nó trong xã hội, nhưng nó không có nghĩa là một cố gắng mang nặng tính lý thuyết để cung cấp một mô hình mới mà thậm chí sẽ bắt đầu thay thế các mô hình kinh tế”. Nói cách khác, không có nguồn và cơ sở cho các trách nhiệm đạo đức trong mô hình các bên liên quan. Có thể lập luận rằng quan điểm này chủ yếu dựa trên phương diện kinh tế và tập trung vào việc tối đa hóa lợi nhuận giống như quan điểm đầu tiên.

2.4 Những giới hạn khác của đạo đức kinh doanh

Nhiều tiêu điểm đã được đặt vào các chính sách của công ty và quy tắc đạo đức; điều này phổ biến hiện nay và người ta có thể cho rằng những điều này sẽ đảm bảo rằng các công ty sẽ đưa ra các quyết định có tính đạo đức khi hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, điều này có thể không phải luôn luôn đúng. Thật vậy, một số học giả cho rằng các chính sách của công ty và các quy tắc đạo đức là không đủ để cấu thành đạo đức. Robert Solomon (1994) đã lập luận rằng có thiếu sót nào đó từ các quyết định chính sách, mà trọng tâm chắc chắn gần như không đặt lên bất kỳ đối tượng nào, và đó là trách nhiệm cá nhân.

Các câu hỏi về trách nhiệm tràn ngập khắp mọi tập đoàn, và luôn luôn có nhiều ứng viên lớn để đổ lỗi, miễn là họ phải được tìm ra ở một nơi nào khác, nhưng vì có quá nhiều và tiêu điểm trách nhiệm thường là quá khó để tìm. Đây là lý do tại sao các tập đoàn hiện nay thì rất thường hay bị rung chuyển và làm suy yếu bởi việc sa thải thiếu sự cân nhắc hoặc thay thế toàn bộ bộ phận - giám đốc điều hành không biết ai để đổ lỗi, và vì vậy họ đổ lỗi và trừng phạt tất cả mọi người. Trách nhiệm được đặt lên "hệ thống" hoặc lên các chính sách hiện tại mà sau đó trở thành tâm điểm của một cuộc tranh luận dường như vô tận. Cái gì cần được loại bỏ và trở thành đặc điểm chính của đạo đức kinh doanh là sự thừa nhận rằng quyết định này là của chính mình, sự hiểu biết rằng đạo đức không chỉ là một vấn đề đối với ban điều hành, các ủy ban quản trị, và người giám sát của chính phủ mà còn cho tất cả chúng ta, trong những việc nhỏ cũng như ở trong những vở kịch lớn hơn trong đời sống hàng ngày của chúng ta (Solomon, 1994).

Ngoài ra, đại diện doanh nghiệp ngày nay thường có lập luận rằng "kinh doanh cũng giống như chơi bài và tách biệt với đạo đức của cuộc sống hàng ngày" (Carr, 1968) - bạn phải "lừa gạt" để tồn tại. Ý tưởng rất chia rẻ, khi thế giới kinh doanh hiện đại không quá dễ dàng, một cá nhân từ đời sống nghề nghiệp, tin tưởng rằng "kinh doanh là kinh doanh," sẽ là không thể hình dung được. Hầu hết mọi người trong kinh doanh hiện nay đồng hóa chính mình với chính công ty của họ. Đạo đức của họ, ít nhất là trong công việc, chắc chắn được đồng hòa với các giá trị của công ty và ngành công nghiệp, tuy nhiên một người mạnh mẽ có thể phản đối và tách biệt đạo đức cá nhân của mình với những giá trị trên (Solomon, 1994).

Sự tách biệt giữa đạo đức cá nhân với công việc, "sự tha hóa" theo Friedrich Schiller, đưa chúng ta đến đòi hỏi rằng đức hạnh trong kinh doanh độc lập với đức hạnh của những điều khác trong cuộc sống của chúng ta, và điều này phủ nhận tính riêng biệt hoặc của vai trò kinh doanh, hoặc của cuộc sống của chúng ta. Điều này do đó dựng nên một thảm kịch trong đó một nhân công bị áp lực vi phạm "giá trị cá nhân" của mình bởi vì, góc nhìn kinh doanh đơn thuần là kinh doanh, anh ta hoặc cô ta "không thực sự có bất kỳ sự lựa chọn nào."

Sau khi đã đặt ra những giới hạn của đạo đức kinh doanh, bây giờ chúng ta xem xét Phật giáo và xem những giá trị gì mà tôn giáo này có thể đóng góp cho lĩnh vực đạo đức kinh doanh.

3.Tôn giáo, Phật giáo và kinh doanh

Người ta dựa vào niềm tin tôn giáo trong việc đưa ra các quyết định có ảnh hưởng đến những người khác; khi một người có một niềm tin tôn giáo, nó đơn giản không thể định hình nên một cuộc sống mà nó loại trừ những niềm tin đó ra khỏi mọi liên quan thực tế (Fort, 2008). Niềm tin tôn giáo có khả năng trở thành yếu tố cấu thành toàn bộ khuôn khổ đạo đức toàn vẹn của một người. Đó là lý do tại sao Richard Jones đã viết:

Tôn giáo tạo ra một khuôn khổ mà nó cung cấp ý nghĩa cho toàn bộ đời sống của một người. Do đó, nó là không thực tế để hy vọng tách rời đức tin tôn giáo khỏi lĩnh vực quan điểm hoàn toàn riêng tư mà không có ảnh hưởng lên các hành động cộng đồng của họ. Tôn giáo không điều chỉnh chỉ những phạm vi giới hạn trong đời sống tôn giáo – tôn giáo không phải là hạn chế tự do hoặc đời sống riêng tư hay cá nhân. Thay vì vậy, tôn giáo bao hàm toàn diện trong ý nghĩa rằng tất cả các khía cạnh của cuộc sống của một người là liên quan ở mức độ này hay mức độ khác với khuôn khổ cơ bản này (Jones, 1994).

Tư tưởng phương Tây đầu tiên về điểm chung giữa tôn giáo và kinh tế tập trung chủ yếu vào các tác động tiêu cực của tôn giáo truyền thống vào việc cải thiện các điều kiện vật chất của cuộc sống. Trớ trêu thay, bây giờ có một ý thức tỉnh ngộ rõ ràng và hoài nghi về mô hình tăng trưởng và phát triển "phi luân lý," "khoa học” của phương Tây  (Daniels, 2006). Thật là kỳ lạ rằng trong một môi trường kinh doanh đòi hỏi trách nhiệm đạo đức của các nhà lãnh đạo kinh doanh, một nền tảng cho sự hiểu biết về các nghĩa vụ đạo đức - truyền thống tôn giáo - bị loại khỏi các cuộc đối thoại mang tính xây dựng.

3.1 Đức Phật với sự thịnh vượng và nghèo khó

Khởi đầu, giống như nhiều tôn giáo khác, ý tưởng liên kết Phật giáo với kinh doanh xuất hiện như là một nghịch lý nghiêm trọng. Sự đáp ứng các ước muốn cá nhân và lợi ích vật chất tràn ngập các mục đích và hành động của các hoạt động kinh doanh dường như trực tiếp mâu thuẫn với thế giới quan Phật giáo. Tuy nhiên, giả định này được dựa trên sự nhầm lẫn và hiểu lầm về Phật giáo đối với quan điểm về lợi ích vật chất và sự giàu có.

Theo truyền thống, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ bỏ một cuộc sống đặc ân với khoái lạc và an nhàn để đến với cuộc sống gian khổ của một người sống ở rừng, tuy nhiên quá trình tu tập khổ hạnh của Ngài đã không đem lại sự giác ngộ mà Ngài muốn tìm kiếm. Ngài tiếp đến tìm ra một "con đường Trung đạo" mà đó không chỉ đơn giản là phân chia sự khác nhau giữa hưởng thụ giác quan hay sự từ chối các cảm giác này. Nó tập trung vào việc giữ tĩnh lặng và hiểu biết tâm thức, vì chỉ tuệ quán mới có thể giải phóng chúng ta ra khỏi mối bận tâm thường ngày của chúng ta với việc cố gắng để trở nên hạnh phúc bằng cách thỏa mãn những tham muốn của mình. Mục tiêu không phải là để tiêu diệt tất cả những ham muốn mà để trải nghiệm chúng một cách không bám víu, để chúng ta không bị kiểm soát bởi chúng. Trái với định kiến về Phật giáo như là một tôn giáo từ bỏ cuộc đời, mục tiêu của Phật giáo không nhất thiết liên quan đến việc siêu việt thế giới này để đến một thế giới khác (thiên đường, cực lạc). Thay vì vậy, mục tiêu là đạt được trí tuệ mà nó nhận ra bản chất thật của thế giới này, bao gồm bản chất thật của ta, và ngang qua trí tuệ này ta được giải thoát khỏi đau khổ (dukkha).

Trong kinh điển Pali, thậm chí còn có những lời khuyên về tài chính trong một số bản kinh: làm thế nào để kiếm tiền, cách chi tiêu và tiết kiệm tiền (Vyaggapajja-sutta, Anguttara Nikaya IV 281; Sigalovada-sutta, Digha Nikaya III 180); nhiều bản kinh về thành công tài chính được thuyết giảng cho Cấp Cô Độc, vị đại thương gia và hành giả vào thời Đức Phật (Anguttara Nikaya I 261, II 45-48, 64-66, III 204, 206). Cư sĩ không bị cấm trở nên giàu có, trái lại, họ được cổ vũ tìm kiếm và tích lũy của cải một cách hợp pháp. Liên quan đến cách kiếm sống đúng đắn, cư sĩ tại gia đã được khuyên nên tránh năm loại buôn bán: nô lệ, vũ khí, thịt, rượu và các chất độc (Anguttara Nikaya III 208). Một số bản kinh có quan điểm rằng sự giàu có tích cực có thể góp phần vào sự thành công của người cư sĩ. Mặt khác, kinh Cakkavatti-Sihanada cho rằng tình trạng nghèo đói tạo ra vô luân và tội phạm như trộm cắp và giết người (Digha Nikaya III 67).

Chính ở trong các mối quan tâm này mà nó cho thấy Phật giáo không cho rằng sự giàu có là một trở ngại để thực hiện con đường tâm linh. Tuy nhiên, Phật giáo không chấp nhận một đời sống tận hiến duy nhất để có được sự giàu có. Mục tiêu cuối cùng của giác ngộ giải thoát có thể khó theo đuổi hơn nếu chúng ta thiếu thốn, tuy nhiên một đời sống chú trọng vào tiền bạc có thể không tốt. Giá trị của sự giàu có không thể so sánh với mục tiêu tối thượng là đạt được Niết-bàn, trạng thái tự do thoát khỏi đau khổ và tái sanh. Tuy nhiên, tài sản có được một cách đúng đắn theo truyền thống được coi là một biểu hiện của phước đức, và nếu sử dụng đúng cách, có thể mang tới lợi ích cho mọi người, vì sự giàu có tạo ra các cơ hội để giúp đỡ người khác và để tu tập sự không chấp thủ bằng cách phát triển sự bố thí của ta (Loy, 2003).

3.2 Tại sao là Phật giáo?

Các lĩnh vực kinh doanh, một phần của nền kinh tế và khoa học xã hội, giải quyết việc quản lý nguồn tài nguyên con người và tự nhiên để sản xuất, thông thường với mục tiêu cuối cùng là thu lợi nhuận. Thật vậy, muốn kinh tế học như là một ngành riêng biệt, nên đã sản sinh ra quan điểm rằng hành vi kinh tế có thể được tách rời riêng biệt khỏi những niềm tin, các giá trị, và hậu quả của các giá trị, niềm tin đó, hay các quan hệ quyền lực và chế độ xã hội (Daniels, 2006). Mặt khác, Phật giáo có thể được phân biệt như là một hệ thống đạo đức và một con đường chỉ ra điều đúng hay sai trong mục đích đời người và hoạt động thế tục (Payutto, 1994). Nó tập trung vào hạn chế tiêu thụ, hành vi hợp tác và lợi ích tập thể đằng sau các hành vi. Khía cạnh vật chất của chất lượng cuộc sống sẽ chỉ là một trong nhiều yếu tố để đánh giá cá nhân hay xã hội "tiến bộ."

Tuy nhiên, như những gì Peter Daniels (2006) lập luận, kinh doanh và kinh tế học không được định nghĩa bởi một mô hình lịch sử; chúng liên quan đến các hoạt động sinh kế và cách con người, các cộng đồng, các xã hội quản lý, phân phối và sử dụng nhân lực và tài nguyên thiên nhiên khan hiểm trong quá trình "kiếm sống của họ." Do đó, kinh tế học là sự nghiên cứu của một tập hợp con của thực tế xã hội - những hoạt động đó gắn liền với việc sinh kế. Mặc dù điều kiện sinh lý và bên ngoài sẽ đóng một vai trò, các giá trị và yếu tố tinh thần khác được buộc vào là một cơ sở quan trọng của các vấn đề kinh tế bao gồm mục đích, các lựa chọn, và những hành động (Payutto, 1994).

Nếu một tôn giáo như Phật giáo có ý nghĩa thiết thực trong tâm trí của mọi người, như tôi đã trình bày trong câu chuyện về Đức Phật ở trên, nó chắc chắn sẽ được biểu hiện rõ ràng trong thực tại xã hội, và sau đó là lĩnh vực kinh doanh và kinh tế. Người ta thường cho rằng các nguyên tắc hợp lý và phổ quát của Phật giáo, và bản chất vô thần và không giáo điều của Phật giáo tạo nên một hệ thống tâm lý học hay triết học và một hệ thống đạo đức định hình một cách sống, hơn là một tôn giáo theo nghĩa thông thường (Nelson, 2000). Mục đích thực tiễn tập trung vào hành vi nhận thức rõ và rèn luyện tâm này hàm ý rằng những nguyên tắc Phật giáo rất tương hợp với  lĩnh vực kinh doanh bởi lợi ích lớn của nó trong việc sinh kế và việc phân bổ các nguồn lực.

Phật giáo cũng được biết đến như là một tôn giáo thế giới rất linh hoạt và dễ thích ứng với một sự tác động dung hợp lên nhiều nền văn hóa địa phương mà nó đã ảnh hưởng trong quá khứ. Hơn nữa, nó đã trải qua sự phân chia nội bộ và thay đổi đáng kể, ví dụ, thành các phái Theravada và Đại thừa và nhiều phái nhỏ bên trong đó. Trải qua hai ngàn năm trăm năm lịch sử của mình Phật giáo đã thể hiện một khả năng thích ứng với nhiều tư tưởng mới, nền văn hóa và quốc gia. Đây là một trong những lý do tại sao Phật giáo, trong năm thập kỷ qua, có một sự phát triển diệu kỳ như vậy ở châu Âu và Bắc Mỹ (Field, 2007). Nó không lấy đi bất cứ thứ gì từ một nền văn hóa; nó chỉ thêm vào các giá trị - trách nhiệm cá nhân, tính toàn vẹn, hành vi đạo đức, và tâm linh.

Những nguyên tắc Phật giáo chính yếu quan tâm đến làm cho mọi người hạnh phúc với thân phận của mình trong cuộc sống  thay vì cố gắng để thay đổi điều kiện vật chất của một cá nhân hoặc cải thiện tình hình của thế giới. Trong thực tế, nhiều học giả đã tin các giá trị Phật giáo Theravada (Thái Lan, Campuchia, Lào, và Myanmar) hạn chế tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, tăng trưởng kinh tế mạnh tổng thể của Thái Lan trong 40 năm qua ủng hộ quan điểm rằng việc thiếu phát triển kinh tế ở Cambodia, Lào, Miến Điện cần phải thực hiện nhiều chính sách quốc tế và nội địa hơn là các giá trị tôn giáo của người dân.

4. Đức Phật và Phật pháp

Phần này nhằm thảo luận và vạch ra một số lời dạy quan trọng của Đức Phật có liên quan đến hoạt động kinh doanh. Việc thảo luận này sẽ rút ra những hạn chế của đạo đức kinh doanh hiện tại, đưa ra một đánh giá cụ thể hơn về sự tương đồng giữa các giá trị Phật giáo và đạo đức kinh doanh trong các phần tiếp theo.

4.1 Hai ý nghĩa của Pháp

Lời dạy của Đức Phật chỉ cho Pháp (Dhamma), hay sự thật. Trong Phật giáo thuật ngữ Pháp được sử dụng để truyền đạt những cấp độ khác nhau của chân lý, cả chân lý tương đối (cariyadhamma) và chân lý tối hậu (sabhavadhamma). Những sự thật liên quan đến hành vi đạo đức - các hành động hàng ngày và trong xã hội - đều là chân lý tương đối. Đây là những sự thật liên quan đến các vấn đề tốt và xấu. Pháp ở trong ý nghĩa lớn hơn của nó là chân lý tối hậu, hay thực tại: nó bao gồm tất cả vạn vật như chúng là và định luật mà nhờ đó chúng thực hiện chức năng. Trong ý nghĩa này, Pháp được sử dụng để mô tả toàn bộ chuỗi các nguyên nhân và điều kiện, tiến trình mà theo đó vạn vật tồn tại và vận hành (Payutto, 1994).                                              

Không giống như phạm vi hẹp hơn của chân lý tương đối, đề cập tới sự suy xét đạo đức riêng biệt, chân lý tối hậu hướng đến bản chất hay thực tại của chính sự vật, đó là vượt ra ngoài mối quan tâm của tốt và xấu. Trong ý nghĩa bao gồm tất cả này, Pháp thể hiện toàn bộ các điều kiện tự nhiên, điều mà các nghành khoa học khác nhau tìm cách miêu tả. Như vậy, giáo pháp của Đức Phật cho chúng ta nhiều điều hơn chứ không chỉ các nguyên tắc chỉ đạo cho một đời sống đạo đức. Lời dạy của Ngài đưa ra một cái nhìn sâu sắc vào bản chất của thực tại.

4.2 Bát Chánh đạo và con đường Trung đạo

Trọng tâm giáo pháp của Đức Phật nằm ở nơi Tứ diệu đế (Cattari Ariyasaccani) mà Ngài trình bày trong bài pháp đầu tiên cho năm vị đệ tử của mình. Tứ diệu đế là: 1) Sự tồn tại của khổ (dukkha), 2) Nguyên nhân hay nguồn gốc của khổ (samudaya), 3) Có một sự kết thúc khổ đau (nirodha), và 4) Có một con đường (magga) thoát khổ đó là Bát Chánh đạo.

Sự thật Tứ diệu đế là con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau. Trong Phật giáo, điều này cũng còn được gọi là Trung đạo (Majjhima Patipada), bởi vì nó tránh hai thái cực: một thái cực là tìm kiếm hạnh phúc qua những thú vui của các giác quan, những điều "thấp kém, tầm thường, không có lợi ích và cách thức của người thế tục"; thái cực còn lại là tìm kiếm hạnh phúc thông qua việc tự hành xác trong các hình thức khổ hạnh khác nhau, đường lối này thì "đau khổ, không xứng đáng và không có lợi ích". Chính Đức Phật sau khi đã trải qua hai thái cực này (đầu đời của mình là một hoàng tử và thực hành khổ hạnh trong những ngày tu tập đầu tiên của Ngài), và hiểu ra chúng là vô ích, Đức Phật đã khám phá ngang qua kinh nghiệm cá nhân con đường Trung đạo mà nó "đem lại sự thấy biết đưa đến đến điềm tĩnh, sáng suốt, giác ngộ, Niết-bàn “"(Walpola, 1978).

Con đường Trung đạo thường được nhắc đến như là Bát Chánh đạo (Ariya-Atthanika-Magga), bởi vì nó bao gồm tám phạm trù, đó là: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh niệm, Chánh tinh tấn, và Chánh định.

Không nên nghĩ rằng tám phạm trù hay những sự phân chia đạo lộ này phải nên được đi theo và thực hành theo thứ tự, mà chúng nhiều hoặc ít phải được phát triển đồng thời. Chúng được liên kết với nhau và mỗi chi phần giúp tu bồi cho các chi phần khác (Walpola, 1978).

Như thể hiện trong bảng trên, tám nguyên tắc hướng dẫn này nhằm mục đích thúc đẩy và hoàn thiện ba yếu tố then chốt của việc rèn luyện và thực hành Phật pháp, đó là: 1) Giới (sila), 2) Định (Samadhi), và 3) Tuệ (Panna). Việc rèn luyện phẩm hạnh đạo đức, trong đó bao gồm Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng, là một sự thể hiện trách nhiệm xã hội của mỗi cá nhân. Nó được xây dựng trên khái niệm rộng lớn về tình yêu phổ quát và lòng từ bi dành cho tất cả chúng sinh, mà trên đó giáo pháp của Đức Phật đặt cơ sở.

Việc rèn luyện kỷ luật tâm thức, mà nó gồm có Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định, bao gồm việc phát triển những phẩm chất tâm và là trách nhiệm đối với sự đứng đắn, kiên quyết và sự tiến bộ vững chắc trong việc hành xử con đường đạo đức. Việc rèn luyện trí tuệ, mà nó gồm có Chánh kiến và Chánh tư duy, đặc biệt bao gồm một cái nhìn thấy rõ thế giới dựa trên tuệ quán sâu sắc về sự vô thường, đối lập, và bản chất vỗ ngã của sự vật, tính duyên khởi của mọi hiện tượng - tất cả những thay đổi đều có nguyên nhân và điều kiện. Đạo đức Phật giáo là bắt nguồn từ sự hiểu biết và nỗ lực được đặc trên sự hiểu biết - trí tuệ này, những điều đóng vai trò then chốt (Rajavaramuni, 1992).

4.3 Duyên khởi

Ngay sau đó, Đại đức Na Tiên nói với vua Milinda ... "Chẳng hay ngài đi bộ đến đây, hay đi bằng xe?"

"Thưa Đại đức, tôi không đi bộ đến đây mà đi bằng xe ngựa."

"Nếu ngài đã đi bằng xe ngựa, vậy thì xin vui lòng giải thích cho tôi cái gì là một chiếc xe ngựa. Có phải cái gọng là xe ngựa?"

"Không, thưa Đại đức!"

"Vậy thì nó là bánh xe, hay khung xe, cờ hiệu, ách, hay dây cương, hay roi đánh?"

"Không, thưa Đại đức!"

... "Như vậy, như tôi đã hỏi, tôi hoàn toàn không thể tìm ra chiếc xe ngựa. Chiếc 'xe ngựa' này chỉ là một danh xưng.

Nhưng chiếc xe ngựa thực sự là gì? Bệ hạ đã nói dối, đã nói một lời dối trá! Thực sự là không có xe ngựa! ... "

Nhưng vua Milinda đã nói với Na Tiên: "Thưa Đại đức Na Tiên, trẫm đã không nói dối. Do có sự phụ thuộc vào gọng xe, trục xe, bánh xe, khung, cờ hiệu v.v…, ở đó có sự đặt tên 'xe ngựa’, sự định danh này, từ ngữ khái niệm này, là một danh xưng tạm thời và chỉ là một tên gọi. "

"Bệ hạ đã nói rất hay về xe ngựa." (Trích từ Những câu hỏi của vua Milinda/ The Questions of King Milinda).

Văn bản Phật giáo cổ này minh họa sự phụ thuộc lẫn nhau, sự liên hệ, bản chất không có thực của những điều chúng ta thường coi là sự vật đối tượng. Một chiếc xe ngựa không phải là thực thể rắn chắc, cơ học mà chúng ta nhận biết bằng giác quan, nó cũng không được đồng nhất với trục hay bánh của nó.

Thuật ngữ "Duyên khởi" (paticca-samuppada) được Đức Phật sử dụng trước hết để mô tả sự thấy biết về bản chất tồn tại của con người. Về cơ bản là một học thuyết nhân quả, khái niệm này quá trọng tâm đối với tư tưởng Phật giáo đến độ một sự hiểu biết đúng đắn về duyên khởi thường được công nhận tương đương với chính sự giác ngộ (Encyclopedia of Religion, 2005). Học thuyết này được xem như một luật phổ quát; rằng tất cả các hiện tượng, tâm lý hoặc thể chất, phụ thuộc vào các điều kiện để xuất hiện và rằng không có thứ gì xảy ra một cách độc lập, biệt lập hay ngẫu nhiên:

Tất cả các hiện tượng trong vũ trụ, tuy dường như không thay đổi, thì... chỉ đơn thuần là các sự kiện và học thuyết duyên khởi cho rằng những sự kiện phát sinh như là một kết quả của sự hội tụ và phát sanh của nhiều điều kiện; rằng sự nối tiếp của các sự kiện được quy định bởi các điều kiện đó mà từ đó nó phát sinh, hay nói một cách khác, hội tụ tại thời điểm nó xảy ra. (The Encyclopedia of Buddhism).

Ví dụ, để một cái cây mọc lên, các điều kiện đất, nước phải hội tụ, thậm chí nhiều điều kiện khác như hạt giống phải tươi và không bị hỏng, phải được xử lý trước; nếu không, hạt giống có thể sẽ trở thành một cái hạt khô và biến thành mùn đất (Samyutta Nikaya III 54). Như một quy luật phổ quát, thuyết nhân duyên được giữ vững vì nó thích hợp với tất cả các hiện tượng, vật chất và tinh thần, cá nhân và xã hội, lịch sử và thuyết mạt thế.

5. Phật giáo là một phần của giải pháp

Khám phá những giới hạn của đạo đức kinh doanh ở phần đầu tiên, một sự thảo luận ngắn gọn về lý do tại sao tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo có thể đóng góp vào nghiên ở phần thứ hai, và phần thứ ba về lời dạy của Đức Phật, chúng ta nên tiến hành ngay bây giờ việc ứng dụng những lời dạy này trong lĩnh vực kinh doanh.

5.1 Nhấn mạnh vào trách nhiệm cá nhân

Tôi muốn bắt đầu việc thảo luận của mình với những câu chuyện như sau: Jean-Paul Sartre một lần đối diện với một học sinh rắc rối trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Học sinh này hỏi Sartre là nên để lại người mẹ dễ bị tổn thương của mình và tham gia Lực lượng giải phóng Pháp hay ở lại với mẹ mình và nhờ đó cứu được cuộc sống của bà. Câu trả lời của Sartre là: "Em tự do, vì thế em có quyền lựa chọn sáng tạo. Không có luật lệ đạo đức chung nào có thể chỉ ra cho em những gì em nên làm.". Cậu học trò không hài lòng với câu trả lời của nhà triết học và hỏi cậu của cậu ta, một sĩ quan quân đội, cùng một câu hỏi để có được một ý kiến thứ hai. Ông cậu trả lời: "Là một sĩ quan quân đội, cậu sẽ khuyên cháu thực hiện nhiệm vụ đối với quốc gia của mình, để lại mẹ và gia nhập quân đội. Tuy nhiên, là người cậu của cháu, cậu muốn cháu ở nhà và chăm sóc mẹ cháu, là em gái của cậu" (Ims, 2006).

Trong truờng hợp trên, rõ ràng rằng Sarttre để lại hoàn toàn trách nhiệm cho cậu học sinh, yêu cầu cậu ta nhận lấy trách nhiệm bản thân. Không phải là vai trò của Sartre nhận lấy những gánh nặng đạo đức từ bất kỳ ai. Mặt khác, người cậu của cậu học sinh rõ ràng bị mắc kẹt bên trong hai vai trò đối nghịch nhau (vừa là một sĩ quan quân đội vừa là anh trai của mẹ cậu học sinh). Theo Applbaum (1999), thuật ngữ vai trò có thể được sử dụng để mô tả "các vị trí công việc với một vài mức độ mang tính quy tắc và vững bền, và ở đó có những mong đợi của tập thể, tuy nhiên không chính thức hoặc không được thừa nhận, về sự đóng góp của vị trí, nhiệm vụ, giá trị và đức hạnh”. Ghi nhớ điều này, một giám đốc hoặc quản lý có một vai trò, nhưng khách hàng độc đoán hơn thì không.

Một số niềm tin không bị trói buộc với một vai trò cụ thể, và viện dẫn vai trò của bản thân không bao giờ là một cơ sở đúng đắn cho nắm giữ niềm tin. Ví dụ, tuyên bố: "Kể từ khi tôi là một nhà lãnh đạo trong một tổ chức kinh doanh, mục tiêu chính của tôi là để tối đa hóa lợi nhuận của tổ chức," không phải là một chuỗi lý luận hợp lý. Là một nhà lãnh đạo, anh ta có một trách nhiệm cá nhân để đạt được mục tiêu của tổ chức, miễn là không gây hại đến thiên nhiên, cộng đồng, những người đang sống hoặc thế hệ tương lai trong quá trình này. Tuy nhiên, là một nhà lãnh đạo kinh doanh không phải một vị trí hợp lệ trong việc giảm thiểu mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty  (Ims, 2006). Tham khảo các trích dẫn trên, chúng ta có thể nói rằng mọi người đều tự do và có thể thực hiện tốt những vai trò khác nhau của mình; ẩn sau vai trò của mình và giả vờ rằng chúng ta không có tự do là đánh lừa bản thân mình cũng như những người khác.

Bây giờ chúng ta trở lại câu hỏi then chốt: Vai trò trong công việc (đặc biệt là các giám đốc điều hành và nhà quản lý hàng đầu) có tạo nên sự miễn trách nhiệm cá nhân? Hoặc là trách nhiệm cá nhân là một vấn đề luôn liên hệ với danh tính của người đó và biểu hiện đạo đức của chính họ, như vậy mang đến nét độc đáo và riêng biệt cho mỗi hành động được thực hiện bởi những người đại diện công ty với vai trò của họ trong công việc?

Roszak (1981) cho rằng trách nhiệm cá nhân là "Nét đặc biệt cốt yếu mà nó tách biệt sự làm công đơn thuần với nghề nghiệp đích thực." Nghề nghiệp, như được "gọi", đề cập đến việc "lao động tốt và có đạo đức chân chính". Roszak nhấn mạnh vấn đề trách nhiệm cá nhân đối với người khác, và với các vấn đề sinh thái. Theo đó mỗi người nên tự hỏi: Công việc có lương thiện và hữu ích không? Nó có phải là một sự đóng góp thực sự cho nhu cầu của con người? Như những gì Ims (2006) trình bày, "Các giá trị cá nhân làm cơ sở cho các giá trị mà chúng ta ‘tán thành và tuân thủ’ ở trong cuộc sống nghề nghiệp của chúng ta. Những giá trị tổ chức ít vững bền hơn so với các giá trị “sâu sắc và gắn liên với đời sống” của từng cá nhân."

5.2 Bát Chánh đạo như là một nguyện tắc bổ sung

Các nguyên tắc hướng dẫn của Bát Chánh đạo không chỉ dành cho một công ty hay tập đoàn cụ thể. Trong thực tế, những nguyên tắc này không bắt đầu từ tổ chức, mà chúng bắt đầu từ bạn và tôi - những người trong công ty. Để áp dụng tốt hơn và áp dụng những nguyên tắc này vào công ty, tôi sẽ sử dụng mô hình của Tetsunori Koizumi (2010) trong việc chia Bát Chánh đạo thành các tập hợp, mỗi tập hợp bao gồm bốn phạm trù như chúng ta có thể thấy bên dưới:

Là một nhóm, bốn yếu tố trong tập hợp đầu tiên tất cả đề cập đến vấn đề tinh thần. Chúng có thể được hiểu là tương ứng với bốn hình thái hoạt động của tâm ý: sự hiểu biết, tư duy, ước muốn và chánh niệm. Bốn yếu tố này thuộc một nhóm do đó được diễn giải nhằm nói lên tầm quan trọng của việc duy trì cõi tâm đúng đắn. Mặt khác, bốn yếu tố trong tập hợp thứ hai tất cả đề cập đến các hoạt động của thân như nói năng, hành động, sự cố gắng, và kiếm sống (sinh kế của một người) - và do đó có thể được diễn giải để nói lên tầm quan trọng của việc quan sát qua việc sử dụng đúng đắn thân thể (Koizumi, 2010). Bát Chánh đạo, như một hướng dẫn thực tế kiểm soát cuộc sống của một người, trong trường hợp của chúng ta, là dành cho giám đốc điều hành, những nhà quản lý hàng đầu và người làm công, như vậy chú ý đến tầm quan trọng trong việc giữ cân bằng thích hợp giữa tâm trí và cơ thể, giữa các hoạt động tinh thần và thể chất.

5.3 Trung đạo như một trạng thái cân bằng toàn diện

Ý tưởng trọng tâm phía sau con đường Trung đạo, như những gì chúng ta đã thảo luận ở trên, là ý tưởng về sự cân bằng giữa hai thái cực khổ hạnh và hưởng dục. Đức Phật chính yếu nói về tầm quan trọng của việc duy trì sự cân bằng cho người tìm kiếm sự giác ngộ. Nhưng sự tồn tại của mỗi cá nhân là một hệ thống (vai trò của mỗi người trong kinh doanh - giám đốc điều hành, quản lý hàng đầu, hay nhân công) tồn tại trong không gian tổng hợp nếu tất cả hệ thống được gọi là vũ trụ (môi trường kinh doanh). Như vậy chúng ta có thể giải thích Trung đạo như một trạng thái cân bằng cho các vai trò công việc của từng người như một hệ thống mở trong môi trường kinh doanh. Trạng thái cân bằng đó, ở cấp độ vi mô, áp dụng vào những vai trò kinh doanh, cũng như ở cấp độ vĩ mô là áp dụng vào môi trường kinh doanh.

Ở cấp độ vi mô, Trung đạo có thể được hiểu như là một trạng thái "cân bằng toàn diện" trong vai trò công việc của từng cá nhân như một hệ thống phức hợp của các hoạt động tinh thần và thể chất. Điều này phù hợp với các nguyên tắc hướng dẫn của Bát Chánh đạo mà chúng ta đã thảo luận ở trên. Điều quan trọng ở đây là, để theo đuổi trách nhiệm cá nhân, cả tâm và thân, cả khía cạnh tinh thần và thể chất của sự tồn tại của chúng ta, phải được duy trì trong trạng thái cân bằng toàn diện. Ở cấp độ vĩ mô, Trung đạo có thể được hiểu như là một trạng thái cân bằng giữa vai trò cá nhân trong công việc và môi trường kinh doanh, hay cụ thể hơn, đó là công ty. Sự giải thích này được đề xuất theo thế giới quan của Đức Phật, đó là tính hệ thống và sự tiến triển. Môi trường kinh doanh (môi trường làm việc, đồng nghiệp, và các nhà lãnh đạo) ảnh hưởng đến vai trò cá nhân bằng nhiều cách. Đổi lại, vai trò cá nhân ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh thông qua tinh thần trách nhiệm, sự tham gia sản xuất, thái độ làm việc v.v… Nơi cái nhìn ảnh hưởng hỗ tương như vậy giữa các vai trò của từng cá nhân trong công việc và môi trường kinh doanh, rõ ràng rằng Bát Chánh đạo và Trung đạo, con đường duy trì sức khỏe của cá nhân, cũng là con đường duy trì sức khỏe của công ty.

5.4 Thuyết Nhân duyên như là một trạng thái của sự hiểu biết

Bên cạnh "lòng tham", điều thường được coi là vấn đề chính của đạo đức con người, lập luận của tôi là một nguyên nhân khá rõ của việc làm sai trái trong kinh doanh là do một quan niệm sai lầm trong việc kinh doanh hoặc thiếu hiểu biết đúng đắn. Như những gì Solomon (1994) giải thích, nó đến từ việc không nhìn thấy "bức tranh lớn", một loại cận thị đạo đức, và một ý thức không đầy đủ về vai trò của bản thân và nhân phẩm của mình, điều bị che lấp bởi sự cấp bách của mục tiêu, tham vọng, và nhu cầu.

Như những gì ý tưởng của giáo lý duyên sinh cho thấy, tất cả chúng ta đều phụ thuộc lẫn nhau; chúng ta là một phần của nhau. Trong ý nghĩa đó, một người phải tư duy rằng chính mình là một thành viên của cộng đồng, và phấn đấu để xuất sắc, để mang lại những gì tốt nhất nơi chính chúng ta và doanh nghiệp chung của chúng ta. Đạo đức kinh doanh được quan niệm như vậy là sự tự nhận thức xã hội hiển nhiên, một ý nghĩa rõ ràng về mục đích, danh dự, và đạo đức trong kinh doanh. Đạo đức kinh doanh là dành cho cá nhân - mặc dù không mang ý nghĩa cá nhân hay chủ quan – hơn là giải pháp chính sách đối với đạo đức kinh doanh (Solomon, 1994).

6. Kết luận

Như đã trình bày trong suốt bài viết này, giải pháp Phật giáo đối với với đạo đức kinh doanh đã nhấn mạnh sự cần thiết đối với việc chuyển hóa cá nhân như một phần của tiến trình chuyển hóa tập thể. Nếu 2 mặt này là trung tâm của “sự đau khổ” trong kinh doanh của chúng ta, dễ hiểu tại sao ta phải thực hiện trên cả 2 cấp độ. Những gì bài viết này đề xuất không phải để lật đổ mô hình đạo đức kinh doanh hiện nay của chúng ta, mà bày tỏ những cách thức mà ở đó các nguyên tắc và giáo lý Phật giáo có thể cải thiện một số những thiếu sót của các mô hình hiện tại.

Bởi vì tác động của kinh doanh ngay nay là toàn cầu, trách nhiệm của nó cũng phải mang tính toàn cầu. Những hoạt động kinh doanh ảnh hưởng đáng kể đến số phận và sự sống còn của các hệ sinh thái tự nhiên cũng như điều kiện sống của các thế hệ hiện tại và tương lai. Để trở thành một công ty với đầy đủ đạo đức, như những gì Laszlo Zsolnai (2006) thể hiện, doanh nghiệp phải được tiến hành theo các cách bền vững, xã hội tiến bộ và các phương cách phát triển cho tương lai. Thực hiện đạo đức kinh doanh không phải là một sự xa xỉ; nó là yêu cầu đối với các doanh nghiệp hiện đại để tồn tại trong một thế giới có quy mô hủy hoại sinh thái lớn và sự tan rã xã hội (Zsolnai, 2006).

Bài viết này không cố gắng để giảm bớt các hoạt động kinh doanh cho nhân loại, hay cụ thể là các tôn giáo. Nó chỉ đơn thuần lập luận rằng việc áp dụng đạo đức với môi trường kinh doanh phải đối mặt với những gì liên quan đến con người mà đã và đang tiềm ẩn trong cuộc sống doanh nghiệp. Cuối cùng, những gì được lập luận ở đây tương tự như quan điểm của triết gia John Stuart Mill, người đã nhận xét rằng "con người vẫn là con người trước khi họ trở thành luật sư, bác sĩ, thương gia, hoặc nhà sản xuất, và nếu ta khiến họ trở thành người có năng lực và nhạy bén, chính họ sẽ là các luật sư, bác sĩ, hoặc các thương gia có năng lực và nhạy bén".

* Wan Kah Ong: University of the West, California, USA; Peng Chan: California State University, Fullerton, California, USA.

Nguồn: freepatentsonline.com

Tài liệu tham khảo:

Applbaum, A.I. (1999). Ethics for Adversaries: The morality of roles in public and professional life. Princeton, New Jersey: Princeton University Press.

Buchholz, Rogene. (1991). Corporate responsibility and the good society: From Economics to Ecology. Business Horizons, July/August, 24.

Carr, Alfred. (1968). Is business bluffing ethical? Harvard Business Review 46, January/February, 143-53.

Daniels, Peter. (2006). Reducing society's metabolism. In Laszlo Zsolnai & Knut J. Ims (Eds.) Business within limits: Deep ecology and Buddhist economics. Switzerland: Peter Lang. Encyclopedia of Buddhism. 2n ed. (1996). Sri Lanka: The State Printing Corporation.

Field, Lloyd. (2007). Business and the Buddha: Doing well by doing good. Boston, MA: Wisdom Publications.

Fort, Timothy L. (2008). Prophets, profits, and peace: The positive role of business in promoting religious tolerance. New Haven: Yale University Press.

Friedman, Milton. (1962). Capitalism and freedom. Chicago: University of Chicago Press.

Ghillyer, Andrew W. (2010). Business ethics: A real world approach. Boston: McGraw Hill Higher Education.

Hipsher, Scott A. (2010). Business practices in Southeast Asia: An interdisciplinary analysis of Theravada Buddhist countries. London: Routledge.

Ims, Knut J. (2006). Take it personally. In Laszlo Zsolnai & Knut J. Ims (Eds.) Business within limits: Deep ecology and Buddhist economics. Switzerland: Peter Lang.

Jones, Lindsay, Eliade, Mircea, & Adams Charles J. (2005). Encyclopedia of religion. Detroit: Macmillan Reference USA.

Jones, Richard. (1994). Concerning secularists' proposed restrictions of the role of religion in American politics. Hawaii: Brigham Young University.

Koizumi, Tetsunori. (2010). The Noble Eightfold Path as a prescription for sustainable living. In Richard K.

Payne (Ed.) How much is enough: Buddhism, consumerism, and the human environment. Boston: Wisdom Publication.

Loy, David R. (2003). The great awakening: A Buddhist social theory. Boston: Wisdom Publication.

Nelson, Darren. (2000). Why is Buddhism the fastest growing religion in Australia? BuddhaZine [online], Retrieved November 6, 2011, from http://www.buddhanet.net/wh ybudoz.htm

Payutto, P.A. (1994). Buddhist economics: A middle way for the market place. Bangkok, Thailand: Buddhadhamma Foundation.

Rajavaramuni, Phra. (1992). Foundations of Buddhist social ethics. In Charles S. Prebish (Ed.) Buddhist ethics: A cross-cultural approach. Iowa: Kendall/Hunt Publishing.

Roszak, T. (1981). Person/planet: The creative disintegration of industrial society. London: Granada.

Solomon, Robert S. (1994). Business and the humanities: An Aristotelian approach to business ethics. In Thomas Donaldson & R. Edward Freeman (Eds.), Business as a humanity (pp. 45-75). New York: Oxford University Press.

The Questions of King Mi/inda [online], Retrieved October 25, 2011, from http://www.budsas.org/ebud/ebsut045.htm

Walpola, Rahula (1978). What the Buddha taught. London: G. Fraser.

Weiss, J. W. (1994). Business ethics: A managerial, stakeholder approach. Belmont, Calif: Wadsworth Pub. Co.

Zsolnai, Laszlo (2006). Ethical business. In Laszlo Zsolnai & Knut J. Ims (Eds.) Business within limits: Deep ecology and Buddhist economics. Switzerland: Peter Lang.


Phật giáo và đạo đức kinh doanh

Wan Kah Ong & Peng Chan*


1.Giới thiệu

Mục đích của bài viết này xác định những đặc điểm chung của các hệ thống kinh doanh hiện nay mà chúng tương hợp với giá trị Phật giáo. Đồng thời, áp dụng các nguyên tắc và lời dạy của Đức Phật, bài viết này tìm cách hòa giải những xung đột không có thật tồn tại giữa hai hệ thống này. Bài viết bắt đầu bằng cách xem xét một số hạn chế và thách thức đe dọa việc thực hành đạo đức trong môi trường kinh doanh. Tiếp theo, bài viết sẽ thảo luận về một số nhận thức sai lầm thông thường mà mọi người đang có về Phật giáo và giáo lý Phật giáo, với một cái nhìn tổng quan về các quan điểm trọng yếu của đạo đức Phật giáo. Tiếp theo là đánh giá tính thích hợp, bản chất và những hàm ý của Phật giáo, về việc bổ sung sự ứng dụng đạo đức kinh doanh vào môi trường hiện nay.

2. Xem xét tài liệu

2.1 Những giới hạn của đạo đức kinh doanh

Có một số câu hỏi then chốt mà chúng ta nên hỏi trước khi nghiên cứu lĩnh vực đạo đức kinh doanh: "Các công ty liệu có là các tổ chức lý trí và phi cảm tính? Liệu một công ty có lương tâm? Một công ty có chịu trách nhiệm về đạo đức với xã hội? Nếu có, thì ở mức độ nào?”

Những câu hỏi này là một phần trong một cuộc tranh luận đang diễn ra mà nó xoay quanh những vấn đề sau đây: 1) Nếu một công ty không có lương tâm và chủ yếu là một tổ chức vì lợi nhuận phi cảm tính, thì những trách nhiệm gì một công ty phải có với các bên liên quan, chẳng hạn như người tiêu dùng, nhân viên, chính quyền, và xã hội? Luật lệ nào, và ai, nên chi phối và kiểm soát hoạt động của công ty, những hoạt động có dính líu về mặt đạo đức với các bên liên quan của công ty, nếu công ty không thể hoặc sẽ không làm như vậy? 2) Nếu một công ty có nhiều hơn một thành viên liên quan đến hoạt động tạo lợi nhuận, điều gì là nền tảng và cơ sở về trách nhiệm đạo đức của nó? Từ đó liệu công ty có chịu trách nhiệm nào ngoài các nghĩa vụ kinh tế của mình? Công ty nên đáp ứng trách nhiệm đạo đức và xã hội của mình với bên liên quan với nó như thế nào? (Weiss, 1994).

Bài viết này bắt đầu bằng việc thảo luận và đánh giá hai quan điểm khác nhau về bản chất của các công ty (tập đoàn) và trách nhiệm xã hội của họ như đã đề cập ở trên: 1) Quan điểm đầu tiên về bản chất không có lương tâm và là một tổ chức phi cảm tính – một thành viên liên quan chỉ cam kết với các cổ đông và chủ sở hữu của nó; 2) quan điểm thứ hai xem xét các tập đoàn như một tổ chức liên đới cả môi trường kinh doanh và xã hội, có nghĩa là bên cạnh nghĩa vụ kinh tế của mình cho cổ đông, công ty có lương tâm và hoạt động như một đại diện đạo đức trong mối quan hệ với các bên liên quan.

2.2 Quan điểm thứ nhất: Các tập đoàn không có lương tâm

Rất ít người không đồng ý với thực tế là hầu hết các tập đoàn kinh doanh để kiếm lợi nhuận cho chủ sở hữu và cổ đông. Một câu hỏi quan trọng là liệu công ty có thể và nên có trách nhiệm về mặt đạo đức với các bên liên quan ngoài các cổ đông của họ hay không. Quan điểm của các "tập đoàn là tổ chức phi tình cảm, vì lợi nhuận" cho rằng nghĩa vụ chính của các doanh nghiệp là tạo lợi nhuận, không phải là để hành động có trách nhiệm đạo đức. Theo quan điểm này, các cơ sở trách nhiệm đạo đức nằm bên ngoài công ty. Quan điểm này thì quan trọng trong lĩnh vực đạo đức kinh doanh, vì định nghĩa các công ty như một tổ chức phi cảm tính cho thấy rằng trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm pháp lý không thể quy cho một tổ chức (Weiss, 1994).

Adam Smith (1723-1790) là người đầu tiên đề xuất quan điểm này. Ông lập luận rằng các doanh nghiệp là các tổ chức phi luân lý không có ý thức về đạo đức (không có nghĩa là trái đạo đức) mà chúng thúc đẩy lợi ích cá nhân và lợi ích kinh tế của các chủ sở hữu, và cho rằng lợi ích riêng của từng cá nhân tạo động lực và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của xã hội và đó là do có "bàn tay vô hình" đã định hướng và thúc đẩy lợi ích chung của xã hội. Theo quan điểm này, trách nhiệm xã hội cần đến các luật lệ và sự bắt buộc thực thi luật lệ, nhưng điều này là trách nhiệm của nhà nước, không phải của doanh nghiệp. Những người gần đây ủng hộ quan điểm này bao gồm nhà kinh tế học Milton Friedman, người đã mạnh mẽ cho rằng doanh nghiệp không có trách nhiệm xã hội nào ngoài việc tối đa hóa lợi nhuận.

Quan điểm đã nhận được sự chấp nhận rộng rãi rằng các ban quản trị và các nhà lãnh đạo lao động có trách nhiệm xã hội ngoài nghĩa vụ phục vụ lợi ích của các cổ đông của họ hoặc các thành viên quản trị. Quan điểm này cho thấy một quan niệm sai lầm cơ bản về các đặc tính và bản chất của một nền kinh tế tự do. Trong một nền kinh tế như vậy, có một và chỉ có một trách nhiệm của doanh nghiệp với xã hội - là sử dụng nguồn lực của mình và tham gia vào các hoạt động phù hợp để tăng lợi nhuận của mình, miễn là nó nằm trong các quy tắc của cuộc chơi, rõ hơn là, tham gia một cuộc cạnh tranh mở và tự do, mà không có sự lừa dối, gian lận... Vài xu hướng có thể phá hủy triệt để các tổ chức trong xã hội tự do của chúng ta như việc chấp nhận của các lãnh đạo công ty về việc ưu tiên trách nhiệm xã hội hơn là tạo ra càng nhiều lợi nhuận cho các cổ đông của họ càng tốt (Friedman, 1962).

Từ trích dẫn ở trên, Friedman rõ ràng chủ trương rằng các công ty không kinh doanh để giúp đỡ xã hội, đúng hơn là, để giúp các doanh nghiệp đáp ứng trách nhiệm chính mình –  tạo ra lợi nhuận cho chủ sở hữu và cổ đông.

Tuy nhiên, có một số hạn chế liên quan đến quan điểm vẫn đang phổ biến này. Joseph Weiss (1994) trong cuốn sách “Đạo đức kinh doanh” của mình đã vạch ra những suy xét sau. Đầu tiên, quan điểm các công ty như là các tổ chức phi cảm tính không nhằm mục đích củng cố nhận thức rằng các công ty và hành động của họ thì phi luân lý. Để lập luận rằng các công ty tổ chức không có nền tảng đạo đức để chịu trách nhiệm với các hoạt động của mình là để đưa ra giả thuyết rằng những nhà quản lý có quyển tự do để sử dụng các nguồn tài nguyên lớn cho các hoạt động công ty và điều đó có thể gây hại cho người tiêu dùng. Thứ hai, góc nhìn công ty là tổ chức phi cảm tính không nhằm mục đích có thể cung cấp một sự bảo vệ dành cho các chủ sở hữu quyền lực và các nhà quản lý hàng đầu bằng sự bất lợi cho các nhân viên cấp dưới, những người có thể trở thành con dê tế thần cho các hoạt động bất hợp pháp của công ty. Thứ ba, các công ty cũng như các tổ chức kinh tế đều có nhân tính, thì tại sao các tổ chức được đăng ký hợp pháp không mang nghĩa vụ và trách nhiệm cho hạnh phúc của cộng đồng nơi họ thực hiện kinh doanh và cho công nhân viên, những người làm nên sự tồn tại của họ? Thứ tư, sự sản xuất trong nền kinh tế cạnh tranh và vì chỉ lợi nhuận không tất yếu sản xuất ra sản phẩm tốt nhất với số lượng lớn nhất.

Weiss tiếp tục lập luận rằng, không có sự hợp tác từ địa phương, tiểu bang, chính phủ liên bang và công chúng, nhiều doanh nghiệp không thể trang trải việc duy trì hoạt động công ty hoặc "chi phí bên ngoài," (các chi phí phát sinh của các doanh nghiệp nhưng được chi trả bằng xã hội, chẳng hạn như các ảnh hưởng phụ lên không khí và ô nhiễm nguồn nước). Liên quan đến sự chỉ trích này là một sự thật rằng không phải tất cả các doanh nghiệp đều có thể tồn tại hoàn toàn ở thị trường tự do, một số doanh nghiệp bị kiểm soát và được hỗ trợ bởi chính phủ, đó là, bằng tiền thuế của công chúng. Điển hình là Tập đoàn Chrysler, nếu  không có một khoản vay của chính phủ vào năm 1979, công ty có lẽ sẽ không còn tồn tại.

Quan điểm thứ hai: Những tập đoàn như những cổ đông xã hội và kinh tế

Quan điểm khác, rất phổ biến ở hầu hết các tập đoàn hiện nay, cho rằng các công ty vì lợi nhuận là pháp nhân và là một tập hợp của nhiều cá nhân và nhóm. Các giám đốc điều hành và cán bộ quản lý cấp cao được thuê để tối đa hóa lợi nhuận cho chủ sở hữu và cổ đông. Tuy nhiên, để thực hiện việc này, công ty cũng phải đáp lại một loạt các lợi ích, quyền lợi và nhu cầu chính đáng của các bên liên quan (nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp, các cơ quan chính phủ). Từ quan điểm này, công ty có nghĩa vụ đáp ứng quyền lợi về kinh tế của các chủ sở hữu; tuy nhiên, để tồn tại và thành công, nó cũng phải đáp ứng yêu cầu về pháp lý, xã hội, chính trị và môi trường với một tập hợp các bên liên quan trong nội bộ cũng như bên ngoài (Weiss, 1994).

Cũng được gọi là giải pháp khế ước xã hội đối với quản lý doanh nghiệp, phương pháp này lập luận rằng vì công ty phụ thuộc vào xã hội để tồn tại và tiếp tục phát triển, có một nghĩa vụ cho công ty để đáp ứng nhu cầu của xã hội đó chứ không phải chỉ riêng nhu cầu của một nhóm khách hàng mục tiêu. Bằng cách nhận biết tất cả các bên liên quan của họ chứ không phải chỉ là cổ đông của họ, các công ty phải duy trì một tầm nhìn dài hạn hơn là chỉ đối phó với số liệu thu nhập hàng quý (Ghillyer, 2010).

Quan điểm bên liên quan của công ty đã trở thành một quan điểm hữu ích cho sự hiểu biết trách nhiệm xã hội và đạo đức của một công ty đối với các chủ thể liên quan của mình. Tuy nhiên, tương tự với quan điểm đầu tiên, quan điểm này về công ty cũng có các phê bình. Một số người cho rằng quan điểm này không có nền tảng lý thuyết vững chắc cho sự đáp ứng về mặt xã hội của công ty. Rogene Buchholz (1991) trong bài viết "Trách nhiệm doanh nghiệp và một xã hội tốt đẹp" lập luận rằng "mô hình bên liên quan là một công cụ hữu ích để phân tích và mô tả nhiều mối quan hệ khác nhau mà một công ty có để cấu thành chính nó trong xã hội, nhưng nó không có nghĩa là một cố gắng mang nặng tính lý thuyết để cung cấp một mô hình mới mà thậm chí sẽ bắt đầu thay thế các mô hình kinh tế”. Nói cách khác, không có nguồn và cơ sở cho các trách nhiệm đạo đức trong mô hình các bên liên quan. Có thể lập luận rằng quan điểm này chủ yếu dựa trên phương diện kinh tế và tập trung vào việc tối đa hóa lợi nhuận giống như quan điểm đầu tiên.

2.4 Những giới hạn khác của đạo đức kinh doanh

Nhiều tiêu điểm đã được đặt vào các chính sách của công ty và quy tắc đạo đức; điều này phổ biến hiện nay và người ta có thể cho rằng những điều này sẽ đảm bảo rằng các công ty sẽ đưa ra các quyết định có tính đạo đức khi hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, điều này có thể không phải luôn luôn đúng. Thật vậy, một số học giả cho rằng các chính sách của công ty và các quy tắc đạo đức là không đủ để cấu thành đạo đức. Robert Solomon (1994) đã lập luận rằng có thiếu sót nào đó từ các quyết định chính sách, mà trọng tâm chắc chắn gần như không đặt lên bất kỳ đối tượng nào, và đó là trách nhiệm cá nhân.

Các câu hỏi về trách nhiệm tràn ngập khắp mọi tập đoàn, và luôn luôn có nhiều ứng viên lớn để đổ lỗi, miễn là họ phải được tìm ra ở một nơi nào khác, nhưng vì có quá nhiều và tiêu điểm trách nhiệm thường là quá khó để tìm. Đây là lý do tại sao các tập đoàn hiện nay thì rất thường hay bị rung chuyển và làm suy yếu bởi việc sa thải thiếu sự cân nhắc hoặc thay thế toàn bộ bộ phận - giám đốc điều hành không biết ai để đổ lỗi, và vì vậy họ đổ lỗi và trừng phạt tất cả mọi người. Trách nhiệm được đặt lên "hệ thống" hoặc lên các chính sách hiện tại mà sau đó trở thành tâm điểm của một cuộc tranh luận dường như vô tận. Cái gì cần được loại bỏ và trở thành đặc điểm chính của đạo đức kinh doanh là sự thừa nhận rằng quyết định này là của chính mình, sự hiểu biết rằng đạo đức không chỉ là một vấn đề đối với ban điều hành, các ủy ban quản trị, và người giám sát của chính phủ mà còn cho tất cả chúng ta, trong những việc nhỏ cũng như ở trong những vở kịch lớn hơn trong đời sống hàng ngày của chúng ta (Solomon, 1994).

Ngoài ra, đại diện doanh nghiệp ngày nay thường có lập luận rằng "kinh doanh cũng giống như chơi bài và tách biệt với đạo đức của cuộc sống hàng ngày" (Carr, 1968) - bạn phải "lừa gạt" để tồn tại. Ý tưởng rất chia rẻ, khi thế giới kinh doanh hiện đại không quá dễ dàng, một cá nhân từ đời sống nghề nghiệp, tin tưởng rằng "kinh doanh là kinh doanh," sẽ là không thể hình dung được. Hầu hết mọi người trong kinh doanh hiện nay đồng hóa chính mình với chính công ty của họ. Đạo đức của họ, ít nhất là trong công việc, chắc chắn được đồng hòa với các giá trị của công ty và ngành công nghiệp, tuy nhiên một người mạnh mẽ có thể phản đối và tách biệt đạo đức cá nhân của mình với những giá trị trên (Solomon, 1994).

Sự tách biệt giữa đạo đức cá nhân với công việc, "sự tha hóa" theo Friedrich Schiller, đưa chúng ta đến đòi hỏi rằng đức hạnh trong kinh doanh độc lập với đức hạnh của những điều khác trong cuộc sống của chúng ta, và điều này phủ nhận tính riêng biệt hoặc của vai trò kinh doanh, hoặc của cuộc sống của chúng ta. Điều này do đó dựng nên một thảm kịch trong đó một nhân công bị áp lực vi phạm "giá trị cá nhân" của mình bởi vì, góc nhìn kinh doanh đơn thuần là kinh doanh, anh ta hoặc cô ta "không thực sự có bất kỳ sự lựa chọn nào."

Sau khi đã đặt ra những giới hạn của đạo đức kinh doanh, bây giờ chúng ta xem xét Phật giáo và xem những giá trị gì mà tôn giáo này có thể đóng góp cho lĩnh vực đạo đức kinh doanh.

3.Tôn giáo, Phật giáo và kinh doanh

Người ta dựa vào niềm tin tôn giáo trong việc đưa ra các quyết định có ảnh hưởng đến những người khác; khi một người có một niềm tin tôn giáo, nó đơn giản không thể định hình nên một cuộc sống mà nó loại trừ những niềm tin đó ra khỏi mọi liên quan thực tế (Fort, 2008). Niềm tin tôn giáo có khả năng trở thành yếu tố cấu thành toàn bộ khuôn khổ đạo đức toàn vẹn của một người. Đó là lý do tại sao Richard Jones đã viết:

Tôn giáo tạo ra một khuôn khổ mà nó cung cấp ý nghĩa cho toàn bộ đời sống của một người. Do đó, nó là không thực tế để hy vọng tách rời đức tin tôn giáo khỏi lĩnh vực quan điểm hoàn toàn riêng tư mà không có ảnh hưởng lên các hành động cộng đồng của họ. Tôn giáo không điều chỉnh chỉ những phạm vi giới hạn trong đời sống tôn giáo – tôn giáo không phải là hạn chế tự do hoặc đời sống riêng tư hay cá nhân. Thay vì vậy, tôn giáo bao hàm toàn diện trong ý nghĩa rằng tất cả các khía cạnh của cuộc sống của một người là liên quan ở mức độ này hay mức độ khác với khuôn khổ cơ bản này (Jones, 1994).

Tư tưởng phương Tây đầu tiên về điểm chung giữa tôn giáo và kinh tế tập trung chủ yếu vào các tác động tiêu cực của tôn giáo truyền thống vào việc cải thiện các điều kiện vật chất của cuộc sống. Trớ trêu thay, bây giờ có một ý thức tỉnh ngộ rõ ràng và hoài nghi về mô hình tăng trưởng và phát triển "phi luân lý," "khoa học” của phương Tây  (Daniels, 2006). Thật là kỳ lạ rằng trong một môi trường kinh doanh đòi hỏi trách nhiệm đạo đức của các nhà lãnh đạo kinh doanh, một nền tảng cho sự hiểu biết về các nghĩa vụ đạo đức - truyền thống tôn giáo - bị loại khỏi các cuộc đối thoại mang tính xây dựng.

3.1 Đức Phật với sự thịnh vượng và nghèo khó

Khởi đầu, giống như nhiều tôn giáo khác, ý tưởng liên kết Phật giáo với kinh doanh xuất hiện như là một nghịch lý nghiêm trọng. Sự đáp ứng các ước muốn cá nhân và lợi ích vật chất tràn ngập các mục đích và hành động của các hoạt động kinh doanh dường như trực tiếp mâu thuẫn với thế giới quan Phật giáo. Tuy nhiên, giả định này được dựa trên sự nhầm lẫn và hiểu lầm về Phật giáo đối với quan điểm về lợi ích vật chất và sự giàu có.

Theo truyền thống, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ bỏ một cuộc sống đặc ân với khoái lạc và an nhàn để đến với cuộc sống gian khổ của một người sống ở rừng, tuy nhiên quá trình tu tập khổ hạnh của Ngài đã không đem lại sự giác ngộ mà Ngài muốn tìm kiếm. Ngài tiếp đến tìm ra một "con đường Trung đạo" mà đó không chỉ đơn giản là phân chia sự khác nhau giữa hưởng thụ giác quan hay sự từ chối các cảm giác này. Nó tập trung vào việc giữ tĩnh lặng và hiểu biết tâm thức, vì chỉ tuệ quán mới có thể giải phóng chúng ta ra khỏi mối bận tâm thường ngày của chúng ta với việc cố gắng để trở nên hạnh phúc bằng cách thỏa mãn những tham muốn của mình. Mục tiêu không phải là để tiêu diệt tất cả những ham muốn mà để trải nghiệm chúng một cách không bám víu, để chúng ta không bị kiểm soát bởi chúng. Trái với định kiến về Phật giáo như là một tôn giáo từ bỏ cuộc đời, mục tiêu của Phật giáo không nhất thiết liên quan đến việc siêu việt thế giới này để đến một thế giới khác (thiên đường, cực lạc). Thay vì vậy, mục tiêu là đạt được trí tuệ mà nó nhận ra bản chất thật của thế giới này, bao gồm bản chất thật của ta, và ngang qua trí tuệ này ta được giải thoát khỏi đau khổ (dukkha).

Trong kinh điển Pali, thậm chí còn có những lời khuyên về tài chính trong một số bản kinh: làm thế nào để kiếm tiền, cách chi tiêu và tiết kiệm tiền (Vyaggapajja-sutta, Anguttara Nikaya IV 281; Sigalovada-sutta, Digha Nikaya III 180); nhiều bản kinh về thành công tài chính được thuyết giảng cho Cấp Cô Độc, vị đại thương gia và hành giả vào thời Đức Phật (Anguttara Nikaya I 261, II 45-48, 64-66, III 204, 206). Cư sĩ không bị cấm trở nên giàu có, trái lại, họ được cổ vũ tìm kiếm và tích lũy của cải một cách hợp pháp. Liên quan đến cách kiếm sống đúng đắn, cư sĩ tại gia đã được khuyên nên tránh năm loại buôn bán: nô lệ, vũ khí, thịt, rượu và các chất độc (Anguttara Nikaya III 208). Một số bản kinh có quan điểm rằng sự giàu có tích cực có thể góp phần vào sự thành công của người cư sĩ. Mặt khác, kinh Cakkavatti-Sihanada cho rằng tình trạng nghèo đói tạo ra vô luân và tội phạm như trộm cắp và giết người (Digha Nikaya III 67).

Chính ở trong các mối quan tâm này mà nó cho thấy Phật giáo không cho rằng sự giàu có là một trở ngại để thực hiện con đường tâm linh. Tuy nhiên, Phật giáo không chấp nhận một đời sống tận hiến duy nhất để có được sự giàu có. Mục tiêu cuối cùng của giác ngộ giải thoát có thể khó theo đuổi hơn nếu chúng ta thiếu thốn, tuy nhiên một đời sống chú trọng vào tiền bạc có thể không tốt. Giá trị của sự giàu có không thể so sánh với mục tiêu tối thượng là đạt được Niết-bàn, trạng thái tự do thoát khỏi đau khổ và tái sanh. Tuy nhiên, tài sản có được một cách đúng đắn theo truyền thống được coi là một biểu hiện của phước đức, và nếu sử dụng đúng cách, có thể mang tới lợi ích cho mọi người, vì sự giàu có tạo ra các cơ hội để giúp đỡ người khác và để tu tập sự không chấp thủ bằng cách phát triển sự bố thí của ta (Loy, 2003).

3.2 Tại sao là Phật giáo?

Các lĩnh vực kinh doanh, một phần của nền kinh tế và khoa học xã hội, giải quyết việc quản lý nguồn tài nguyên con người và tự nhiên để sản xuất, thông thường với mục tiêu cuối cùng là thu lợi nhuận. Thật vậy, muốn kinh tế học như là một ngành riêng biệt, nên đã sản sinh ra quan điểm rằng hành vi kinh tế có thể được tách rời riêng biệt khỏi những niềm tin, các giá trị, và hậu quả của các giá trị, niềm tin đó, hay các quan hệ quyền lực và chế độ xã hội (Daniels, 2006). Mặt khác, Phật giáo có thể được phân biệt như là một hệ thống đạo đức và một con đường chỉ ra điều đúng hay sai trong mục đích đời người và hoạt động thế tục (Payutto, 1994). Nó tập trung vào hạn chế tiêu thụ, hành vi hợp tác và lợi ích tập thể đằng sau các hành vi. Khía cạnh vật chất của chất lượng cuộc sống sẽ chỉ là một trong nhiều yếu tố để đánh giá cá nhân hay xã hội "tiến bộ."

Tuy nhiên, như những gì Peter Daniels (2006) lập luận, kinh doanh và kinh tế học không được định nghĩa bởi một mô hình lịch sử; chúng liên quan đến các hoạt động sinh kế và cách con người, các cộng đồng, các xã hội quản lý, phân phối và sử dụng nhân lực và tài nguyên thiên nhiên khan hiểm trong quá trình "kiếm sống của họ." Do đó, kinh tế học là sự nghiên cứu của một tập hợp con của thực tế xã hội - những hoạt động đó gắn liền với việc sinh kế. Mặc dù điều kiện sinh lý và bên ngoài sẽ đóng một vai trò, các giá trị và yếu tố tinh thần khác được buộc vào là một cơ sở quan trọng của các vấn đề kinh tế bao gồm mục đích, các lựa chọn, và những hành động (Payutto, 1994).

Nếu một tôn giáo như Phật giáo có ý nghĩa thiết thực trong tâm trí của mọi người, như tôi đã trình bày trong câu chuyện về Đức Phật ở trên, nó chắc chắn sẽ được biểu hiện rõ ràng trong thực tại xã hội, và sau đó là lĩnh vực kinh doanh và kinh tế. Người ta thường cho rằng các nguyên tắc hợp lý và phổ quát của Phật giáo, và bản chất vô thần và không giáo điều của Phật giáo tạo nên một hệ thống tâm lý học hay triết học và một hệ thống đạo đức định hình một cách sống, hơn là một tôn giáo theo nghĩa thông thường (Nelson, 2000). Mục đích thực tiễn tập trung vào hành vi nhận thức rõ và rèn luyện tâm này hàm ý rằng những nguyên tắc Phật giáo rất tương hợp với  lĩnh vực kinh doanh bởi lợi ích lớn của nó trong việc sinh kế và việc phân bổ các nguồn lực.

Phật giáo cũng được biết đến như là một tôn giáo thế giới rất linh hoạt và dễ thích ứng với một sự tác động dung hợp lên nhiều nền văn hóa địa phương mà nó đã ảnh hưởng trong quá khứ. Hơn nữa, nó đã trải qua sự phân chia nội bộ và thay đổi đáng kể, ví dụ, thành các phái Theravada và Đại thừa và nhiều phái nhỏ bên trong đó. Trải qua hai ngàn năm trăm năm lịch sử của mình Phật giáo đã thể hiện một khả năng thích ứng với nhiều tư tưởng mới, nền văn hóa và quốc gia. Đây là một trong những lý do tại sao Phật giáo, trong năm thập kỷ qua, có một sự phát triển diệu kỳ như vậy ở châu Âu và Bắc Mỹ (Field, 2007). Nó không lấy đi bất cứ thứ gì từ một nền văn hóa; nó chỉ thêm vào các giá trị - trách nhiệm cá nhân, tính toàn vẹn, hành vi đạo đức, và tâm linh.

Những nguyên tắc Phật giáo chính yếu quan tâm đến làm cho mọi người hạnh phúc với thân phận của mình trong cuộc sống  thay vì cố gắng để thay đổi điều kiện vật chất của một cá nhân hoặc cải thiện tình hình của thế giới. Trong thực tế, nhiều học giả đã tin các giá trị Phật giáo Theravada (Thái Lan, Campuchia, Lào, và Myanmar) hạn chế tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, tăng trưởng kinh tế mạnh tổng thể của Thái Lan trong 40 năm qua ủng hộ quan điểm rằng việc thiếu phát triển kinh tế ở Cambodia, Lào, Miến Điện cần phải thực hiện nhiều chính sách quốc tế và nội địa hơn là các giá trị tôn giáo của người dân.

4. Đức Phật và Phật pháp

Phần này nhằm thảo luận và vạch ra một số lời dạy quan trọng của Đức Phật có liên quan đến hoạt động kinh doanh. Việc thảo luận này sẽ rút ra những hạn chế của đạo đức kinh doanh hiện tại, đưa ra một đánh giá cụ thể hơn về sự tương đồng giữa các giá trị Phật giáo và đạo đức kinh doanh trong các phần tiếp theo.

4.1 Hai ý nghĩa của Pháp

Lời dạy của Đức Phật chỉ cho Pháp (Dhamma), hay sự thật. Trong Phật giáo thuật ngữ Pháp được sử dụng để truyền đạt những cấp độ khác nhau của chân lý, cả chân lý tương đối (cariyadhamma) và chân lý tối hậu (sabhavadhamma). Những sự thật liên quan đến hành vi đạo đức - các hành động hàng ngày và trong xã hội - đều là chân lý tương đối. Đây là những sự thật liên quan đến các vấn đề tốt và xấu. Pháp ở trong ý nghĩa lớn hơn của nó là chân lý tối hậu, hay thực tại: nó bao gồm tất cả vạn vật như chúng là và định luật mà nhờ đó chúng thực hiện chức năng. Trong ý nghĩa này, Pháp được sử dụng để mô tả toàn bộ chuỗi các nguyên nhân và điều kiện, tiến trình mà theo đó vạn vật tồn tại và vận hành (Payutto, 1994).                                              

Không giống như phạm vi hẹp hơn của chân lý tương đối, đề cập tới sự suy xét đạo đức riêng biệt, chân lý tối hậu hướng đến bản chất hay thực tại của chính sự vật, đó là vượt ra ngoài mối quan tâm của tốt và xấu. Trong ý nghĩa bao gồm tất cả này, Pháp thể hiện toàn bộ các điều kiện tự nhiên, điều mà các nghành khoa học khác nhau tìm cách miêu tả. Như vậy, giáo pháp của Đức Phật cho chúng ta nhiều điều hơn chứ không chỉ các nguyên tắc chỉ đạo cho một đời sống đạo đức. Lời dạy của Ngài đưa ra một cái nhìn sâu sắc vào bản chất của thực tại.

4.2 Bát Chánh đạo và con đường Trung đạo

Trọng tâm giáo pháp của Đức Phật nằm ở nơi Tứ diệu đế (Cattari Ariyasaccani) mà Ngài trình bày trong bài pháp đầu tiên cho năm vị đệ tử của mình. Tứ diệu đế là: 1) Sự tồn tại của khổ (dukkha), 2) Nguyên nhân hay nguồn gốc của khổ (samudaya), 3) Có một sự kết thúc khổ đau (nirodha), và 4) Có một con đường (magga) thoát khổ đó là Bát Chánh đạo.

Sự thật Tứ diệu đế là con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau. Trong Phật giáo, điều này cũng còn được gọi là Trung đạo (Majjhima Patipada), bởi vì nó tránh hai thái cực: một thái cực là tìm kiếm hạnh phúc qua những thú vui của các giác quan, những điều "thấp kém, tầm thường, không có lợi ích và cách thức của người thế tục"; thái cực còn lại là tìm kiếm hạnh phúc thông qua việc tự hành xác trong các hình thức khổ hạnh khác nhau, đường lối này thì "đau khổ, không xứng đáng và không có lợi ích". Chính Đức Phật sau khi đã trải qua hai thái cực này (đầu đời của mình là một hoàng tử và thực hành khổ hạnh trong những ngày tu tập đầu tiên của Ngài), và hiểu ra chúng là vô ích, Đức Phật đã khám phá ngang qua kinh nghiệm cá nhân con đường Trung đạo mà nó "đem lại sự thấy biết đưa đến đến điềm tĩnh, sáng suốt, giác ngộ, Niết-bàn “"(Walpola, 1978).

Con đường Trung đạo thường được nhắc đến như là Bát Chánh đạo (Ariya-Atthanika-Magga), bởi vì nó bao gồm tám phạm trù, đó là: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh niệm, Chánh tinh tấn, và Chánh định.

Không nên nghĩ rằng tám phạm trù hay những sự phân chia đạo lộ này phải nên được đi theo và thực hành theo thứ tự, mà chúng nhiều hoặc ít phải được phát triển đồng thời. Chúng được liên kết với nhau và mỗi chi phần giúp tu bồi cho các chi phần khác (Walpola, 1978).

Như thể hiện trong bảng trên, tám nguyên tắc hướng dẫn này nhằm mục đích thúc đẩy và hoàn thiện ba yếu tố then chốt của việc rèn luyện và thực hành Phật pháp, đó là: 1) Giới (sila), 2) Định (Samadhi), và 3) Tuệ (Panna). Việc rèn luyện phẩm hạnh đạo đức, trong đó bao gồm Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng, là một sự thể hiện trách nhiệm xã hội của mỗi cá nhân. Nó được xây dựng trên khái niệm rộng lớn về tình yêu phổ quát và lòng từ bi dành cho tất cả chúng sinh, mà trên đó giáo pháp của Đức Phật đặt cơ sở.

Việc rèn luyện kỷ luật tâm thức, mà nó gồm có Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định, bao gồm việc phát triển những phẩm chất tâm và là trách nhiệm đối với sự đứng đắn, kiên quyết và sự tiến bộ vững chắc trong việc hành xử con đường đạo đức. Việc rèn luyện trí tuệ, mà nó gồm có Chánh kiến và Chánh tư duy, đặc biệt bao gồm một cái nhìn thấy rõ thế giới dựa trên tuệ quán sâu sắc về sự vô thường, đối lập, và bản chất vỗ ngã của sự vật, tính duyên khởi của mọi hiện tượng - tất cả những thay đổi đều có nguyên nhân và điều kiện. Đạo đức Phật giáo là bắt nguồn từ sự hiểu biết và nỗ lực được đặc trên sự hiểu biết - trí tuệ này, những điều đóng vai trò then chốt (Rajavaramuni, 1992).

4.3 Duyên khởi

Ngay sau đó, Đại đức Na Tiên nói với vua Milinda ... "Chẳng hay ngài đi bộ đến đây, hay đi bằng xe?"

"Thưa Đại đức, tôi không đi bộ đến đây mà đi bằng xe ngựa."

"Nếu ngài đã đi bằng xe ngựa, vậy thì xin vui lòng giải thích cho tôi cái gì là một chiếc xe ngựa. Có phải cái gọng là xe ngựa?"

"Không, thưa Đại đức!"

"Vậy thì nó là bánh xe, hay khung xe, cờ hiệu, ách, hay dây cương, hay roi đánh?"

"Không, thưa Đại đức!"

... "Như vậy, như tôi đã hỏi, tôi hoàn toàn không thể tìm ra chiếc xe ngựa. Chiếc 'xe ngựa' này chỉ là một danh xưng.

Nhưng chiếc xe ngựa thực sự là gì? Bệ hạ đã nói dối, đã nói một lời dối trá! Thực sự là không có xe ngựa! ... "

Nhưng vua Milinda đã nói với Na Tiên: "Thưa Đại đức Na Tiên, trẫm đã không nói dối. Do có sự phụ thuộc vào gọng xe, trục xe, bánh xe, khung, cờ hiệu v.v…, ở đó có sự đặt tên 'xe ngựa’, sự định danh này, từ ngữ khái niệm này, là một danh xưng tạm thời và chỉ là một tên gọi. "

"Bệ hạ đã nói rất hay về xe ngựa." (Trích từ Những câu hỏi của vua Milinda/ The Questions of King Milinda).

Văn bản Phật giáo cổ này minh họa sự phụ thuộc lẫn nhau, sự liên hệ, bản chất không có thực của những điều chúng ta thường coi là sự vật đối tượng. Một chiếc xe ngựa không phải là thực thể rắn chắc, cơ học mà chúng ta nhận biết bằng giác quan, nó cũng không được đồng nhất với trục hay bánh của nó.

Thuật ngữ "Duyên khởi" (paticca-samuppada) được Đức Phật sử dụng trước hết để mô tả sự thấy biết về bản chất tồn tại của con người. Về cơ bản là một học thuyết nhân quả, khái niệm này quá trọng tâm đối với tư tưởng Phật giáo đến độ một sự hiểu biết đúng đắn về duyên khởi thường được công nhận tương đương với chính sự giác ngộ (Encyclopedia of Religion, 2005). Học thuyết này được xem như một luật phổ quát; rằng tất cả các hiện tượng, tâm lý hoặc thể chất, phụ thuộc vào các điều kiện để xuất hiện và rằng không có thứ gì xảy ra một cách độc lập, biệt lập hay ngẫu nhiên:

Tất cả các hiện tượng trong vũ trụ, tuy dường như không thay đổi, thì... chỉ đơn thuần là các sự kiện và học thuyết duyên khởi cho rằng những sự kiện phát sinh như là một kết quả của sự hội tụ và phát sanh của nhiều điều kiện; rằng sự nối tiếp của các sự kiện được quy định bởi các điều kiện đó mà từ đó nó phát sinh, hay nói một cách khác, hội tụ tại thời điểm nó xảy ra. (The Encyclopedia of Buddhism).

Ví dụ, để một cái cây mọc lên, các điều kiện đất, nước phải hội tụ, thậm chí nhiều điều kiện khác như hạt giống phải tươi và không bị hỏng, phải được xử lý trước; nếu không, hạt giống có thể sẽ trở thành một cái hạt khô và biến thành mùn đất (Samyutta Nikaya III 54). Như một quy luật phổ quát, thuyết nhân duyên được giữ vững vì nó thích hợp với tất cả các hiện tượng, vật chất và tinh thần, cá nhân và xã hội, lịch sử và thuyết mạt thế.

5. Phật giáo là một phần của giải pháp

Khám phá những giới hạn của đạo đức kinh doanh ở phần đầu tiên, một sự thảo luận ngắn gọn về lý do tại sao tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo có thể đóng góp vào nghiên ở phần thứ hai, và phần thứ ba về lời dạy của Đức Phật, chúng ta nên tiến hành ngay bây giờ việc ứng dụng những lời dạy này trong lĩnh vực kinh doanh.

5.1 Nhấn mạnh vào trách nhiệm cá nhân

Tôi muốn bắt đầu việc thảo luận của mình với những câu chuyện như sau: Jean-Paul Sartre một lần đối diện với một học sinh rắc rối trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Học sinh này hỏi Sartre là nên để lại người mẹ dễ bị tổn thương của mình và tham gia Lực lượng giải phóng Pháp hay ở lại với mẹ mình và nhờ đó cứu được cuộc sống của bà. Câu trả lời của Sartre là: "Em tự do, vì thế em có quyền lựa chọn sáng tạo. Không có luật lệ đạo đức chung nào có thể chỉ ra cho em những gì em nên làm.". Cậu học trò không hài lòng với câu trả lời của nhà triết học và hỏi cậu của cậu ta, một sĩ quan quân đội, cùng một câu hỏi để có được một ý kiến thứ hai. Ông cậu trả lời: "Là một sĩ quan quân đội, cậu sẽ khuyên cháu thực hiện nhiệm vụ đối với quốc gia của mình, để lại mẹ và gia nhập quân đội. Tuy nhiên, là người cậu của cháu, cậu muốn cháu ở nhà và chăm sóc mẹ cháu, là em gái của cậu" (Ims, 2006).

Trong truờng hợp trên, rõ ràng rằng Sarttre để lại hoàn toàn trách nhiệm cho cậu học sinh, yêu cầu cậu ta nhận lấy trách nhiệm bản thân. Không phải là vai trò của Sartre nhận lấy những gánh nặng đạo đức từ bất kỳ ai. Mặt khác, người cậu của cậu học sinh rõ ràng bị mắc kẹt bên trong hai vai trò đối nghịch nhau (vừa là một sĩ quan quân đội vừa là anh trai của mẹ cậu học sinh). Theo Applbaum (1999), thuật ngữ vai trò có thể được sử dụng để mô tả "các vị trí công việc với một vài mức độ mang tính quy tắc và vững bền, và ở đó có những mong đợi của tập thể, tuy nhiên không chính thức hoặc không được thừa nhận, về sự đóng góp của vị trí, nhiệm vụ, giá trị và đức hạnh”. Ghi nhớ điều này, một giám đốc hoặc quản lý có một vai trò, nhưng khách hàng độc đoán hơn thì không.

Một số niềm tin không bị trói buộc với một vai trò cụ thể, và viện dẫn vai trò của bản thân không bao giờ là một cơ sở đúng đắn cho nắm giữ niềm tin. Ví dụ, tuyên bố: "Kể từ khi tôi là một nhà lãnh đạo trong một tổ chức kinh doanh, mục tiêu chính của tôi là để tối đa hóa lợi nhuận của tổ chức," không phải là một chuỗi lý luận hợp lý. Là một nhà lãnh đạo, anh ta có một trách nhiệm cá nhân để đạt được mục tiêu của tổ chức, miễn là không gây hại đến thiên nhiên, cộng đồng, những người đang sống hoặc thế hệ tương lai trong quá trình này. Tuy nhiên, là một nhà lãnh đạo kinh doanh không phải một vị trí hợp lệ trong việc giảm thiểu mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty  (Ims, 2006). Tham khảo các trích dẫn trên, chúng ta có thể nói rằng mọi người đều tự do và có thể thực hiện tốt những vai trò khác nhau của mình; ẩn sau vai trò của mình và giả vờ rằng chúng ta không có tự do là đánh lừa bản thân mình cũng như những người khác.

Bây giờ chúng ta trở lại câu hỏi then chốt: Vai trò trong công việc (đặc biệt là các giám đốc điều hành và nhà quản lý hàng đầu) có tạo nên sự miễn trách nhiệm cá nhân? Hoặc là trách nhiệm cá nhân là một vấn đề luôn liên hệ với danh tính của người đó và biểu hiện đạo đức của chính họ, như vậy mang đến nét độc đáo và riêng biệt cho mỗi hành động được thực hiện bởi những người đại diện công ty với vai trò của họ trong công việc?

Roszak (1981) cho rằng trách nhiệm cá nhân là "Nét đặc biệt cốt yếu mà nó tách biệt sự làm công đơn thuần với nghề nghiệp đích thực." Nghề nghiệp, như được "gọi", đề cập đến việc "lao động tốt và có đạo đức chân chính". Roszak nhấn mạnh vấn đề trách nhiệm cá nhân đối với người khác, và với các vấn đề sinh thái. Theo đó mỗi người nên tự hỏi: Công việc có lương thiện và hữu ích không? Nó có phải là một sự đóng góp thực sự cho nhu cầu của con người? Như những gì Ims (2006) trình bày, "Các giá trị cá nhân làm cơ sở cho các giá trị mà chúng ta ‘tán thành và tuân thủ’ ở trong cuộc sống nghề nghiệp của chúng ta. Những giá trị tổ chức ít vững bền hơn so với các giá trị “sâu sắc và gắn liên với đời sống” của từng cá nhân."

5.2 Bát Chánh đạo như là một nguyện tắc bổ sung

Các nguyên tắc hướng dẫn của Bát Chánh đạo không chỉ dành cho một công ty hay tập đoàn cụ thể. Trong thực tế, những nguyên tắc này không bắt đầu từ tổ chức, mà chúng bắt đầu từ bạn và tôi - những người trong công ty. Để áp dụng tốt hơn và áp dụng những nguyên tắc này vào công ty, tôi sẽ sử dụng mô hình của Tetsunori Koizumi (2010) trong việc chia Bát Chánh đạo thành các tập hợp, mỗi tập hợp bao gồm bốn phạm trù như chúng ta có thể thấy bên dưới:

Là một nhóm, bốn yếu tố trong tập hợp đầu tiên tất cả đề cập đến vấn đề tinh thần. Chúng có thể được hiểu là tương ứng với bốn hình thái hoạt động của tâm ý: sự hiểu biết, tư duy, ước muốn và chánh niệm. Bốn yếu tố này thuộc một nhóm do đó được diễn giải nhằm nói lên tầm quan trọng của việc duy trì cõi tâm đúng đắn. Mặt khác, bốn yếu tố trong tập hợp thứ hai tất cả đề cập đến các hoạt động của thân như nói năng, hành động, sự cố gắng, và kiếm sống (sinh kế của một người) - và do đó có thể được diễn giải để nói lên tầm quan trọng của việc quan sát qua việc sử dụng đúng đắn thân thể (Koizumi, 2010). Bát Chánh đạo, như một hướng dẫn thực tế kiểm soát cuộc sống của một người, trong trường hợp của chúng ta, là dành cho giám đốc điều hành, những nhà quản lý hàng đầu và người làm công, như vậy chú ý đến tầm quan trọng trong việc giữ cân bằng thích hợp giữa tâm trí và cơ thể, giữa các hoạt động tinh thần và thể chất.

5.3 Trung đạo như một trạng thái cân bằng toàn diện

Ý tưởng trọng tâm phía sau con đường Trung đạo, như những gì chúng ta đã thảo luận ở trên, là ý tưởng về sự cân bằng giữa hai thái cực khổ hạnh và hưởng dục. Đức Phật chính yếu nói về tầm quan trọng của việc duy trì sự cân bằng cho người tìm kiếm sự giác ngộ. Nhưng sự tồn tại của mỗi cá nhân là một hệ thống (vai trò của mỗi người trong kinh doanh - giám đốc điều hành, quản lý hàng đầu, hay nhân công) tồn tại trong không gian tổng hợp nếu tất cả hệ thống được gọi là vũ trụ (môi trường kinh doanh). Như vậy chúng ta có thể giải thích Trung đạo như một trạng thái cân bằng cho các vai trò công việc của từng người như một hệ thống mở trong môi trường kinh doanh. Trạng thái cân bằng đó, ở cấp độ vi mô, áp dụng vào những vai trò kinh doanh, cũng như ở cấp độ vĩ mô là áp dụng vào môi trường kinh doanh.

Ở cấp độ vi mô, Trung đạo có thể được hiểu như là một trạng thái "cân bằng toàn diện" trong vai trò công việc của từng cá nhân như một hệ thống phức hợp của các hoạt động tinh thần và thể chất. Điều này phù hợp với các nguyên tắc hướng dẫn của Bát Chánh đạo mà chúng ta đã thảo luận ở trên. Điều quan trọng ở đây là, để theo đuổi trách nhiệm cá nhân, cả tâm và thân, cả khía cạnh tinh thần và thể chất của sự tồn tại của chúng ta, phải được duy trì trong trạng thái cân bằng toàn diện. Ở cấp độ vĩ mô, Trung đạo có thể được hiểu như là một trạng thái cân bằng giữa vai trò cá nhân trong công việc và môi trường kinh doanh, hay cụ thể hơn, đó là công ty. Sự giải thích này được đề xuất theo thế giới quan của Đức Phật, đó là tính hệ thống và sự tiến triển. Môi trường kinh doanh (môi trường làm việc, đồng nghiệp, và các nhà lãnh đạo) ảnh hưởng đến vai trò cá nhân bằng nhiều cách. Đổi lại, vai trò cá nhân ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh thông qua tinh thần trách nhiệm, sự tham gia sản xuất, thái độ làm việc v.v… Nơi cái nhìn ảnh hưởng hỗ tương như vậy giữa các vai trò của từng cá nhân trong công việc và môi trường kinh doanh, rõ ràng rằng Bát Chánh đạo và Trung đạo, con đường duy trì sức khỏe của cá nhân, cũng là con đường duy trì sức khỏe của công ty.

5.4 Thuyết Nhân duyên như là một trạng thái của sự hiểu biết

Bên cạnh "lòng tham", điều thường được coi là vấn đề chính của đạo đức con người, lập luận của tôi là một nguyên nhân khá rõ của việc làm sai trái trong kinh doanh là do một quan niệm sai lầm trong việc kinh doanh hoặc thiếu hiểu biết đúng đắn. Như những gì Solomon (1994) giải thích, nó đến từ việc không nhìn thấy "bức tranh lớn", một loại cận thị đạo đức, và một ý thức không đầy đủ về vai trò của bản thân và nhân phẩm của mình, điều bị che lấp bởi sự cấp bách của mục tiêu, tham vọng, và nhu cầu.

Như những gì ý tưởng của giáo lý duyên sinh cho thấy, tất cả chúng ta đều phụ thuộc lẫn nhau; chúng ta là một phần của nhau. Trong ý nghĩa đó, một người phải tư duy rằng chính mình là một thành viên của cộng đồng, và phấn đấu để xuất sắc, để mang lại những gì tốt nhất nơi chính chúng ta và doanh nghiệp chung của chúng ta. Đạo đức kinh doanh được quan niệm như vậy là sự tự nhận thức xã hội hiển nhiên, một ý nghĩa rõ ràng về mục đích, danh dự, và đạo đức trong kinh doanh. Đạo đức kinh doanh là dành cho cá nhân - mặc dù không mang ý nghĩa cá nhân hay chủ quan – hơn là giải pháp chính sách đối với đạo đức kinh doanh (Solomon, 1994).

6. Kết luận

Như đã trình bày trong suốt bài viết này, giải pháp Phật giáo đối với với đạo đức kinh doanh đã nhấn mạnh sự cần thiết đối với việc chuyển hóa cá nhân như một phần của tiến trình chuyển hóa tập thể. Nếu 2 mặt này là trung tâm của “sự đau khổ” trong kinh doanh của chúng ta, dễ hiểu tại sao ta phải thực hiện trên cả 2 cấp độ. Những gì bài viết này đề xuất không phải để lật đổ mô hình đạo đức kinh doanh hiện nay của chúng ta, mà bày tỏ những cách thức mà ở đó các nguyên tắc và giáo lý Phật giáo có thể cải thiện một số những thiếu sót của các mô hình hiện tại.

Bởi vì tác động của kinh doanh ngay nay là toàn cầu, trách nhiệm của nó cũng phải mang tính toàn cầu. Những hoạt động kinh doanh ảnh hưởng đáng kể đến số phận và sự sống còn của các hệ sinh thái tự nhiên cũng như điều kiện sống của các thế hệ hiện tại và tương lai. Để trở thành một công ty với đầy đủ đạo đức, như những gì Laszlo Zsolnai (2006) thể hiện, doanh nghiệp phải được tiến hành theo các cách bền vững, xã hội tiến bộ và các phương cách phát triển cho tương lai. Thực hiện đạo đức kinh doanh không phải là một sự xa xỉ; nó là yêu cầu đối với các doanh nghiệp hiện đại để tồn tại trong một thế giới có quy mô hủy hoại sinh thái lớn và sự tan rã xã hội (Zsolnai, 2006).

Bài viết này không cố gắng để giảm bớt các hoạt động kinh doanh cho nhân loại, hay cụ thể là các tôn giáo. Nó chỉ đơn thuần lập luận rằng việc áp dụng đạo đức với môi trường kinh doanh phải đối mặt với những gì liên quan đến con người mà đã và đang tiềm ẩn trong cuộc sống doanh nghiệp. Cuối cùng, những gì được lập luận ở đây tương tự như quan điểm của triết gia John Stuart Mill, người đã nhận xét rằng "con người vẫn là con người trước khi họ trở thành luật sư, bác sĩ, thương gia, hoặc nhà sản xuất, và nếu ta khiến họ trở thành người có năng lực và nhạy bén, chính họ sẽ là các luật sư, bác sĩ, hoặc các thương gia có năng lực và nhạy bén".

* Wan Kah Ong: University of the West, California, USA; Peng Chan: California State University, Fullerton, California, USA.

Nguồn: freepatentsonline.com

Tài liệu tham khảo:

Applbaum, A.I. (1999). Ethics for Adversaries: The morality of roles in public and professional life. Princeton, New Jersey: Princeton University Press.

Buchholz, Rogene. (1991). Corporate responsibility and the good society: From Economics to Ecology. Business Horizons, July/August, 24.

Carr, Alfred. (1968). Is business bluffing ethical? Harvard Business Review 46, January/February, 143-53.

Daniels, Peter. (2006). Reducing society's metabolism. In Laszlo Zsolnai & Knut J. Ims (Eds.) Business within limits: Deep ecology and Buddhist economics. Switzerland: Peter Lang. Encyclopedia of Buddhism. 2n ed. (1996). Sri Lanka: The State Printing Corporation.

Field, Lloyd. (2007). Business and the Buddha: Doing well by doing good. Boston, MA: Wisdom Publications.

Fort, Timothy L. (2008). Prophets, profits, and peace: The positive role of business in promoting religious tolerance. New Haven: Yale University Press.

Friedman, Milton. (1962). Capitalism and freedom. Chicago: University of Chicago Press.

Ghillyer, Andrew W. (2010). Business ethics: A real world approach. Boston: McGraw Hill Higher Education.

Hipsher, Scott A. (2010). Business practices in Southeast Asia: An interdisciplinary analysis of Theravada Buddhist countries. London: Routledge.

Ims, Knut J. (2006). Take it personally. In Laszlo Zsolnai & Knut J. Ims (Eds.) Business within limits: Deep ecology and Buddhist economics. Switzerland: Peter Lang.

Jones, Lindsay, Eliade, Mircea, & Adams Charles J. (2005). Encyclopedia of religion. Detroit: Macmillan Reference USA.

Jones, Richard. (1994). Concerning secularists' proposed restrictions of the role of religion in American politics. Hawaii: Brigham Young University.

Koizumi, Tetsunori. (2010). The Noble Eightfold Path as a prescription for sustainable living. In Richard K.

Payne (Ed.) How much is enough: Buddhism, consumerism, and the human environment. Boston: Wisdom Publication.

Loy, David R. (2003). The great awakening: A Buddhist social theory. Boston: Wisdom Publication.

Nelson, Darren. (2000). Why is Buddhism the fastest growing religion in Australia? BuddhaZine [online], Retrieved November 6, 2011, from http://www.buddhanet.net/wh ybudoz.htm

Payutto, P.A. (1994). Buddhist economics: A middle way for the market place. Bangkok, Thailand: Buddhadhamma Foundation.

Rajavaramuni, Phra. (1992). Foundations of Buddhist social ethics. In Charles S. Prebish (Ed.) Buddhist ethics: A cross-cultural approach. Iowa: Kendall/Hunt Publishing.

Roszak, T. (1981). Person/planet: The creative disintegration of industrial society. London: Granada.

Solomon, Robert S. (1994). Business and the humanities: An Aristotelian approach to business ethics. In Thomas Donaldson & R. Edward Freeman (Eds.), Business as a humanity (pp. 45-75). New York: Oxford University Press.

The Questions of King Mi/inda [online], Retrieved October 25, 2011, from http://www.budsas.org/ebud/ebsut045.htm

Walpola, Rahula (1978). What the Buddha taught. London: G. Fraser.

Weiss, J. W. (1994). Business ethics: A managerial, stakeholder approach. Belmont, Calif: Wadsworth Pub. Co.

Zsolnai, Laszlo (2006). Ethical business. In Laszlo Zsolnai & Knut J. Ims (Eds.) Business within limits: Deep ecology and Buddhist economics. Switzerland: Peter Lang.


Phật giáo và đạo đức kinh doanh

Wan Kah Ong & Peng Chan*


1.Giới thiệu

Mục đích của bài viết này xác định những đặc điểm chung của các hệ thống kinh doanh hiện nay mà chúng tương hợp với giá trị Phật giáo. Đồng thời, áp dụng các nguyên tắc và lời dạy của Đức Phật, bài viết này tìm cách hòa giải những xung đột không có thật tồn tại giữa hai hệ thống này. Bài viết bắt đầu bằng cách xem xét một số hạn chế và thách thức đe dọa việc thực hành đạo đức trong môi trường kinh doanh. Tiếp theo, bài viết sẽ thảo luận về một số nhận thức sai lầm thông thường mà mọi người đang có về Phật giáo và giáo lý Phật giáo, với một cái nhìn tổng quan về các quan điểm trọng yếu của đạo đức Phật giáo. Tiếp theo là đánh giá tính thích hợp, bản chất và những hàm ý của Phật giáo, về việc bổ sung sự ứng dụng đạo đức kinh doanh vào môi trường hiện nay.

2. Xem xét tài liệu

2.1 Những giới hạn của đạo đức kinh doanh

Có một số câu hỏi then chốt mà chúng ta nên hỏi trước khi nghiên cứu lĩnh vực đạo đức kinh doanh: "Các công ty liệu có là các tổ chức lý trí và phi cảm tính? Liệu một công ty có lương tâm? Một công ty có chịu trách nhiệm về đạo đức với xã hội? Nếu có, thì ở mức độ nào?”

Những câu hỏi này là một phần trong một cuộc tranh luận đang diễn ra mà nó xoay quanh những vấn đề sau đây: 1) Nếu một công ty không có lương tâm và chủ yếu là một tổ chức vì lợi nhuận phi cảm tính, thì những trách nhiệm gì một công ty phải có với các bên liên quan, chẳng hạn như người tiêu dùng, nhân viên, chính quyền, và xã hội? Luật lệ nào, và ai, nên chi phối và kiểm soát hoạt động của công ty, những hoạt động có dính líu về mặt đạo đức với các bên liên quan của công ty, nếu công ty không thể hoặc sẽ không làm như vậy? 2) Nếu một công ty có nhiều hơn một thành viên liên quan đến hoạt động tạo lợi nhuận, điều gì là nền tảng và cơ sở về trách nhiệm đạo đức của nó? Từ đó liệu công ty có chịu trách nhiệm nào ngoài các nghĩa vụ kinh tế của mình? Công ty nên đáp ứng trách nhiệm đạo đức và xã hội của mình với bên liên quan với nó như thế nào? (Weiss, 1994).

Bài viết này bắt đầu bằng việc thảo luận và đánh giá hai quan điểm khác nhau về bản chất của các công ty (tập đoàn) và trách nhiệm xã hội của họ như đã đề cập ở trên: 1) Quan điểm đầu tiên về bản chất không có lương tâm và là một tổ chức phi cảm tính – một thành viên liên quan chỉ cam kết với các cổ đông và chủ sở hữu của nó; 2) quan điểm thứ hai xem xét các tập đoàn như một tổ chức liên đới cả môi trường kinh doanh và xã hội, có nghĩa là bên cạnh nghĩa vụ kinh tế của mình cho cổ đông, công ty có lương tâm và hoạt động như một đại diện đạo đức trong mối quan hệ với các bên liên quan.

2.2 Quan điểm thứ nhất: Các tập đoàn không có lương tâm

Rất ít người không đồng ý với thực tế là hầu hết các tập đoàn kinh doanh để kiếm lợi nhuận cho chủ sở hữu và cổ đông. Một câu hỏi quan trọng là liệu công ty có thể và nên có trách nhiệm về mặt đạo đức với các bên liên quan ngoài các cổ đông của họ hay không. Quan điểm của các "tập đoàn là tổ chức phi tình cảm, vì lợi nhuận" cho rằng nghĩa vụ chính của các doanh nghiệp là tạo lợi nhuận, không phải là để hành động có trách nhiệm đạo đức. Theo quan điểm này, các cơ sở trách nhiệm đạo đức nằm bên ngoài công ty. Quan điểm này thì quan trọng trong lĩnh vực đạo đức kinh doanh, vì định nghĩa các công ty như một tổ chức phi cảm tính cho thấy rằng trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm pháp lý không thể quy cho một tổ chức (Weiss, 1994).

Adam Smith (1723-1790) là người đầu tiên đề xuất quan điểm này. Ông lập luận rằng các doanh nghiệp là các tổ chức phi luân lý không có ý thức về đạo đức (không có nghĩa là trái đạo đức) mà chúng thúc đẩy lợi ích cá nhân và lợi ích kinh tế của các chủ sở hữu, và cho rằng lợi ích riêng của từng cá nhân tạo động lực và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của xã hội và đó là do có "bàn tay vô hình" đã định hướng và thúc đẩy lợi ích chung của xã hội. Theo quan điểm này, trách nhiệm xã hội cần đến các luật lệ và sự bắt buộc thực thi luật lệ, nhưng điều này là trách nhiệm của nhà nước, không phải của doanh nghiệp. Những người gần đây ủng hộ quan điểm này bao gồm nhà kinh tế học Milton Friedman, người đã mạnh mẽ cho rằng doanh nghiệp không có trách nhiệm xã hội nào ngoài việc tối đa hóa lợi nhuận.

Quan điểm đã nhận được sự chấp nhận rộng rãi rằng các ban quản trị và các nhà lãnh đạo lao động có trách nhiệm xã hội ngoài nghĩa vụ phục vụ lợi ích của các cổ đông của họ hoặc các thành viên quản trị. Quan điểm này cho thấy một quan niệm sai lầm cơ bản về các đặc tính và bản chất của một nền kinh tế tự do. Trong một nền kinh tế như vậy, có một và chỉ có một trách nhiệm của doanh nghiệp với xã hội - là sử dụng nguồn lực của mình và tham gia vào các hoạt động phù hợp để tăng lợi nhuận của mình, miễn là nó nằm trong các quy tắc của cuộc chơi, rõ hơn là, tham gia một cuộc cạnh tranh mở và tự do, mà không có sự lừa dối, gian lận... Vài xu hướng có thể phá hủy triệt để các tổ chức trong xã hội tự do của chúng ta như việc chấp nhận của các lãnh đạo công ty về việc ưu tiên trách nhiệm xã hội hơn là tạo ra càng nhiều lợi nhuận cho các cổ đông của họ càng tốt (Friedman, 1962).

Từ trích dẫn ở trên, Friedman rõ ràng chủ trương rằng các công ty không kinh doanh để giúp đỡ xã hội, đúng hơn là, để giúp các doanh nghiệp đáp ứng trách nhiệm chính mình –  tạo ra lợi nhuận cho chủ sở hữu và cổ đông.

Tuy nhiên, có một số hạn chế liên quan đến quan điểm vẫn đang phổ biến này. Joseph Weiss (1994) trong cuốn sách “Đạo đức kinh doanh” của mình đã vạch ra những suy xét sau. Đầu tiên, quan điểm các công ty như là các tổ chức phi cảm tính không nhằm mục đích củng cố nhận thức rằng các công ty và hành động của họ thì phi luân lý. Để lập luận rằng các công ty tổ chức không có nền tảng đạo đức để chịu trách nhiệm với các hoạt động của mình là để đưa ra giả thuyết rằng những nhà quản lý có quyển tự do để sử dụng các nguồn tài nguyên lớn cho các hoạt động công ty và điều đó có thể gây hại cho người tiêu dùng. Thứ hai, góc nhìn công ty là tổ chức phi cảm tính không nhằm mục đích có thể cung cấp một sự bảo vệ dành cho các chủ sở hữu quyền lực và các nhà quản lý hàng đầu bằng sự bất lợi cho các nhân viên cấp dưới, những người có thể trở thành con dê tế thần cho các hoạt động bất hợp pháp của công ty. Thứ ba, các công ty cũng như các tổ chức kinh tế đều có nhân tính, thì tại sao các tổ chức được đăng ký hợp pháp không mang nghĩa vụ và trách nhiệm cho hạnh phúc của cộng đồng nơi họ thực hiện kinh doanh và cho công nhân viên, những người làm nên sự tồn tại của họ? Thứ tư, sự sản xuất trong nền kinh tế cạnh tranh và vì chỉ lợi nhuận không tất yếu sản xuất ra sản phẩm tốt nhất với số lượng lớn nhất.

Weiss tiếp tục lập luận rằng, không có sự hợp tác từ địa phương, tiểu bang, chính phủ liên bang và công chúng, nhiều doanh nghiệp không thể trang trải việc duy trì hoạt động công ty hoặc "chi phí bên ngoài," (các chi phí phát sinh của các doanh nghiệp nhưng được chi trả bằng xã hội, chẳng hạn như các ảnh hưởng phụ lên không khí và ô nhiễm nguồn nước). Liên quan đến sự chỉ trích này là một sự thật rằng không phải tất cả các doanh nghiệp đều có thể tồn tại hoàn toàn ở thị trường tự do, một số doanh nghiệp bị kiểm soát và được hỗ trợ bởi chính phủ, đó là, bằng tiền thuế của công chúng. Điển hình là Tập đoàn Chrysler, nếu  không có một khoản vay của chính phủ vào năm 1979, công ty có lẽ sẽ không còn tồn tại.

Quan điểm thứ hai: Những tập đoàn như những cổ đông xã hội và kinh tế

Quan điểm khác, rất phổ biến ở hầu hết các tập đoàn hiện nay, cho rằng các công ty vì lợi nhuận là pháp nhân và là một tập hợp của nhiều cá nhân và nhóm. Các giám đốc điều hành và cán bộ quản lý cấp cao được thuê để tối đa hóa lợi nhuận cho chủ sở hữu và cổ đông. Tuy nhiên, để thực hiện việc này, công ty cũng phải đáp lại một loạt các lợi ích, quyền lợi và nhu cầu chính đáng của các bên liên quan (nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp, các cơ quan chính phủ). Từ quan điểm này, công ty có nghĩa vụ đáp ứng quyền lợi về kinh tế của các chủ sở hữu; tuy nhiên, để tồn tại và thành công, nó cũng phải đáp ứng yêu cầu về pháp lý, xã hội, chính trị và môi trường với một tập hợp các bên liên quan trong nội bộ cũng như bên ngoài (Weiss, 1994).

Cũng được gọi là giải pháp khế ước xã hội đối với quản lý doanh nghiệp, phương pháp này lập luận rằng vì công ty phụ thuộc vào xã hội để tồn tại và tiếp tục phát triển, có một nghĩa vụ cho công ty để đáp ứng nhu cầu của xã hội đó chứ không phải chỉ riêng nhu cầu của một nhóm khách hàng mục tiêu. Bằng cách nhận biết tất cả các bên liên quan của họ chứ không phải chỉ là cổ đông của họ, các công ty phải duy trì một tầm nhìn dài hạn hơn là chỉ đối phó với số liệu thu nhập hàng quý (Ghillyer, 2010).

Quan điểm bên liên quan của công ty đã trở thành một quan điểm hữu ích cho sự hiểu biết trách nhiệm xã hội và đạo đức của một công ty đối với các chủ thể liên quan của mình. Tuy nhiên, tương tự với quan điểm đầu tiên, quan điểm này về công ty cũng có các phê bình. Một số người cho rằng quan điểm này không có nền tảng lý thuyết vững chắc cho sự đáp ứng về mặt xã hội của công ty. Rogene Buchholz (1991) trong bài viết "Trách nhiệm doanh nghiệp và một xã hội tốt đẹp" lập luận rằng "mô hình bên liên quan là một công cụ hữu ích để phân tích và mô tả nhiều mối quan hệ khác nhau mà một công ty có để cấu thành chính nó trong xã hội, nhưng nó không có nghĩa là một cố gắng mang nặng tính lý thuyết để cung cấp một mô hình mới mà thậm chí sẽ bắt đầu thay thế các mô hình kinh tế”. Nói cách khác, không có nguồn và cơ sở cho các trách nhiệm đạo đức trong mô hình các bên liên quan. Có thể lập luận rằng quan điểm này chủ yếu dựa trên phương diện kinh tế và tập trung vào việc tối đa hóa lợi nhuận giống như quan điểm đầu tiên.

2.4 Những giới hạn khác của đạo đức kinh doanh

Nhiều tiêu điểm đã được đặt vào các chính sách của công ty và quy tắc đạo đức; điều này phổ biến hiện nay và người ta có thể cho rằng những điều này sẽ đảm bảo rằng các công ty sẽ đưa ra các quyết định có tính đạo đức khi hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, điều này có thể không phải luôn luôn đúng. Thật vậy, một số học giả cho rằng các chính sách của công ty và các quy tắc đạo đức là không đủ để cấu thành đạo đức. Robert Solomon (1994) đã lập luận rằng có thiếu sót nào đó từ các quyết định chính sách, mà trọng tâm chắc chắn gần như không đặt lên bất kỳ đối tượng nào, và đó là trách nhiệm cá nhân.

Các câu hỏi về trách nhiệm tràn ngập khắp mọi tập đoàn, và luôn luôn có nhiều ứng viên lớn để đổ lỗi, miễn là họ phải được tìm ra ở một nơi nào khác, nhưng vì có quá nhiều và tiêu điểm trách nhiệm thường là quá khó để tìm. Đây là lý do tại sao các tập đoàn hiện nay thì rất thường hay bị rung chuyển và làm suy yếu bởi việc sa thải thiếu sự cân nhắc hoặc thay thế toàn bộ bộ phận - giám đốc điều hành không biết ai để đổ lỗi, và vì vậy họ đổ lỗi và trừng phạt tất cả mọi người. Trách nhiệm được đặt lên "hệ thống" hoặc lên các chính sách hiện tại mà sau đó trở thành tâm điểm của một cuộc tranh luận dường như vô tận. Cái gì cần được loại bỏ và trở thành đặc điểm chính của đạo đức kinh doanh là sự thừa nhận rằng quyết định này là của chính mình, sự hiểu biết rằng đạo đức không chỉ là một vấn đề đối với ban điều hành, các ủy ban quản trị, và người giám sát của chính phủ mà còn cho tất cả chúng ta, trong những việc nhỏ cũng như ở trong những vở kịch lớn hơn trong đời sống hàng ngày của chúng ta (Solomon, 1994).

Ngoài ra, đại diện doanh nghiệp ngày nay thường có lập luận rằng "kinh doanh cũng giống như chơi bài và tách biệt với đạo đức của cuộc sống hàng ngày" (Carr, 1968) - bạn phải "lừa gạt" để tồn tại. Ý tưởng rất chia rẻ, khi thế giới kinh doanh hiện đại không quá dễ dàng, một cá nhân từ đời sống nghề nghiệp, tin tưởng rằng "kinh doanh là kinh doanh," sẽ là không thể hình dung được. Hầu hết mọi người trong kinh doanh hiện nay đồng hóa chính mình với chính công ty của họ. Đạo đức của họ, ít nhất là trong công việc, chắc chắn được đồng hòa với các giá trị của công ty và ngành công nghiệp, tuy nhiên một người mạnh mẽ có thể phản đối và tách biệt đạo đức cá nhân của mình với những giá trị trên (Solomon, 1994).

Sự tách biệt giữa đạo đức cá nhân với công việc, "sự tha hóa" theo Friedrich Schiller, đưa chúng ta đến đòi hỏi rằng đức hạnh trong kinh doanh độc lập với đức hạnh của những điều khác trong cuộc sống của chúng ta, và điều này phủ nhận tính riêng biệt hoặc của vai trò kinh doanh, hoặc của cuộc sống của chúng ta. Điều này do đó dựng nên một thảm kịch trong đó một nhân công bị áp lực vi phạm "giá trị cá nhân" của mình bởi vì, góc nhìn kinh doanh đơn thuần là kinh doanh, anh ta hoặc cô ta "không thực sự có bất kỳ sự lựa chọn nào."

Sau khi đã đặt ra những giới hạn của đạo đức kinh doanh, bây giờ chúng ta xem xét Phật giáo và xem những giá trị gì mà tôn giáo này có thể đóng góp cho lĩnh vực đạo đức kinh doanh.

3.Tôn giáo, Phật giáo và kinh doanh

Người ta dựa vào niềm tin tôn giáo trong việc đưa ra các quyết định có ảnh hưởng đến những người khác; khi một người có một niềm tin tôn giáo, nó đơn giản không thể định hình nên một cuộc sống mà nó loại trừ những niềm tin đó ra khỏi mọi liên quan thực tế (Fort, 2008). Niềm tin tôn giáo có khả năng trở thành yếu tố cấu thành toàn bộ khuôn khổ đạo đức toàn vẹn của một người. Đó là lý do tại sao Richard Jones đã viết:

Tôn giáo tạo ra một khuôn khổ mà nó cung cấp ý nghĩa cho toàn bộ đời sống của một người. Do đó, nó là không thực tế để hy vọng tách rời đức tin tôn giáo khỏi lĩnh vực quan điểm hoàn toàn riêng tư mà không có ảnh hưởng lên các hành động cộng đồng của họ. Tôn giáo không điều chỉnh chỉ những phạm vi giới hạn trong đời sống tôn giáo – tôn giáo không phải là hạn chế tự do hoặc đời sống riêng tư hay cá nhân. Thay vì vậy, tôn giáo bao hàm toàn diện trong ý nghĩa rằng tất cả các khía cạnh của cuộc sống của một người là liên quan ở mức độ này hay mức độ khác với khuôn khổ cơ bản này (Jones, 1994).

Tư tưởng phương Tây đầu tiên về điểm chung giữa tôn giáo và kinh tế tập trung chủ yếu vào các tác động tiêu cực của tôn giáo truyền thống vào việc cải thiện các điều kiện vật chất của cuộc sống. Trớ trêu thay, bây giờ có một ý thức tỉnh ngộ rõ ràng và hoài nghi về mô hình tăng trưởng và phát triển "phi luân lý," "khoa học” của phương Tây  (Daniels, 2006). Thật là kỳ lạ rằng trong một môi trường kinh doanh đòi hỏi trách nhiệm đạo đức của các nhà lãnh đạo kinh doanh, một nền tảng cho sự hiểu biết về các nghĩa vụ đạo đức - truyền thống tôn giáo - bị loại khỏi các cuộc đối thoại mang tính xây dựng.

3.1 Đức Phật với sự thịnh vượng và nghèo khó

Khởi đầu, giống như nhiều tôn giáo khác, ý tưởng liên kết Phật giáo với kinh doanh xuất hiện như là một nghịch lý nghiêm trọng. Sự đáp ứng các ước muốn cá nhân và lợi ích vật chất tràn ngập các mục đích và hành động của các hoạt động kinh doanh dường như trực tiếp mâu thuẫn với thế giới quan Phật giáo. Tuy nhiên, giả định này được dựa trên sự nhầm lẫn và hiểu lầm về Phật giáo đối với quan điểm về lợi ích vật chất và sự giàu có.

Theo truyền thống, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ bỏ một cuộc sống đặc ân với khoái lạc và an nhàn để đến với cuộc sống gian khổ của một người sống ở rừng, tuy nhiên quá trình tu tập khổ hạnh của Ngài đã không đem lại sự giác ngộ mà Ngài muốn tìm kiếm. Ngài tiếp đến tìm ra một "con đường Trung đạo" mà đó không chỉ đơn giản là phân chia sự khác nhau giữa hưởng thụ giác quan hay sự từ chối các cảm giác này. Nó tập trung vào việc giữ tĩnh lặng và hiểu biết tâm thức, vì chỉ tuệ quán mới có thể giải phóng chúng ta ra khỏi mối bận tâm thường ngày của chúng ta với việc cố gắng để trở nên hạnh phúc bằng cách thỏa mãn những tham muốn của mình. Mục tiêu không phải là để tiêu diệt tất cả những ham muốn mà để trải nghiệm chúng một cách không bám víu, để chúng ta không bị kiểm soát bởi chúng. Trái với định kiến về Phật giáo như là một tôn giáo từ bỏ cuộc đời, mục tiêu của Phật giáo không nhất thiết liên quan đến việc siêu việt thế giới này để đến một thế giới khác (thiên đường, cực lạc). Thay vì vậy, mục tiêu là đạt được trí tuệ mà nó nhận ra bản chất thật của thế giới này, bao gồm bản chất thật của ta, và ngang qua trí tuệ này ta được giải thoát khỏi đau khổ (dukkha).

Trong kinh điển Pali, thậm chí còn có những lời khuyên về tài chính trong một số bản kinh: làm thế nào để kiếm tiền, cách chi tiêu và tiết kiệm tiền (Vyaggapajja-sutta, Anguttara Nikaya IV 281; Sigalovada-sutta, Digha Nikaya III 180); nhiều bản kinh về thành công tài chính được thuyết giảng cho Cấp Cô Độc, vị đại thương gia và hành giả vào thời Đức Phật (Anguttara Nikaya I 261, II 45-48, 64-66, III 204, 206). Cư sĩ không bị cấm trở nên giàu có, trái lại, họ được cổ vũ tìm kiếm và tích lũy của cải một cách hợp pháp. Liên quan đến cách kiếm sống đúng đắn, cư sĩ tại gia đã được khuyên nên tránh năm loại buôn bán: nô lệ, vũ khí, thịt, rượu và các chất độc (Anguttara Nikaya III 208). Một số bản kinh có quan điểm rằng sự giàu có tích cực có thể góp phần vào sự thành công của người cư sĩ. Mặt khác, kinh Cakkavatti-Sihanada cho rằng tình trạng nghèo đói tạo ra vô luân và tội phạm như trộm cắp và giết người (Digha Nikaya III 67).

Chính ở trong các mối quan tâm này mà nó cho thấy Phật giáo không cho rằng sự giàu có là một trở ngại để thực hiện con đường tâm linh. Tuy nhiên, Phật giáo không chấp nhận một đời sống tận hiến duy nhất để có được sự giàu có. Mục tiêu cuối cùng của giác ngộ giải thoát có thể khó theo đuổi hơn nếu chúng ta thiếu thốn, tuy nhiên một đời sống chú trọng vào tiền bạc có thể không tốt. Giá trị của sự giàu có không thể so sánh với mục tiêu tối thượng là đạt được Niết-bàn, trạng thái tự do thoát khỏi đau khổ và tái sanh. Tuy nhiên, tài sản có được một cách đúng đắn theo truyền thống được coi là một biểu hiện của phước đức, và nếu sử dụng đúng cách, có thể mang tới lợi ích cho mọi người, vì sự giàu có tạo ra các cơ hội để giúp đỡ người khác và để tu tập sự không chấp thủ bằng cách phát triển sự bố thí của ta (Loy, 2003).

3.2 Tại sao là Phật giáo?

Các lĩnh vực kinh doanh, một phần của nền kinh tế và khoa học xã hội, giải quyết việc quản lý nguồn tài nguyên con người và tự nhiên để sản xuất, thông thường với mục tiêu cuối cùng là thu lợi nhuận. Thật vậy, muốn kinh tế học như là một ngành riêng biệt, nên đã sản sinh ra quan điểm rằng hành vi kinh tế có thể được tách rời riêng biệt khỏi những niềm tin, các giá trị, và hậu quả của các giá trị, niềm tin đó, hay các quan hệ quyền lực và chế độ xã hội (Daniels, 2006). Mặt khác, Phật giáo có thể được phân biệt như là một hệ thống đạo đức và một con đường chỉ ra điều đúng hay sai trong mục đích đời người và hoạt động thế tục (Payutto, 1994). Nó tập trung vào hạn chế tiêu thụ, hành vi hợp tác và lợi ích tập thể đằng sau các hành vi. Khía cạnh vật chất của chất lượng cuộc sống sẽ chỉ là một trong nhiều yếu tố để đánh giá cá nhân hay xã hội "tiến bộ."

Tuy nhiên, như những gì Peter Daniels (2006) lập luận, kinh doanh và kinh tế học không được định nghĩa bởi một mô hình lịch sử; chúng liên quan đến các hoạt động sinh kế và cách con người, các cộng đồng, các xã hội quản lý, phân phối và sử dụng nhân lực và tài nguyên thiên nhiên khan hiểm trong quá trình "kiếm sống của họ." Do đó, kinh tế học là sự nghiên cứu của một tập hợp con của thực tế xã hội - những hoạt động đó gắn liền với việc sinh kế. Mặc dù điều kiện sinh lý và bên ngoài sẽ đóng một vai trò, các giá trị và yếu tố tinh thần khác được buộc vào là một cơ sở quan trọng của các vấn đề kinh tế bao gồm mục đích, các lựa chọn, và những hành động (Payutto, 1994).

Nếu một tôn giáo như Phật giáo có ý nghĩa thiết thực trong tâm trí của mọi người, như tôi đã trình bày trong câu chuyện về Đức Phật ở trên, nó chắc chắn sẽ được biểu hiện rõ ràng trong thực tại xã hội, và sau đó là lĩnh vực kinh doanh và kinh tế. Người ta thường cho rằng các nguyên tắc hợp lý và phổ quát của Phật giáo, và bản chất vô thần và không giáo điều của Phật giáo tạo nên một hệ thống tâm lý học hay triết học và một hệ thống đạo đức định hình một cách sống, hơn là một tôn giáo theo nghĩa thông thường (Nelson, 2000). Mục đích thực tiễn tập trung vào hành vi nhận thức rõ và rèn luyện tâm này hàm ý rằng những nguyên tắc Phật giáo rất tương hợp với  lĩnh vực kinh doanh bởi lợi ích lớn của nó trong việc sinh kế và việc phân bổ các nguồn lực.

Phật giáo cũng được biết đến như là một tôn giáo thế giới rất linh hoạt và dễ thích ứng với một sự tác động dung hợp lên nhiều nền văn hóa địa phương mà nó đã ảnh hưởng trong quá khứ. Hơn nữa, nó đã trải qua sự phân chia nội bộ và thay đổi đáng kể, ví dụ, thành các phái Theravada và Đại thừa và nhiều phái nhỏ bên trong đó. Trải qua hai ngàn năm trăm năm lịch sử của mình Phật giáo đã thể hiện một khả năng thích ứng với nhiều tư tưởng mới, nền văn hóa và quốc gia. Đây là một trong những lý do tại sao Phật giáo, trong năm thập kỷ qua, có một sự phát triển diệu kỳ như vậy ở châu Âu và Bắc Mỹ (Field, 2007). Nó không lấy đi bất cứ thứ gì từ một nền văn hóa; nó chỉ thêm vào các giá trị - trách nhiệm cá nhân, tính toàn vẹn, hành vi đạo đức, và tâm linh.

Những nguyên tắc Phật giáo chính yếu quan tâm đến làm cho mọi người hạnh phúc với thân phận của mình trong cuộc sống  thay vì cố gắng để thay đổi điều kiện vật chất của một cá nhân hoặc cải thiện tình hình của thế giới. Trong thực tế, nhiều học giả đã tin các giá trị Phật giáo Theravada (Thái Lan, Campuchia, Lào, và Myanmar) hạn chế tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, tăng trưởng kinh tế mạnh tổng thể của Thái Lan trong 40 năm qua ủng hộ quan điểm rằng việc thiếu phát triển kinh tế ở Cambodia, Lào, Miến Điện cần phải thực hiện nhiều chính sách quốc tế và nội địa hơn là các giá trị tôn giáo của người dân.

4. Đức Phật và Phật pháp

Phần này nhằm thảo luận và vạch ra một số lời dạy quan trọng của Đức Phật có liên quan đến hoạt động kinh doanh. Việc thảo luận này sẽ rút ra những hạn chế của đạo đức kinh doanh hiện tại, đưa ra một đánh giá cụ thể hơn về sự tương đồng giữa các giá trị Phật giáo và đạo đức kinh doanh trong các phần tiếp theo.

4.1 Hai ý nghĩa của Pháp

Lời dạy của Đức Phật chỉ cho Pháp (Dhamma), hay sự thật. Trong Phật giáo thuật ngữ Pháp được sử dụng để truyền đạt những cấp độ khác nhau của chân lý, cả chân lý tương đối (cariyadhamma) và chân lý tối hậu (sabhavadhamma). Những sự thật liên quan đến hành vi đạo đức - các hành động hàng ngày và trong xã hội - đều là chân lý tương đối. Đây là những sự thật liên quan đến các vấn đề tốt và xấu. Pháp ở trong ý nghĩa lớn hơn của nó là chân lý tối hậu, hay thực tại: nó bao gồm tất cả vạn vật như chúng là và định luật mà nhờ đó chúng thực hiện chức năng. Trong ý nghĩa này, Pháp được sử dụng để mô tả toàn bộ chuỗi các nguyên nhân và điều kiện, tiến trình mà theo đó vạn vật tồn tại và vận hành (Payutto, 1994).                                              

Không giống như phạm vi hẹp hơn của chân lý tương đối, đề cập tới sự suy xét đạo đức riêng biệt, chân lý tối hậu hướng đến bản chất hay thực tại của chính sự vật, đó là vượt ra ngoài mối quan tâm của tốt và xấu. Trong ý nghĩa bao gồm tất cả này, Pháp thể hiện toàn bộ các điều kiện tự nhiên, điều mà các nghành khoa học khác nhau tìm cách miêu tả. Như vậy, giáo pháp của Đức Phật cho chúng ta nhiều điều hơn chứ không chỉ các nguyên tắc chỉ đạo cho một đời sống đạo đức. Lời dạy của Ngài đưa ra một cái nhìn sâu sắc vào bản chất của thực tại.

4.2 Bát Chánh đạo và con đường Trung đạo

Trọng tâm giáo pháp của Đức Phật nằm ở nơi Tứ diệu đế (Cattari Ariyasaccani) mà Ngài trình bày trong bài pháp đầu tiên cho năm vị đệ tử của mình. Tứ diệu đế là: 1) Sự tồn tại của khổ (dukkha), 2) Nguyên nhân hay nguồn gốc của khổ (samudaya), 3) Có một sự kết thúc khổ đau (nirodha), và 4) Có một con đường (magga) thoát khổ đó là Bát Chánh đạo.

Sự thật Tứ diệu đế là con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau. Trong Phật giáo, điều này cũng còn được gọi là Trung đạo (Majjhima Patipada), bởi vì nó tránh hai thái cực: một thái cực là tìm kiếm hạnh phúc qua những thú vui của các giác quan, những điều "thấp kém, tầm thường, không có lợi ích và cách thức của người thế tục"; thái cực còn lại là tìm kiếm hạnh phúc thông qua việc tự hành xác trong các hình thức khổ hạnh khác nhau, đường lối này thì "đau khổ, không xứng đáng và không có lợi ích". Chính Đức Phật sau khi đã trải qua hai thái cực này (đầu đời của mình là một hoàng tử và thực hành khổ hạnh trong những ngày tu tập đầu tiên của Ngài), và hiểu ra chúng là vô ích, Đức Phật đã khám phá ngang qua kinh nghiệm cá nhân con đường Trung đạo mà nó "đem lại sự thấy biết đưa đến đến điềm tĩnh, sáng suốt, giác ngộ, Niết-bàn “"(Walpola, 1978).

Con đường Trung đạo thường được nhắc đến như là Bát Chánh đạo (Ariya-Atthanika-Magga), bởi vì nó bao gồm tám phạm trù, đó là: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh niệm, Chánh tinh tấn, và Chánh định.

Không nên nghĩ rằng tám phạm trù hay những sự phân chia đạo lộ này phải nên được đi theo và thực hành theo thứ tự, mà chúng nhiều hoặc ít phải được phát triển đồng thời. Chúng được liên kết với nhau và mỗi chi phần giúp tu bồi cho các chi phần khác (Walpola, 1978).

Như thể hiện trong bảng trên, tám nguyên tắc hướng dẫn này nhằm mục đích thúc đẩy và hoàn thiện ba yếu tố then chốt của việc rèn luyện và thực hành Phật pháp, đó là: 1) Giới (sila), 2) Định (Samadhi), và 3) Tuệ (Panna). Việc rèn luyện phẩm hạnh đạo đức, trong đó bao gồm Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng, là một sự thể hiện trách nhiệm xã hội của mỗi cá nhân. Nó được xây dựng trên khái niệm rộng lớn về tình yêu phổ quát và lòng từ bi dành cho tất cả chúng sinh, mà trên đó giáo pháp của Đức Phật đặt cơ sở.

Việc rèn luyện kỷ luật tâm thức, mà nó gồm có Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định, bao gồm việc phát triển những phẩm chất tâm và là trách nhiệm đối với sự đứng đắn, kiên quyết và sự tiến bộ vững chắc trong việc hành xử con đường đạo đức. Việc rèn luyện trí tuệ, mà nó gồm có Chánh kiến và Chánh tư duy, đặc biệt bao gồm một cái nhìn thấy rõ thế giới dựa trên tuệ quán sâu sắc về sự vô thường, đối lập, và bản chất vỗ ngã của sự vật, tính duyên khởi của mọi hiện tượng - tất cả những thay đổi đều có nguyên nhân và điều kiện. Đạo đức Phật giáo là bắt nguồn từ sự hiểu biết và nỗ lực được đặc trên sự hiểu biết - trí tuệ này, những điều đóng vai trò then chốt (Rajavaramuni, 1992).

4.3 Duyên khởi

Ngay sau đó, Đại đức Na Tiên nói với vua Milinda ... "Chẳng hay ngài đi bộ đến đây, hay đi bằng xe?"

"Thưa Đại đức, tôi không đi bộ đến đây mà đi bằng xe ngựa."

"Nếu ngài đã đi bằng xe ngựa, vậy thì xin vui lòng giải thích cho tôi cái gì là một chiếc xe ngựa. Có phải cái gọng là xe ngựa?"

"Không, thưa Đại đức!"

"Vậy thì nó là bánh xe, hay khung xe, cờ hiệu, ách, hay dây cương, hay roi đánh?"

"Không, thưa Đại đức!"

... "Như vậy, như tôi đã hỏi, tôi hoàn toàn không thể tìm ra chiếc xe ngựa. Chiếc 'xe ngựa' này chỉ là một danh xưng.

Nhưng chiếc xe ngựa thực sự là gì? Bệ hạ đã nói dối, đã nói một lời dối trá! Thực sự là không có xe ngựa! ... "

Nhưng vua Milinda đã nói với Na Tiên: "Thưa Đại đức Na Tiên, trẫm đã không nói dối. Do có sự phụ thuộc vào gọng xe, trục xe, bánh xe, khung, cờ hiệu v.v…, ở đó có sự đặt tên 'xe ngựa’, sự định danh này, từ ngữ khái niệm này, là một danh xưng tạm thời và chỉ là một tên gọi. "

"Bệ hạ đã nói rất hay về xe ngựa." (Trích từ Những câu hỏi của vua Milinda/ The Questions of King Milinda).

Văn bản Phật giáo cổ này minh họa sự phụ thuộc lẫn nhau, sự liên hệ, bản chất không có thực của những điều chúng ta thường coi là sự vật đối tượng. Một chiếc xe ngựa không phải là thực thể rắn chắc, cơ học mà chúng ta nhận biết bằng giác quan, nó cũng không được đồng nhất với trục hay bánh của nó.

Thuật ngữ "Duyên khởi" (paticca-samuppada) được Đức Phật sử dụng trước hết để mô tả sự thấy biết về bản chất tồn tại của con người. Về cơ bản là một học thuyết nhân quả, khái niệm này quá trọng tâm đối với tư tưởng Phật giáo đến độ một sự hiểu biết đúng đắn về duyên khởi thường được công nhận tương đương với chính sự giác ngộ (Encyclopedia of Religion, 2005). Học thuyết này được xem như một luật phổ quát; rằng tất cả các hiện tượng, tâm lý hoặc thể chất, phụ thuộc vào các điều kiện để xuất hiện và rằng không có thứ gì xảy ra một cách độc lập, biệt lập hay ngẫu nhiên:

Tất cả các hiện tượng trong vũ trụ, tuy dường như không thay đổi, thì... chỉ đơn thuần là các sự kiện và học thuyết duyên khởi cho rằng những sự kiện phát sinh như là một kết quả của sự hội tụ và phát sanh của nhiều điều kiện; rằng sự nối tiếp của các sự kiện được quy định bởi các điều kiện đó mà từ đó nó phát sinh, hay nói một cách khác, hội tụ tại thời điểm nó xảy ra. (The Encyclopedia of Buddhism).

Ví dụ, để một cái cây mọc lên, các điều kiện đất, nước phải hội tụ, thậm chí nhiều điều kiện khác như hạt giống phải tươi và không bị hỏng, phải được xử lý trước; nếu không, hạt giống có thể sẽ trở thành một cái hạt khô và biến thành mùn đất (Samyutta Nikaya III 54). Như một quy luật phổ quát, thuyết nhân duyên được giữ vững vì nó thích hợp với tất cả các hiện tượng, vật chất và tinh thần, cá nhân và xã hội, lịch sử và thuyết mạt thế.

5. Phật giáo là một phần của giải pháp

Khám phá những giới hạn của đạo đức kinh doanh ở phần đầu tiên, một sự thảo luận ngắn gọn về lý do tại sao tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo có thể đóng góp vào nghiên ở phần thứ hai, và phần thứ ba về lời dạy của Đức Phật, chúng ta nên tiến hành ngay bây giờ việc ứng dụng những lời dạy này trong lĩnh vực kinh doanh.

5.1 Nhấn mạnh vào trách nhiệm cá nhân

Tôi muốn bắt đầu việc thảo luận của mình với những câu chuyện như sau: Jean-Paul Sartre một lần đối diện với một học sinh rắc rối trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Học sinh này hỏi Sartre là nên để lại người mẹ dễ bị tổn thương của mình và tham gia Lực lượng giải phóng Pháp hay ở lại với mẹ mình và nhờ đó cứu được cuộc sống của bà. Câu trả lời của Sartre là: "Em tự do, vì thế em có quyền lựa chọn sáng tạo. Không có luật lệ đạo đức chung nào có thể chỉ ra cho em những gì em nên làm.". Cậu học trò không hài lòng với câu trả lời của nhà triết học và hỏi cậu của cậu ta, một sĩ quan quân đội, cùng một câu hỏi để có được một ý kiến thứ hai. Ông cậu trả lời: "Là một sĩ quan quân đội, cậu sẽ khuyên cháu thực hiện nhiệm vụ đối với quốc gia của mình, để lại mẹ và gia nhập quân đội. Tuy nhiên, là người cậu của cháu, cậu muốn cháu ở nhà và chăm sóc mẹ cháu, là em gái của cậu" (Ims, 2006).

Trong truờng hợp trên, rõ ràng rằng Sarttre để lại hoàn toàn trách nhiệm cho cậu học sinh, yêu cầu cậu ta nhận lấy trách nhiệm bản thân. Không phải là vai trò của Sartre nhận lấy những gánh nặng đạo đức từ bất kỳ ai. Mặt khác, người cậu của cậu học sinh rõ ràng bị mắc kẹt bên trong hai vai trò đối nghịch nhau (vừa là một sĩ quan quân đội vừa là anh trai của mẹ cậu học sinh). Theo Applbaum (1999), thuật ngữ vai trò có thể được sử dụng để mô tả "các vị trí công việc với một vài mức độ mang tính quy tắc và vững bền, và ở đó có những mong đợi của tập thể, tuy nhiên không chính thức hoặc không được thừa nhận, về sự đóng góp của vị trí, nhiệm vụ, giá trị và đức hạnh”. Ghi nhớ điều này, một giám đốc hoặc quản lý có một vai trò, nhưng khách hàng độc đoán hơn thì không.

Một số niềm tin không bị trói buộc với một vai trò cụ thể, và viện dẫn vai trò của bản thân không bao giờ là một cơ sở đúng đắn cho nắm giữ niềm tin. Ví dụ, tuyên bố: "Kể từ khi tôi là một nhà lãnh đạo trong một tổ chức kinh doanh, mục tiêu chính của tôi là để tối đa hóa lợi nhuận của tổ chức," không phải là một chuỗi lý luận hợp lý. Là một nhà lãnh đạo, anh ta có một trách nhiệm cá nhân để đạt được mục tiêu của tổ chức, miễn là không gây hại đến thiên nhiên, cộng đồng, những người đang sống hoặc thế hệ tương lai trong quá trình này. Tuy nhiên, là một nhà lãnh đạo kinh doanh không phải một vị trí hợp lệ trong việc giảm thiểu mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty  (Ims, 2006). Tham khảo các trích dẫn trên, chúng ta có thể nói rằng mọi người đều tự do và có thể thực hiện tốt những vai trò khác nhau của mình; ẩn sau vai trò của mình và giả vờ rằng chúng ta không có tự do là đánh lừa bản thân mình cũng như những người khác.

Bây giờ chúng ta trở lại câu hỏi then chốt: Vai trò trong công việc (đặc biệt là các giám đốc điều hành và nhà quản lý hàng đầu) có tạo nên sự miễn trách nhiệm cá nhân? Hoặc là trách nhiệm cá nhân là một vấn đề luôn liên hệ với danh tính của người đó và biểu hiện đạo đức của chính họ, như vậy mang đến nét độc đáo và riêng biệt cho mỗi hành động được thực hiện bởi những người đại diện công ty với vai trò của họ trong công việc?

Roszak (1981) cho rằng trách nhiệm cá nhân là "Nét đặc biệt cốt yếu mà nó tách biệt sự làm công đơn thuần với nghề nghiệp đích thực." Nghề nghiệp, như được "gọi", đề cập đến việc "lao động tốt và có đạo đức chân chính". Roszak nhấn mạnh vấn đề trách nhiệm cá nhân đối với người khác, và với các vấn đề sinh thái. Theo đó mỗi người nên tự hỏi: Công việc có lương thiện và hữu ích không? Nó có phải là một sự đóng góp thực sự cho nhu cầu của con người? Như những gì Ims (2006) trình bày, "Các giá trị cá nhân làm cơ sở cho các giá trị mà chúng ta ‘tán thành và tuân thủ’ ở trong cuộc sống nghề nghiệp của chúng ta. Những giá trị tổ chức ít vững bền hơn so với các giá trị “sâu sắc và gắn liên với đời sống” của từng cá nhân."

5.2 Bát Chánh đạo như là một nguyện tắc bổ sung

Các nguyên tắc hướng dẫn của Bát Chánh đạo không chỉ dành cho một công ty hay tập đoàn cụ thể. Trong thực tế, những nguyên tắc này không bắt đầu từ tổ chức, mà chúng bắt đầu từ bạn và tôi - những người trong công ty. Để áp dụng tốt hơn và áp dụng những nguyên tắc này vào công ty, tôi sẽ sử dụng mô hình của Tetsunori Koizumi (2010) trong việc chia Bát Chánh đạo thành các tập hợp, mỗi tập hợp bao gồm bốn phạm trù như chúng ta có thể thấy bên dưới:

Là một nhóm, bốn yếu tố trong tập hợp đầu tiên tất cả đề cập đến vấn đề tinh thần. Chúng có thể được hiểu là tương ứng với bốn hình thái hoạt động của tâm ý: sự hiểu biết, tư duy, ước muốn và chánh niệm. Bốn yếu tố này thuộc một nhóm do đó được diễn giải nhằm nói lên tầm quan trọng của việc duy trì cõi tâm đúng đắn. Mặt khác, bốn yếu tố trong tập hợp thứ hai tất cả đề cập đến các hoạt động của thân như nói năng, hành động, sự cố gắng, và kiếm sống (sinh kế của một người) - và do đó có thể được diễn giải để nói lên tầm quan trọng của việc quan sát qua việc sử dụng đúng đắn thân thể (Koizumi, 2010). Bát Chánh đạo, như một hướng dẫn thực tế kiểm soát cuộc sống của một người, trong trường hợp của chúng ta, là dành cho giám đốc điều hành, những nhà quản lý hàng đầu và người làm công, như vậy chú ý đến tầm quan trọng trong việc giữ cân bằng thích hợp giữa tâm trí và cơ thể, giữa các hoạt động tinh thần và thể chất.

5.3 Trung đạo như một trạng thái cân bằng toàn diện

Ý tưởng trọng tâm phía sau con đường Trung đạo, như những gì chúng ta đã thảo luận ở trên, là ý tưởng về sự cân bằng giữa hai thái cực khổ hạnh và hưởng dục. Đức Phật chính yếu nói về tầm quan trọng của việc duy trì sự cân bằng cho người tìm kiếm sự giác ngộ. Nhưng sự tồn tại của mỗi cá nhân là một hệ thống (vai trò của mỗi người trong kinh doanh - giám đốc điều hành, quản lý hàng đầu, hay nhân công) tồn tại trong không gian tổng hợp nếu tất cả hệ thống được gọi là vũ trụ (môi trường kinh doanh). Như vậy chúng ta có thể giải thích Trung đạo như một trạng thái cân bằng cho các vai trò công việc của từng người như một hệ thống mở trong môi trường kinh doanh. Trạng thái cân bằng đó, ở cấp độ vi mô, áp dụng vào những vai trò kinh doanh, cũng như ở cấp độ vĩ mô là áp dụng vào môi trường kinh doanh.

Ở cấp độ vi mô, Trung đạo có thể được hiểu như là một trạng thái "cân bằng toàn diện" trong vai trò công việc của từng cá nhân như một hệ thống phức hợp của các hoạt động tinh thần và thể chất. Điều này phù hợp với các nguyên tắc hướng dẫn của Bát Chánh đạo mà chúng ta đã thảo luận ở trên. Điều quan trọng ở đây là, để theo đuổi trách nhiệm cá nhân, cả tâm và thân, cả khía cạnh tinh thần và thể chất của sự tồn tại của chúng ta, phải được duy trì trong trạng thái cân bằng toàn diện. Ở cấp độ vĩ mô, Trung đạo có thể được hiểu như là một trạng thái cân bằng giữa vai trò cá nhân trong công việc và môi trường kinh doanh, hay cụ thể hơn, đó là công ty. Sự giải thích này được đề xuất theo thế giới quan của Đức Phật, đó là tính hệ thống và sự tiến triển. Môi trường kinh doanh (môi trường làm việc, đồng nghiệp, và các nhà lãnh đạo) ảnh hưởng đến vai trò cá nhân bằng nhiều cách. Đổi lại, vai trò cá nhân ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh thông qua tinh thần trách nhiệm, sự tham gia sản xuất, thái độ làm việc v.v… Nơi cái nhìn ảnh hưởng hỗ tương như vậy giữa các vai trò của từng cá nhân trong công việc và môi trường kinh doanh, rõ ràng rằng Bát Chánh đạo và Trung đạo, con đường duy trì sức khỏe của cá nhân, cũng là con đường duy trì sức khỏe của công ty.

5.4 Thuyết Nhân duyên như là một trạng thái của sự hiểu biết

Bên cạnh "lòng tham", điều thường được coi là vấn đề chính của đạo đức con người, lập luận của tôi là một nguyên nhân khá rõ của việc làm sai trái trong kinh doanh là do một quan niệm sai lầm trong việc kinh doanh hoặc thiếu hiểu biết đúng đắn. Như những gì Solomon (1994) giải thích, nó đến từ việc không nhìn thấy "bức tranh lớn", một loại cận thị đạo đức, và một ý thức không đầy đủ về vai trò của bản thân và nhân phẩm của mình, điều bị che lấp bởi sự cấp bách của mục tiêu, tham vọng, và nhu cầu.

Như những gì ý tưởng của giáo lý duyên sinh cho thấy, tất cả chúng ta đều phụ thuộc lẫn nhau; chúng ta là một phần của nhau. Trong ý nghĩa đó, một người phải tư duy rằng chính mình là một thành viên của cộng đồng, và phấn đấu để xuất sắc, để mang lại những gì tốt nhất nơi chính chúng ta và doanh nghiệp chung của chúng ta. Đạo đức kinh doanh được quan niệm như vậy là sự tự nhận thức xã hội hiển nhiên, một ý nghĩa rõ ràng về mục đích, danh dự, và đạo đức trong kinh doanh. Đạo đức kinh doanh là dành cho cá nhân - mặc dù không mang ý nghĩa cá nhân hay chủ quan – hơn là giải pháp chính sách đối với đạo đức kinh doanh (Solomon, 1994).

6. Kết luận

Như đã trình bày trong suốt bài viết này, giải pháp Phật giáo đối với với đạo đức kinh doanh đã nhấn mạnh sự cần thiết đối với việc chuyển hóa cá nhân như một phần của tiến trình chuyển hóa tập thể. Nếu 2 mặt này là trung tâm của “sự đau khổ” trong kinh doanh của chúng ta, dễ hiểu tại sao ta phải thực hiện trên cả 2 cấp độ. Những gì bài viết này đề xuất không phải để lật đổ mô hình đạo đức kinh doanh hiện nay của chúng ta, mà bày tỏ những cách thức mà ở đó các nguyên tắc và giáo lý Phật giáo có thể cải thiện một số những thiếu sót của các mô hình hiện tại.

Bởi vì tác động của kinh doanh ngay nay là toàn cầu, trách nhiệm của nó cũng phải mang tính toàn cầu. Những hoạt động kinh doanh ảnh hưởng đáng kể đến số phận và sự sống còn của các hệ sinh thái tự nhiên cũng như điều kiện sống của các thế hệ hiện tại và tương lai. Để trở thành một công ty với đầy đủ đạo đức, như những gì Laszlo Zsolnai (2006) thể hiện, doanh nghiệp phải được tiến hành theo các cách bền vững, xã hội tiến bộ và các phương cách phát triển cho tương lai. Thực hiện đạo đức kinh doanh không phải là một sự xa xỉ; nó là yêu cầu đối với các doanh nghiệp hiện đại để tồn tại trong một thế giới có quy mô hủy hoại sinh thái lớn và sự tan rã xã hội (Zsolnai, 2006).

Bài viết này không cố gắng để giảm bớt các hoạt động kinh doanh cho nhân loại, hay cụ thể là các tôn giáo. Nó chỉ đơn thuần lập luận rằng việc áp dụng đạo đức với môi trường kinh doanh phải đối mặt với những gì liên quan đến con người mà đã và đang tiềm ẩn trong cuộc sống doanh nghiệp. Cuối cùng, những gì được lập luận ở đây tương tự như quan điểm của triết gia John Stuart Mill, người đã nhận xét rằng "con người vẫn là con người trước khi họ trở thành luật sư, bác sĩ, thương gia, hoặc nhà sản xuất, và nếu ta khiến họ trở thành người có năng lực và nhạy bén, chính họ sẽ là các luật sư, bác sĩ, hoặc các thương gia có năng lực và nhạy bén".

* Wan Kah Ong: University of the West, California, USA; Peng Chan: California State University, Fullerton, California, USA.

Nguồn: freepatentsonline.com

Tài liệu tham khảo:

Applbaum, A.I. (1999). Ethics for Adversaries: The morality of roles in public and professional life. Princeton, New Jersey: Princeton University Press.

Buchholz, Rogene. (1991). Corporate responsibility and the good society: From Economics to Ecology. Business Horizons, July/August, 24.

Carr, Alfred. (1968). Is business bluffing ethical? Harvard Business Review 46, January/February, 143-53.

Daniels, Peter. (2006). Reducing society's metabolism. In Laszlo Zsolnai & Knut J. Ims (Eds.) Business within limits: Deep ecology and Buddhist economics. Switzerland: Peter Lang. Encyclopedia of Buddhism. 2n ed. (1996). Sri Lanka: The State Printing Corporation.

Field, Lloyd. (2007). Business and the Buddha: Doing well by doing good. Boston, MA: Wisdom Publications.

Fort, Timothy L. (2008). Prophets, profits, and peace: The positive role of business in promoting religious tolerance. New Haven: Yale University Press.

Friedman, Milton. (1962). Capitalism and freedom. Chicago: University of Chicago Press.

Ghillyer, Andrew W. (2010). Business ethics: A real world approach. Boston: McGraw Hill Higher Education.

Hipsher, Scott A. (2010). Business practices in Southeast Asia: An interdisciplinary analysis of Theravada Buddhist countries. London: Routledge.

Ims, Knut J. (2006). Take it personally. In Laszlo Zsolnai & Knut J. Ims (Eds.) Business within limits: Deep ecology and Buddhist economics. Switzerland: Peter Lang.

Jones, Lindsay, Eliade, Mircea, & Adams Charles J. (2005). Encyclopedia of religion. Detroit: Macmillan Reference USA.

Jones, Richard. (1994). Concerning secularists' proposed restrictions of the role of religion in American politics. Hawaii: Brigham Young University.

Koizumi, Tetsunori. (2010). The Noble Eightfold Path as a prescription for sustainable living. In Richard K.

Payne (Ed.) How much is enough: Buddhism, consumerism, and the human environment. Boston: Wisdom Publication.

Loy, David R. (2003). The great awakening: A Buddhist social theory. Boston: Wisdom Publication.

Nelson, Darren. (2000). Why is Buddhism the fastest growing religion in Australia? BuddhaZine [online], Retrieved November 6, 2011, from http://www.buddhanet.net/wh ybudoz.htm

Payutto, P.A. (1994). Buddhist economics: A middle way for the market place. Bangkok, Thailand: Buddhadhamma Foundation.

Rajavaramuni, Phra. (1992). Foundations of Buddhist social ethics. In Charles S. Prebish (Ed.) Buddhist ethics: A cross-cultural approach. Iowa: Kendall/Hunt Publishing.

Roszak, T. (1981). Person/planet: The creative disintegration of industrial society. London: Granada.

Solomon, Robert S. (1994). Business and the humanities: An Aristotelian approach to business ethics. In Thomas Donaldson & R. Edward Freeman (Eds.), Business as a humanity (pp. 45-75). New York: Oxford University Press.

The Questions of King Mi/inda [online], Retrieved October 25, 2011, from http://www.budsas.org/ebud/ebsut045.htm

Walpola, Rahula (1978). What the Buddha taught. London: G. Fraser.

Weiss, J. W. (1994). Business ethics: A managerial, stakeholder approach. Belmont, Calif: Wadsworth Pub. Co.

Zsolnai, Laszlo (2006). Ethical business. In Laszlo Zsolnai & Knut J. Ims (Eds.) Business within limits: Deep ecology and Buddhist economics. Switzerland: Peter Lang.


Phật giáo và đạo đức kinh doanh

Wan Kah Ong & Peng Chan*


1.Giới thiệu

Mục đích của bài viết này xác định những đặc điểm chung của các hệ thống kinh doanh hiện nay mà chúng tương hợp với giá trị Phật giáo. Đồng thời, áp dụng các nguyên tắc và lời dạy của Đức Phật, bài viết này tìm cách hòa giải những xung đột không có thật tồn tại giữa hai hệ thống này. Bài viết bắt đầu bằng cách xem xét một số hạn chế và thách thức đe dọa việc thực hành đạo đức trong môi trường kinh doanh. Tiếp theo, bài viết sẽ thảo luận về một số nhận thức sai lầm thông thường mà mọi người đang có về Phật giáo và giáo lý Phật giáo, với một cái nhìn tổng quan về các quan điểm trọng yếu của đạo đức Phật giáo. Tiếp theo là đánh giá tính thích hợp, bản chất và những hàm ý của Phật giáo, về việc bổ sung sự ứng dụng đạo đức kinh doanh vào môi trường hiện nay.

2. Xem xét tài liệu

2.1 Những giới hạn của đạo đức kinh doanh

Có một số câu hỏi then chốt mà chúng ta nên hỏi trước khi nghiên cứu lĩnh vực đạo đức kinh doanh: "Các công ty liệu có là các tổ chức lý trí và phi cảm tính? Liệu một công ty có lương tâm? Một công ty có chịu trách nhiệm về đạo đức với xã hội? Nếu có, thì ở mức độ nào?”

Những câu hỏi này là một phần trong một cuộc tranh luận đang diễn ra mà nó xoay quanh những vấn đề sau đây: 1) Nếu một công ty không có lương tâm và chủ yếu là một tổ chức vì lợi nhuận phi cảm tính, thì những trách nhiệm gì một công ty phải có với các bên liên quan, chẳng hạn như người tiêu dùng, nhân viên, chính quyền, và xã hội? Luật lệ nào, và ai, nên chi phối và kiểm soát hoạt động của công ty, những hoạt động có dính líu về mặt đạo đức với các bên liên quan của công ty, nếu công ty không thể hoặc sẽ không làm như vậy? 2) Nếu một công ty có nhiều hơn một thành viên liên quan đến hoạt động tạo lợi nhuận, điều gì là nền tảng và cơ sở về trách nhiệm đạo đức của nó? Từ đó liệu công ty có chịu trách nhiệm nào ngoài các nghĩa vụ kinh tế của mình? Công ty nên đáp ứng trách nhiệm đạo đức và xã hội của mình với bên liên quan với nó như thế nào? (Weiss, 1994).

Bài viết này bắt đầu bằng việc thảo luận và đánh giá hai quan điểm khác nhau về bản chất của các công ty (tập đoàn) và trách nhiệm xã hội của họ như đã đề cập ở trên: 1) Quan điểm đầu tiên về bản chất không có lương tâm và là một tổ chức phi cảm tính – một thành viên liên quan chỉ cam kết với các cổ đông và chủ sở hữu của nó; 2) quan điểm thứ hai xem xét các tập đoàn như một tổ chức liên đới cả môi trường kinh doanh và xã hội, có nghĩa là bên cạnh nghĩa vụ kinh tế của mình cho cổ đông, công ty có lương tâm và hoạt động như một đại diện đạo đức trong mối quan hệ với các bên liên quan.

2.2 Quan điểm thứ nhất: Các tập đoàn không có lương tâm

Rất ít người không đồng ý với thực tế là hầu hết các tập đoàn kinh doanh để kiếm lợi nhuận cho chủ sở hữu và cổ đông. Một câu hỏi quan trọng là liệu công ty có thể và nên có trách nhiệm về mặt đạo đức với các bên liên quan ngoài các cổ đông của họ hay không. Quan điểm của các "tập đoàn là tổ chức phi tình cảm, vì lợi nhuận" cho rằng nghĩa vụ chính của các doanh nghiệp là tạo lợi nhuận, không phải là để hành động có trách nhiệm đạo đức. Theo quan điểm này, các cơ sở trách nhiệm đạo đức nằm bên ngoài công ty. Quan điểm này thì quan trọng trong lĩnh vực đạo đức kinh doanh, vì định nghĩa các công ty như một tổ chức phi cảm tính cho thấy rằng trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm pháp lý không thể quy cho một tổ chức (Weiss, 1994).

Adam Smith (1723-1790) là người đầu tiên đề xuất quan điểm này. Ông lập luận rằng các doanh nghiệp là các tổ chức phi luân lý không có ý thức về đạo đức (không có nghĩa là trái đạo đức) mà chúng thúc đẩy lợi ích cá nhân và lợi ích kinh tế của các chủ sở hữu, và cho rằng lợi ích riêng của từng cá nhân tạo động lực và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của xã hội và đó là do có "bàn tay vô hình" đã định hướng và thúc đẩy lợi ích chung của xã hội. Theo quan điểm này, trách nhiệm xã hội cần đến các luật lệ và sự bắt buộc thực thi luật lệ, nhưng điều này là trách nhiệm của nhà nước, không phải của doanh nghiệp. Những người gần đây ủng hộ quan điểm này bao gồm nhà kinh tế học Milton Friedman, người đã mạnh mẽ cho rằng doanh nghiệp không có trách nhiệm xã hội nào ngoài việc tối đa hóa lợi nhuận.

Quan điểm đã nhận được sự chấp nhận rộng rãi rằng các ban quản trị và các nhà lãnh đạo lao động có trách nhiệm xã hội ngoài nghĩa vụ phục vụ lợi ích của các cổ đông của họ hoặc các thành viên quản trị. Quan điểm này cho thấy một quan niệm sai lầm cơ bản về các đặc tính và bản chất của một nền kinh tế tự do. Trong một nền kinh tế như vậy, có một và chỉ có một trách nhiệm của doanh nghiệp với xã hội - là sử dụng nguồn lực của mình và tham gia vào các hoạt động phù hợp để tăng lợi nhuận của mình, miễn là nó nằm trong các quy tắc của cuộc chơi, rõ hơn là, tham gia một cuộc cạnh tranh mở và tự do, mà không có sự lừa dối, gian lận... Vài xu hướng có thể phá hủy triệt để các tổ chức trong xã hội tự do của chúng ta như việc chấp nhận của các lãnh đạo công ty về việc ưu tiên trách nhiệm xã hội hơn là tạo ra càng nhiều lợi nhuận cho các cổ đông của họ càng tốt (Friedman, 1962).

Từ trích dẫn ở trên, Friedman rõ ràng chủ trương rằng các công ty không kinh doanh để giúp đỡ xã hội, đúng hơn là, để giúp các doanh nghiệp đáp ứng trách nhiệm chính mình –  tạo ra lợi nhuận cho chủ sở hữu và cổ đông.

Tuy nhiên, có một số hạn chế liên quan đến quan điểm vẫn đang phổ biến này. Joseph Weiss (1994) trong cuốn sách “Đạo đức kinh doanh” của mình đã vạch ra những suy xét sau. Đầu tiên, quan điểm các công ty như là các tổ chức phi cảm tính không nhằm mục đích củng cố nhận thức rằng các công ty và hành động của họ thì phi luân lý. Để lập luận rằng các công ty tổ chức không có nền tảng đạo đức để chịu trách nhiệm với các hoạt động của mình là để đưa ra giả thuyết rằng những nhà quản lý có quyển tự do để sử dụng các nguồn tài nguyên lớn cho các hoạt động công ty và điều đó có thể gây hại cho người tiêu dùng. Thứ hai, góc nhìn công ty là tổ chức phi cảm tính không nhằm mục đích có thể cung cấp một sự bảo vệ dành cho các chủ sở hữu quyền lực và các nhà quản lý hàng đầu bằng sự bất lợi cho các nhân viên cấp dưới, những người có thể trở thành con dê tế thần cho các hoạt động bất hợp pháp của công ty. Thứ ba, các công ty cũng như các tổ chức kinh tế đều có nhân tính, thì tại sao các tổ chức được đăng ký hợp pháp không mang nghĩa vụ và trách nhiệm cho hạnh phúc của cộng đồng nơi họ thực hiện kinh doanh và cho công nhân viên, những người làm nên sự tồn tại của họ? Thứ tư, sự sản xuất trong nền kinh tế cạnh tranh và vì chỉ lợi nhuận không tất yếu sản xuất ra sản phẩm tốt nhất với số lượng lớn nhất.

Weiss tiếp tục lập luận rằng, không có sự hợp tác từ địa phương, tiểu bang, chính phủ liên bang và công chúng, nhiều doanh nghiệp không thể trang trải việc duy trì hoạt động công ty hoặc "chi phí bên ngoài," (các chi phí phát sinh của các doanh nghiệp nhưng được chi trả bằng xã hội, chẳng hạn như các ảnh hưởng phụ lên không khí và ô nhiễm nguồn nước). Liên quan đến sự chỉ trích này là một sự thật rằng không phải tất cả các doanh nghiệp đều có thể tồn tại hoàn toàn ở thị trường tự do, một số doanh nghiệp bị kiểm soát và được hỗ trợ bởi chính phủ, đó là, bằng tiền thuế của công chúng. Điển hình là Tập đoàn Chrysler, nếu  không có một khoản vay của chính phủ vào năm 1979, công ty có lẽ sẽ không còn tồn tại.

Quan điểm thứ hai: Những tập đoàn như những cổ đông xã hội và kinh tế

Quan điểm khác, rất phổ biến ở hầu hết các tập đoàn hiện nay, cho rằng các công ty vì lợi nhuận là pháp nhân và là một tập hợp của nhiều cá nhân và nhóm. Các giám đốc điều hành và cán bộ quản lý cấp cao được thuê để tối đa hóa lợi nhuận cho chủ sở hữu và cổ đông. Tuy nhiên, để thực hiện việc này, công ty cũng phải đáp lại một loạt các lợi ích, quyền lợi và nhu cầu chính đáng của các bên liên quan (nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp, các cơ quan chính phủ). Từ quan điểm này, công ty có nghĩa vụ đáp ứng quyền lợi về kinh tế của các chủ sở hữu; tuy nhiên, để tồn tại và thành công, nó cũng phải đáp ứng yêu cầu về pháp lý, xã hội, chính trị và môi trường với một tập hợp các bên liên quan trong nội bộ cũng như bên ngoài (Weiss, 1994).

Cũng được gọi là giải pháp khế ước xã hội đối với quản lý doanh nghiệp, phương pháp này lập luận rằng vì công ty phụ thuộc vào xã hội để tồn tại và tiếp tục phát triển, có một nghĩa vụ cho công ty để đáp ứng nhu cầu của xã hội đó chứ không phải chỉ riêng nhu cầu của một nhóm khách hàng mục tiêu. Bằng cách nhận biết tất cả các bên liên quan của họ chứ không phải chỉ là cổ đông của họ, các công ty phải duy trì một tầm nhìn dài hạn hơn là chỉ đối phó với số liệu thu nhập hàng quý (Ghillyer, 2010).

Quan điểm bên liên quan của công ty đã trở thành một quan điểm hữu ích cho sự hiểu biết trách nhiệm xã hội và đạo đức của một công ty đối với các chủ thể liên quan của mình. Tuy nhiên, tương tự với quan điểm đầu tiên, quan điểm này về công ty cũng có các phê bình. Một số người cho rằng quan điểm này không có nền tảng lý thuyết vững chắc cho sự đáp ứng về mặt xã hội của công ty. Rogene Buchholz (1991) trong bài viết "Trách nhiệm doanh nghiệp và một xã hội tốt đẹp" lập luận rằng "mô hình bên liên quan là một công cụ hữu ích để phân tích và mô tả nhiều mối quan hệ khác nhau mà một công ty có để cấu thành chính nó trong xã hội, nhưng nó không có nghĩa là một cố gắng mang nặng tính lý thuyết để cung cấp một mô hình mới mà thậm chí sẽ bắt đầu thay thế các mô hình kinh tế”. Nói cách khác, không có nguồn và cơ sở cho các trách nhiệm đạo đức trong mô hình các bên liên quan. Có thể lập luận rằng quan điểm này chủ yếu dựa trên phương diện kinh tế và tập trung vào việc tối đa hóa lợi nhuận giống như quan điểm đầu tiên.

2.4 Những giới hạn khác của đạo đức kinh doanh

Nhiều tiêu điểm đã được đặt vào các chính sách của công ty và quy tắc đạo đức; điều này phổ biến hiện nay và người ta có thể cho rằng những điều này sẽ đảm bảo rằng các công ty sẽ đưa ra các quyết định có tính đạo đức khi hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, điều này có thể không phải luôn luôn đúng. Thật vậy, một số học giả cho rằng các chính sách của công ty và các quy tắc đạo đức là không đủ để cấu thành đạo đức. Robert Solomon (1994) đã lập luận rằng có thiếu sót nào đó từ các quyết định chính sách, mà trọng tâm chắc chắn gần như không đặt lên bất kỳ đối tượng nào, và đó là trách nhiệm cá nhân.

Các câu hỏi về trách nhiệm tràn ngập khắp mọi tập đoàn, và luôn luôn có nhiều ứng viên lớn để đổ lỗi, miễn là họ phải được tìm ra ở một nơi nào khác, nhưng vì có quá nhiều và tiêu điểm trách nhiệm thường là quá khó để tìm. Đây là lý do tại sao các tập đoàn hiện nay thì rất thường hay bị rung chuyển và làm suy yếu bởi việc sa thải thiếu sự cân nhắc hoặc thay thế toàn bộ bộ phận - giám đốc điều hành không biết ai để đổ lỗi, và vì vậy họ đổ lỗi và trừng phạt tất cả mọi người. Trách nhiệm được đặt lên "hệ thống" hoặc lên các chính sách hiện tại mà sau đó trở thành tâm điểm của một cuộc tranh luận dường như vô tận. Cái gì cần được loại bỏ và trở thành đặc điểm chính của đạo đức kinh doanh là sự thừa nhận rằng quyết định này là của chính mình, sự hiểu biết rằng đạo đức không chỉ là một vấn đề đối với ban điều hành, các ủy ban quản trị, và người giám sát của chính phủ mà còn cho tất cả chúng ta, trong những việc nhỏ cũng như ở trong những vở kịch lớn hơn trong đời sống hàng ngày của chúng ta (Solomon, 1994).

Ngoài ra, đại diện doanh nghiệp ngày nay thường có lập luận rằng "kinh doanh cũng giống như chơi bài và tách biệt với đạo đức của cuộc sống hàng ngày" (Carr, 1968) - bạn phải "lừa gạt" để tồn tại. Ý tưởng rất chia rẻ, khi thế giới kinh doanh hiện đại không quá dễ dàng, một cá nhân từ đời sống nghề nghiệp, tin tưởng rằng "kinh doanh là kinh doanh," sẽ là không thể hình dung được. Hầu hết mọi người trong kinh doanh hiện nay đồng hóa chính mình với chính công ty của họ. Đạo đức của họ, ít nhất là trong công việc, chắc chắn được đồng hòa với các giá trị của công ty và ngành công nghiệp, tuy nhiên một người mạnh mẽ có thể phản đối và tách biệt đạo đức cá nhân của mình với những giá trị trên (Solomon, 1994).

Sự tách biệt giữa đạo đức cá nhân với công việc, "sự tha hóa" theo Friedrich Schiller, đưa chúng ta đến đòi hỏi rằng đức hạnh trong kinh doanh độc lập với đức hạnh của những điều khác trong cuộc sống của chúng ta, và điều này phủ nhận tính riêng biệt hoặc của vai trò kinh doanh, hoặc của cuộc sống của chúng ta. Điều này do đó dựng nên một thảm kịch trong đó một nhân công bị áp lực vi phạm "giá trị cá nhân" của mình bởi vì, góc nhìn kinh doanh đơn thuần là kinh doanh, anh ta hoặc cô ta "không thực sự có bất kỳ sự lựa chọn nào."

Sau khi đã đặt ra những giới hạn của đạo đức kinh doanh, bây giờ chúng ta xem xét Phật giáo và xem những giá trị gì mà tôn giáo này có thể đóng góp cho lĩnh vực đạo đức kinh doanh.

3.Tôn giáo, Phật giáo và kinh doanh

Người ta dựa vào niềm tin tôn giáo trong việc đưa ra các quyết định có ảnh hưởng đến những người khác; khi một người có một niềm tin tôn giáo, nó đơn giản không thể định hình nên một cuộc sống mà nó loại trừ những niềm tin đó ra khỏi mọi liên quan thực tế (Fort, 2008). Niềm tin tôn giáo có khả năng trở thành yếu tố cấu thành toàn bộ khuôn khổ đạo đức toàn vẹn của một người. Đó là lý do tại sao Richard Jones đã viết:

Tôn giáo tạo ra một khuôn khổ mà nó cung cấp ý nghĩa cho toàn bộ đời sống của một người. Do đó, nó là không thực tế để hy vọng tách rời đức tin tôn giáo khỏi lĩnh vực quan điểm hoàn toàn riêng tư mà không có ảnh hưởng lên các hành động cộng đồng của họ. Tôn giáo không điều chỉnh chỉ những phạm vi giới hạn trong đời sống tôn giáo – tôn giáo không phải là hạn chế tự do hoặc đời sống riêng tư hay cá nhân. Thay vì vậy, tôn giáo bao hàm toàn diện trong ý nghĩa rằng tất cả các khía cạnh của cuộc sống của một người là liên quan ở mức độ này hay mức độ khác với khuôn khổ cơ bản này (Jones, 1994).

Tư tưởng phương Tây đầu tiên về điểm chung giữa tôn giáo và kinh tế tập trung chủ yếu vào các tác động tiêu cực của tôn giáo truyền thống vào việc cải thiện các điều kiện vật chất của cuộc sống. Trớ trêu thay, bây giờ có một ý thức tỉnh ngộ rõ ràng và hoài nghi về mô hình tăng trưởng và phát triển "phi luân lý," "khoa học” của phương Tây  (Daniels, 2006). Thật là kỳ lạ rằng trong một môi trường kinh doanh đòi hỏi trách nhiệm đạo đức của các nhà lãnh đạo kinh doanh, một nền tảng cho sự hiểu biết về các nghĩa vụ đạo đức - truyền thống tôn giáo - bị loại khỏi các cuộc đối thoại mang tính xây dựng.

3.1 Đức Phật với sự thịnh vượng và nghèo khó

Khởi đầu, giống như nhiều tôn giáo khác, ý tưởng liên kết Phật giáo với kinh doanh xuất hiện như là một nghịch lý nghiêm trọng. Sự đáp ứng các ước muốn cá nhân và lợi ích vật chất tràn ngập các mục đích và hành động của các hoạt động kinh doanh dường như trực tiếp mâu thuẫn với thế giới quan Phật giáo. Tuy nhiên, giả định này được dựa trên sự nhầm lẫn và hiểu lầm về Phật giáo đối với quan điểm về lợi ích vật chất và sự giàu có.

Theo truyền thống, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ bỏ một cuộc sống đặc ân với khoái lạc và an nhàn để đến với cuộc sống gian khổ của một người sống ở rừng, tuy nhiên quá trình tu tập khổ hạnh của Ngài đã không đem lại sự giác ngộ mà Ngài muốn tìm kiếm. Ngài tiếp đến tìm ra một "con đường Trung đạo" mà đó không chỉ đơn giản là phân chia sự khác nhau giữa hưởng thụ giác quan hay sự từ chối các cảm giác này. Nó tập trung vào việc giữ tĩnh lặng và hiểu biết tâm thức, vì chỉ tuệ quán mới có thể giải phóng chúng ta ra khỏi mối bận tâm thường ngày của chúng ta với việc cố gắng để trở nên hạnh phúc bằng cách thỏa mãn những tham muốn của mình. Mục tiêu không phải là để tiêu diệt tất cả những ham muốn mà để trải nghiệm chúng một cách không bám víu, để chúng ta không bị kiểm soát bởi chúng. Trái với định kiến về Phật giáo như là một tôn giáo từ bỏ cuộc đời, mục tiêu của Phật giáo không nhất thiết liên quan đến việc siêu việt thế giới này để đến một thế giới khác (thiên đường, cực lạc). Thay vì vậy, mục tiêu là đạt được trí tuệ mà nó nhận ra bản chất thật của thế giới này, bao gồm bản chất thật của ta, và ngang qua trí tuệ này ta được giải thoát khỏi đau khổ (dukkha).

Trong kinh điển Pali, thậm chí còn có những lời khuyên về tài chính trong một số bản kinh: làm thế nào để kiếm tiền, cách chi tiêu và tiết kiệm tiền (Vyaggapajja-sutta, Anguttara Nikaya IV 281; Sigalovada-sutta, Digha Nikaya III 180); nhiều bản kinh về thành công tài chính được thuyết giảng cho Cấp Cô Độc, vị đại thương gia và hành giả vào thời Đức Phật (Anguttara Nikaya I 261, II 45-48, 64-66, III 204, 206). Cư sĩ không bị cấm trở nên giàu có, trái lại, họ được cổ vũ tìm kiếm và tích lũy của cải một cách hợp pháp. Liên quan đến cách kiếm sống đúng đắn, cư sĩ tại gia đã được khuyên nên tránh năm loại buôn bán: nô lệ, vũ khí, thịt, rượu và các chất độc (Anguttara Nikaya III 208). Một số bản kinh có quan điểm rằng sự giàu có tích cực có thể góp phần vào sự thành công của người cư sĩ. Mặt khác, kinh Cakkavatti-Sihanada cho rằng tình trạng nghèo đói tạo ra vô luân và tội phạm như trộm cắp và giết người (Digha Nikaya III 67).

Chính ở trong các mối quan tâm này mà nó cho thấy Phật giáo không cho rằng sự giàu có là một trở ngại để thực hiện con đường tâm linh. Tuy nhiên, Phật giáo không chấp nhận một đời sống tận hiến duy nhất để có được sự giàu có. Mục tiêu cuối cùng của giác ngộ giải thoát có thể khó theo đuổi hơn nếu chúng ta thiếu thốn, tuy nhiên một đời sống chú trọng vào tiền bạc có thể không tốt. Giá trị của sự giàu có không thể so sánh với mục tiêu tối thượng là đạt được Niết-bàn, trạng thái tự do thoát khỏi đau khổ và tái sanh. Tuy nhiên, tài sản có được một cách đúng đắn theo truyền thống được coi là một biểu hiện của phước đức, và nếu sử dụng đúng cách, có thể mang tới lợi ích cho mọi người, vì sự giàu có tạo ra các cơ hội để giúp đỡ người khác và để tu tập sự không chấp thủ bằng cách phát triển sự bố thí của ta (Loy, 2003).

3.2 Tại sao là Phật giáo?

Các lĩnh vực kinh doanh, một phần của nền kinh tế và khoa học xã hội, giải quyết việc quản lý nguồn tài nguyên con người và tự nhiên để sản xuất, thông thường với mục tiêu cuối cùng là thu lợi nhuận. Thật vậy, muốn kinh tế học như là một ngành riêng biệt, nên đã sản sinh ra quan điểm rằng hành vi kinh tế có thể được tách rời riêng biệt khỏi những niềm tin, các giá trị, và hậu quả của các giá trị, niềm tin đó, hay các quan hệ quyền lực và chế độ xã hội (Daniels, 2006). Mặt khác, Phật giáo có thể được phân biệt như là một hệ thống đạo đức và một con đường chỉ ra điều đúng hay sai trong mục đích đời người và hoạt động thế tục (Payutto, 1994). Nó tập trung vào hạn chế tiêu thụ, hành vi hợp tác và lợi ích tập thể đằng sau các hành vi. Khía cạnh vật chất của chất lượng cuộc sống sẽ chỉ là một trong nhiều yếu tố để đánh giá cá nhân hay xã hội "tiến bộ."

Tuy nhiên, như những gì Peter Daniels (2006) lập luận, kinh doanh và kinh tế học không được định nghĩa bởi một mô hình lịch sử; chúng liên quan đến các hoạt động sinh kế và cách con người, các cộng đồng, các xã hội quản lý, phân phối và sử dụng nhân lực và tài nguyên thiên nhiên khan hiểm trong quá trình "kiếm sống của họ." Do đó, kinh tế học là sự nghiên cứu của một tập hợp con của thực tế xã hội - những hoạt động đó gắn liền với việc sinh kế. Mặc dù điều kiện sinh lý và bên ngoài sẽ đóng một vai trò, các giá trị và yếu tố tinh thần khác được buộc vào là một cơ sở quan trọng của các vấn đề kinh tế bao gồm mục đích, các lựa chọn, và những hành động (Payutto, 1994).

Nếu một tôn giáo như Phật giáo có ý nghĩa thiết thực trong tâm trí của mọi người, như tôi đã trình bày trong câu chuyện về Đức Phật ở trên, nó chắc chắn sẽ được biểu hiện rõ ràng trong thực tại xã hội, và sau đó là lĩnh vực kinh doanh và kinh tế. Người ta thường cho rằng các nguyên tắc hợp lý và phổ quát của Phật giáo, và bản chất vô thần và không giáo điều của Phật giáo tạo nên một hệ thống tâm lý học hay triết học và một hệ thống đạo đức định hình một cách sống, hơn là một tôn giáo theo nghĩa thông thường (Nelson, 2000). Mục đích thực tiễn tập trung vào hành vi nhận thức rõ và rèn luyện tâm này hàm ý rằng những nguyên tắc Phật giáo rất tương hợp với  lĩnh vực kinh doanh bởi lợi ích lớn của nó trong việc sinh kế và việc phân bổ các nguồn lực.

Phật giáo cũng được biết đến như là một tôn giáo thế giới rất linh hoạt và dễ thích ứng với một sự tác động dung hợp lên nhiều nền văn hóa địa phương mà nó đã ảnh hưởng trong quá khứ. Hơn nữa, nó đã trải qua sự phân chia nội bộ và thay đổi đáng kể, ví dụ, thành các phái Theravada và Đại thừa và nhiều phái nhỏ bên trong đó. Trải qua hai ngàn năm trăm năm lịch sử của mình Phật giáo đã thể hiện một khả năng thích ứng với nhiều tư tưởng mới, nền văn hóa và quốc gia. Đây là một trong những lý do tại sao Phật giáo, trong năm thập kỷ qua, có một sự phát triển diệu kỳ như vậy ở châu Âu và Bắc Mỹ (Field, 2007). Nó không lấy đi bất cứ thứ gì từ một nền văn hóa; nó chỉ thêm vào các giá trị - trách nhiệm cá nhân, tính toàn vẹn, hành vi đạo đức, và tâm linh.

Những nguyên tắc Phật giáo chính yếu quan tâm đến làm cho mọi người hạnh phúc với thân phận của mình trong cuộc sống  thay vì cố gắng để thay đổi điều kiện vật chất của một cá nhân hoặc cải thiện tình hình của thế giới. Trong thực tế, nhiều học giả đã tin các giá trị Phật giáo Theravada (Thái Lan, Campuchia, Lào, và Myanmar) hạn chế tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, tăng trưởng kinh tế mạnh tổng thể của Thái Lan trong 40 năm qua ủng hộ quan điểm rằng việc thiếu phát triển kinh tế ở Cambodia, Lào, Miến Điện cần phải thực hiện nhiều chính sách quốc tế và nội địa hơn là các giá trị tôn giáo của người dân.

4. Đức Phật và Phật pháp

Phần này nhằm thảo luận và vạch ra một số lời dạy quan trọng của Đức Phật có liên quan đến hoạt động kinh doanh. Việc thảo luận này sẽ rút ra những hạn chế của đạo đức kinh doanh hiện tại, đưa ra một đánh giá cụ thể hơn về sự tương đồng giữa các giá trị Phật giáo và đạo đức kinh doanh trong các phần tiếp theo.

4.1 Hai ý nghĩa của Pháp

Lời dạy của Đức Phật chỉ cho Pháp (Dhamma), hay sự thật. Trong Phật giáo thuật ngữ Pháp được sử dụng để truyền đạt những cấp độ khác nhau của chân lý, cả chân lý tương đối (cariyadhamma) và chân lý tối hậu (sabhavadhamma). Những sự thật liên quan đến hành vi đạo đức - các hành động hàng ngày và trong xã hội - đều là chân lý tương đối. Đây là những sự thật liên quan đến các vấn đề tốt và xấu. Pháp ở trong ý nghĩa lớn hơn của nó là chân lý tối hậu, hay thực tại: nó bao gồm tất cả vạn vật như chúng là và định luật mà nhờ đó chúng thực hiện chức năng. Trong ý nghĩa này, Pháp được sử dụng để mô tả toàn bộ chuỗi các nguyên nhân và điều kiện, tiến trình mà theo đó vạn vật tồn tại và vận hành (Payutto, 1994).                                              

Không giống như phạm vi hẹp hơn của chân lý tương đối, đề cập tới sự suy xét đạo đức riêng biệt, chân lý tối hậu hướng đến bản chất hay thực tại của chính sự vật, đó là vượt ra ngoài mối quan tâm của tốt và xấu. Trong ý nghĩa bao gồm tất cả này, Pháp thể hiện toàn bộ các điều kiện tự nhiên, điều mà các nghành khoa học khác nhau tìm cách miêu tả. Như vậy, giáo pháp của Đức Phật cho chúng ta nhiều điều hơn chứ không chỉ các nguyên tắc chỉ đạo cho một đời sống đạo đức. Lời dạy của Ngài đưa ra một cái nhìn sâu sắc vào bản chất của thực tại.

4.2 Bát Chánh đạo và con đường Trung đạo

Trọng tâm giáo pháp của Đức Phật nằm ở nơi Tứ diệu đế (Cattari Ariyasaccani) mà Ngài trình bày trong bài pháp đầu tiên cho năm vị đệ tử của mình. Tứ diệu đế là: 1) Sự tồn tại của khổ (dukkha), 2) Nguyên nhân hay nguồn gốc của khổ (samudaya), 3) Có một sự kết thúc khổ đau (nirodha), và 4) Có một con đường (magga) thoát khổ đó là Bát Chánh đạo.

Sự thật Tứ diệu đế là con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau. Trong Phật giáo, điều này cũng còn được gọi là Trung đạo (Majjhima Patipada), bởi vì nó tránh hai thái cực: một thái cực là tìm kiếm hạnh phúc qua những thú vui của các giác quan, những điều "thấp kém, tầm thường, không có lợi ích và cách thức của người thế tục"; thái cực còn lại là tìm kiếm hạnh phúc thông qua việc tự hành xác trong các hình thức khổ hạnh khác nhau, đường lối này thì "đau khổ, không xứng đáng và không có lợi ích". Chính Đức Phật sau khi đã trải qua hai thái cực này (đầu đời của mình là một hoàng tử và thực hành khổ hạnh trong những ngày tu tập đầu tiên của Ngài), và hiểu ra chúng là vô ích, Đức Phật đã khám phá ngang qua kinh nghiệm cá nhân con đường Trung đạo mà nó "đem lại sự thấy biết đưa đến đến điềm tĩnh, sáng suốt, giác ngộ, Niết-bàn “"(Walpola, 1978).

Con đường Trung đạo thường được nhắc đến như là Bát Chánh đạo (Ariya-Atthanika-Magga), bởi vì nó bao gồm tám phạm trù, đó là: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh niệm, Chánh tinh tấn, và Chánh định.

Không nên nghĩ rằng tám phạm trù hay những sự phân chia đạo lộ này phải nên được đi theo và thực hành theo thứ tự, mà chúng nhiều hoặc ít phải được phát triển đồng thời. Chúng được liên kết với nhau và mỗi chi phần giúp tu bồi cho các chi phần khác (Walpola, 1978).

Như thể hiện trong bảng trên, tám nguyên tắc hướng dẫn này nhằm mục đích thúc đẩy và hoàn thiện ba yếu tố then chốt của việc rèn luyện và thực hành Phật pháp, đó là: 1) Giới (sila), 2) Định (Samadhi), và 3) Tuệ (Panna). Việc rèn luyện phẩm hạnh đạo đức, trong đó bao gồm Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng, là một sự thể hiện trách nhiệm xã hội của mỗi cá nhân. Nó được xây dựng trên khái niệm rộng lớn về tình yêu phổ quát và lòng từ bi dành cho tất cả chúng sinh, mà trên đó giáo pháp của Đức Phật đặt cơ sở.

Việc rèn luyện kỷ luật tâm thức, mà nó gồm có Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định, bao gồm việc phát triển những phẩm chất tâm và là trách nhiệm đối với sự đứng đắn, kiên quyết và sự tiến bộ vững chắc trong việc hành xử con đường đạo đức. Việc rèn luyện trí tuệ, mà nó gồm có Chánh kiến và Chánh tư duy, đặc biệt bao gồm một cái nhìn thấy rõ thế giới dựa trên tuệ quán sâu sắc về sự vô thường, đối lập, và bản chất vỗ ngã của sự vật, tính duyên khởi của mọi hiện tượng - tất cả những thay đổi đều có nguyên nhân và điều kiện. Đạo đức Phật giáo là bắt nguồn từ sự hiểu biết và nỗ lực được đặc trên sự hiểu biết - trí tuệ này, những điều đóng vai trò then chốt (Rajavaramuni, 1992).

4.3 Duyên khởi

Ngay sau đó, Đại đức Na Tiên nói với vua Milinda ... "Chẳng hay ngài đi bộ đến đây, hay đi bằng xe?"

"Thưa Đại đức, tôi không đi bộ đến đây mà đi bằng xe ngựa."

"Nếu ngài đã đi bằng xe ngựa, vậy thì xin vui lòng giải thích cho tôi cái gì là một chiếc xe ngựa. Có phải cái gọng là xe ngựa?"

"Không, thưa Đại đức!"

"Vậy thì nó là bánh xe, hay khung xe, cờ hiệu, ách, hay dây cương, hay roi đánh?"

"Không, thưa Đại đức!"

... "Như vậy, như tôi đã hỏi, tôi hoàn toàn không thể tìm ra chiếc xe ngựa. Chiếc 'xe ngựa' này chỉ là một danh xưng.

Nhưng chiếc xe ngựa thực sự là gì? Bệ hạ đã nói dối, đã nói một lời dối trá! Thực sự là không có xe ngựa! ... "

Nhưng vua Milinda đã nói với Na Tiên: "Thưa Đại đức Na Tiên, trẫm đã không nói dối. Do có sự phụ thuộc vào gọng xe, trục xe, bánh xe, khung, cờ hiệu v.v…, ở đó có sự đặt tên 'xe ngựa’, sự định danh này, từ ngữ khái niệm này, là một danh xưng tạm thời và chỉ là một tên gọi. "

"Bệ hạ đã nói rất hay về xe ngựa." (Trích từ Những câu hỏi của vua Milinda/ The Questions of King Milinda).

Văn bản Phật giáo cổ này minh họa sự phụ thuộc lẫn nhau, sự liên hệ, bản chất không có thực của những điều chúng ta thường coi là sự vật đối tượng. Một chiếc xe ngựa không phải là thực thể rắn chắc, cơ học mà chúng ta nhận biết bằng giác quan, nó cũng không được đồng nhất với trục hay bánh của nó.

Thuật ngữ "Duyên khởi" (paticca-samuppada) được Đức Phật sử dụng trước hết để mô tả sự thấy biết về bản chất tồn tại của con người. Về cơ bản là một học thuyết nhân quả, khái niệm này quá trọng tâm đối với tư tưởng Phật giáo đến độ một sự hiểu biết đúng đắn về duyên khởi thường được công nhận tương đương với chính sự giác ngộ (Encyclopedia of Religion, 2005). Học thuyết này được xem như một luật phổ quát; rằng tất cả các hiện tượng, tâm lý hoặc thể chất, phụ thuộc vào các điều kiện để xuất hiện và rằng không có thứ gì xảy ra một cách độc lập, biệt lập hay ngẫu nhiên:

Tất cả các hiện tượng trong vũ trụ, tuy dường như không thay đổi, thì... chỉ đơn thuần là các sự kiện và học thuyết duyên khởi cho rằng những sự kiện phát sinh như là một kết quả của sự hội tụ và phát sanh của nhiều điều kiện; rằng sự nối tiếp của các sự kiện được quy định bởi các điều kiện đó mà từ đó nó phát sinh, hay nói một cách khác, hội tụ tại thời điểm nó xảy ra. (The Encyclopedia of Buddhism).

Ví dụ, để một cái cây mọc lên, các điều kiện đất, nước phải hội tụ, thậm chí nhiều điều kiện khác như hạt giống phải tươi và không bị hỏng, phải được xử lý trước; nếu không, hạt giống có thể sẽ trở thành một cái hạt khô và biến thành mùn đất (Samyutta Nikaya III 54). Như một quy luật phổ quát, thuyết nhân duyên được giữ vững vì nó thích hợp với tất cả các hiện tượng, vật chất và tinh thần, cá nhân và xã hội, lịch sử và thuyết mạt thế.

5. Phật giáo là một phần của giải pháp

Khám phá những giới hạn của đạo đức kinh doanh ở phần đầu tiên, một sự thảo luận ngắn gọn về lý do tại sao tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo có thể đóng góp vào nghiên ở phần thứ hai, và phần thứ ba về lời dạy của Đức Phật, chúng ta nên tiến hành ngay bây giờ việc ứng dụng những lời dạy này trong lĩnh vực kinh doanh.

5.1 Nhấn mạnh vào trách nhiệm cá nhân

Tôi muốn bắt đầu việc thảo luận của mình với những câu chuyện như sau: Jean-Paul Sartre một lần đối diện với một học sinh rắc rối trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Học sinh này hỏi Sartre là nên để lại người mẹ dễ bị tổn thương của mình và tham gia Lực lượng giải phóng Pháp hay ở lại với mẹ mình và nhờ đó cứu được cuộc sống của bà. Câu trả lời của Sartre là: "Em tự do, vì thế em có quyền lựa chọn sáng tạo. Không có luật lệ đạo đức chung nào có thể chỉ ra cho em những gì em nên làm.". Cậu học trò không hài lòng với câu trả lời của nhà triết học và hỏi cậu của cậu ta, một sĩ quan quân đội, cùng một câu hỏi để có được một ý kiến thứ hai. Ông cậu trả lời: "Là một sĩ quan quân đội, cậu sẽ khuyên cháu thực hiện nhiệm vụ đối với quốc gia của mình, để lại mẹ và gia nhập quân đội. Tuy nhiên, là người cậu của cháu, cậu muốn cháu ở nhà và chăm sóc mẹ cháu, là em gái của cậu" (Ims, 2006).

Trong truờng hợp trên, rõ ràng rằng Sarttre để lại hoàn toàn trách nhiệm cho cậu học sinh, yêu cầu cậu ta nhận lấy trách nhiệm bản thân. Không phải là vai trò của Sartre nhận lấy những gánh nặng đạo đức từ bất kỳ ai. Mặt khác, người cậu của cậu học sinh rõ ràng bị mắc kẹt bên trong hai vai trò đối nghịch nhau (vừa là một sĩ quan quân đội vừa là anh trai của mẹ cậu học sinh). Theo Applbaum (1999), thuật ngữ vai trò có thể được sử dụng để mô tả "các vị trí công việc với một vài mức độ mang tính quy tắc và vững bền, và ở đó có những mong đợi của tập thể, tuy nhiên không chính thức hoặc không được thừa nhận, về sự đóng góp của vị trí, nhiệm vụ, giá trị và đức hạnh”. Ghi nhớ điều này, một giám đốc hoặc quản lý có một vai trò, nhưng khách hàng độc đoán hơn thì không.

Một số niềm tin không bị trói buộc với một vai trò cụ thể, và viện dẫn vai trò của bản thân không bao giờ là một cơ sở đúng đắn cho nắm giữ niềm tin. Ví dụ, tuyên bố: "Kể từ khi tôi là một nhà lãnh đạo trong một tổ chức kinh doanh, mục tiêu chính của tôi là để tối đa hóa lợi nhuận của tổ chức," không phải là một chuỗi lý luận hợp lý. Là một nhà lãnh đạo, anh ta có một trách nhiệm cá nhân để đạt được mục tiêu của tổ chức, miễn là không gây hại đến thiên nhiên, cộng đồng, những người đang sống hoặc thế hệ tương lai trong quá trình này. Tuy nhiên, là một nhà lãnh đạo kinh doanh không phải một vị trí hợp lệ trong việc giảm thiểu mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty  (Ims, 2006). Tham khảo các trích dẫn trên, chúng ta có thể nói rằng mọi người đều tự do và có thể thực hiện tốt những vai trò khác nhau của mình; ẩn sau vai trò của mình và giả vờ rằng chúng ta không có tự do là đánh lừa bản thân mình cũng như những người khác.

Bây giờ chúng ta trở lại câu hỏi then chốt: Vai trò trong công việc (đặc biệt là các giám đốc điều hành và nhà quản lý hàng đầu) có tạo nên sự miễn trách nhiệm cá nhân? Hoặc là trách nhiệm cá nhân là một vấn đề luôn liên hệ với danh tính của người đó và biểu hiện đạo đức của chính họ, như vậy mang đến nét độc đáo và riêng biệt cho mỗi hành động được thực hiện bởi những người đại diện công ty với vai trò của họ trong công việc?

Roszak (1981) cho rằng trách nhiệm cá nhân là "Nét đặc biệt cốt yếu mà nó tách biệt sự làm công đơn thuần với nghề nghiệp đích thực." Nghề nghiệp, như được "gọi", đề cập đến việc "lao động tốt và có đạo đức chân chính". Roszak nhấn mạnh vấn đề trách nhiệm cá nhân đối với người khác, và với các vấn đề sinh thái. Theo đó mỗi người nên tự hỏi: Công việc có lương thiện và hữu ích không? Nó có phải là một sự đóng góp thực sự cho nhu cầu của con người? Như những gì Ims (2006) trình bày, "Các giá trị cá nhân làm cơ sở cho các giá trị mà chúng ta ‘tán thành và tuân thủ’ ở trong cuộc sống nghề nghiệp của chúng ta. Những giá trị tổ chức ít vững bền hơn so với các giá trị “sâu sắc và gắn liên với đời sống” của từng cá nhân."

5.2 Bát Chánh đạo như là một nguyện tắc bổ sung

Các nguyên tắc hướng dẫn của Bát Chánh đạo không chỉ dành cho một công ty hay tập đoàn cụ thể. Trong thực tế, những nguyên tắc này không bắt đầu từ tổ chức, mà chúng bắt đầu từ bạn và tôi - những người trong công ty. Để áp dụng tốt hơn và áp dụng những nguyên tắc này vào công ty, tôi sẽ sử dụng mô hình của Tetsunori Koizumi (2010) trong việc chia Bát Chánh đạo thành các tập hợp, mỗi tập hợp bao gồm bốn phạm trù như chúng ta có thể thấy bên dưới:

Là một nhóm, bốn yếu tố trong tập hợp đầu tiên tất cả đề cập đến vấn đề tinh thần. Chúng có thể được hiểu là tương ứng với bốn hình thái hoạt độ