Ý nghĩa và khái niệm mantra trong Ấn giáo
y nghia va
Ý nghĩa và khái niệm mantra
trong Ấn giáo
V Jayaram
Mantra là một khía cạnh
quan trọng trong Ấn giáo. Các mantra được sử dụng trong những thực hành nghi lễ
và tâm linh để thể hiện sự sùng kính, thiết lập sự giao tiếp hay thực hiện những
mong muốn, và trong nhiều phương diện đáp ứng mục đích ấy như những lời cầu
nguyện. Những thánh tụng và thần chú đã được sử dụng từ rất sớm bởi những nền
văn hóa cổ đại khác nhau để cầu khẩn thần linh, tổ tiên và quỷ thần hay để yểm
bùa.
Mantra trong truyền thống Vệ-đà
Trong Ấn Độ cổ đại,
mantra đã hình thành nên một phần quan yếu của tôn giáo Vệ-đà. Có khả năng rằng
những người Indus cũng đã sử dụng những thực hành tương tự để cầu khẩn thần
linh của họ. Những mantra Vệ-đà chính yếu bắt nguồn từ các Vệ-đà, mà chúng vốn
là những cuốn sách về các mantra, trải qua những tên gọi khác nhau chẳng hạn
như Rik, Saman và Yajus. Chúng được tụng đọc hay sử dụng theo thể thức trong những
buổi lễ hiến tế Vệ-đà phức tạp.
Các mantra về truyền thống
đã được sử dụng cả trong những thực hành nghi lễ và tâm linh và những hoạt động
thế tục cho những mục đích khác nhau. Chúng vẫn đóng một vị trí quan trọng
trong Ấn giáo như là biểu thị của lời nói thiêng liêng, sự biểu hiện của thần
linh và hiểu biết siêu phàm. Trong thực hành và cầu nguyện theo nghi lễ Ấn
giáo, mantra được sử dụng để truyền thông với thần linh và cầu khẩn quyền năng
của họ để đạt lấy một số mục đích.
Mantra hình thành nên cái
cốt lõi của những nghi lễ hiến tế Ấn giáo, mà chúng không thể được thực hiện nếu
không có sự tham dự của những tu sĩ có kinh nghiệm. Trong những trường hợp như
vậy, mantra thường được một hoặc nhiều tu sĩ tụng đọc lớn trong khi những người
khác có thể tham gia vào nhóm tụng đọc hoặc khi họ được yêu cầu. Ta cũng có thể
niệm thầm mantra để giữ lấy sự bí mật hay vì sự tiện lợi. Các Vệ-đà cho rằng hiệu
lực của lời cầu nguyện và các mantra tăng lên nhiều lần khi chúng được trì niệm
thầm lặng bằng tâm thành hơn là khi chúng được tụng đọc lớn.
Những người Hindu cũng có
truyền thống viết các mantra (thường là tên của một vị thần) lên giấy như là một
sự phụng cúng lên thần linh hay để thể hiện tình yêu và sự sùng kính đến một vị
thần cụ thể. Thực hành thường bao gồm việc viết tên của một vị thần hay một
mantra cụ thể trong một số lần, mà thường là 10 triệu lần. Mỗi khi mục đích đạt
được, những tín đồ mang những tờ giấy hay tập vở mà ở đó họ đã viết tên vị thần
và đặt chúng tại những ngôi đền hay những nơi linh thiêng thờ vị thần ấy.
Ý nghĩa của mantra
Nói theo nghĩa đen, trong
tiếng Sanskrit “mantra” có nghĩa là tham cứu, tìm lời khuyên hay sự giúp đỡ,
suy nghĩ hay cân nhắc. Nguồn của các mantra là thần linh. Nơi thân thể con người
nó là hơi thở;nơi lời nói - mỗi mantra được trao cho một hình thức bằng lời nói
–nó khơi dậy sức mạnh bí ẩn của nó và đưa nó đi khắp không gian như những sự
chuyển động âm thanh đến những nơi mong muốn của nó. Những mantra như vậy là những
phương tiện siêu phàm mà chúng mang những suy nghĩ và lời cầu nguyện của người
tín đồ đến cõi trời và giúp họ thiết lập sự giao tiếp với thần linh.
Như vậy, theo cách nói
tôn giáo, mantra chính yếu là phương tiện để giao tiếp với thần linh, cầu khẩn
họ hay tìm lời khuyên và sự giúp đỡ của họ. Một từ liên đới hay phái sinh là
mantri, mà nó có nghĩa là một vị thượng thư, người can gián hay đưa ra lời
khuyên cho một vị cai trị, hay một vị tu sĩ đứng đầu (pradhan mantri). Là những
sản phẩm của tâm thức, các mantra cũng liên quan đến trí thông minh hay sự sáng
chói của tâm. Nơi một cõi tâm thanh tịnh, các mantra tự hiển lộ, như chúng hiển
lộ nơi tâm những nhà tiên tri Vệ-đà. Mỗi mantra linh thiêng (man+tra) là một sự
thể hiện tâm thanh tịnh, hay một tâm thấm đẫm sự sáng chói của tự ngã. Tâm càng
thanh tịnh, sự ảnh hưởng của mantra càng lớn. Bởi vì các mantra biểu hiện chính
nó ở nơi tâm thành thanh tịnh, chúng cũng được xem là bất diệt, không phải do
con người tạo ra (apauruseya), và chỉ được nghe (sruti) như ở trong trường hợp
của các mantra từ các Vệ-đà.
Trong cách sử dụng truyền
thống, một mantra là một lời, một từ, một đoạn, một âm tiết, một câu hay một lời
cầu nguyện thiêng liêng chứa đựng một hoặc nhiều hơn trong số năm thần lực của
thần linh đó là sự sáng tạo, bảo tồn, che giấu, hủy diệt và khai mở. Một mantra
có một nghĩa cụ thể hoặc không. Tuy nhiên, hầu hết những mantra và thậm chí những
âm tiết đơn (bijakshara) mà chúng được sử dụng trong Ấn giáo hoặc có một nghĩa
đen hoặc một nghĩa tượng trưng hoặc cả hai.
Trong tất cả các mantra,
Aum được xem như là mantra gốc (mula). Nó là cái cao nhất và thuần khiết nhất
và chính là Bhahman ở trong hình thức lời nói (Sabha Brhama). Nó cũng được biết
như mantra Purusha (thần linh là mantra), Pranava (đời sống hỗ trợ mantra) và
Taraka (bí mật), có thể thánh hóa và thanh tịnh tất cả những thể hiện bằng lời
nói và những hình thức lời nói khác. Do đó, nó thông thường được sử dụng như một
tiếp đầu ngữ cho tất cả những mantra khác để truyền cho chúng thần lực và sự
thanh tịnh.
Những niềm tin liên hệ với mantra
Các mantra được sử dụng
như là những âm thanh hay lời nói huyền bí. Bởi vì được rút ra từ các thánh điển,
chúng được xem là kiết tường và thần linh ở trong hình thức lời nói. Như được
nói ở trước, chúng được phú cho một hoặc nhiều hơn trong năm thần lực của thần
linh. Do đó, chúng được sử dụng rộng rãi trong việc theo đuổi bốn mục đích
chính của đời sống con người đó là dharma (bổn phận tôn giáo), artha (tài sản),
kama (ham muốn) và moksha (giải thoát).
Chúng cũng được sử dụng
trong nghiên cứu và tụng đọc kinh sách và quán tưởng. Nhiều mantra vẫn được sử
dụng như những cái neo tâm thức, để ghi nhớ những khái niệm triết học hay tư tưởng
tôn giáo phức tạp. Cũng có nhiều sự bí mật liên quan đến truyền thống mantra. Bởi
vì hiệu lực hay những ảnh hưởng cụ thể của chúng, một số mantra không thể tiết
lộ cho mọi người hay chỉ tiết lộ cho những người có đủ khả năng. Một người học
hay đệ tử cũng được mong đợi giữ bí mật đối với bất kỳ mantra vở lòng nào được
người thầy hay đạo sư truyền trao cho họ.
Mỗi mantra sẽ có một vị
tiên tri (rishi) sáng tác nó, một nhịp điệu hay dụng cụ (chhanda) mà nó xác định
âm thanh của nó, và một vị thần (devata) điều khiển nó và những biểu lộ khi
mantra được phát âm đúng.
Bởi vì những thành phần ẩn
dấu này và những khía cạnh thiêng liêng của chúng, có nhiều luật lệ liên quan đến
việc tụng các mantra. Thái độ và sự thanh tịnh của người tụng niệm chúng cũng
là vấn đề. Sự phát âm là rất quan trọng trong việc sử dụng các mantra. Không có
sự phát âm và âm điệu đúng, vị thần ở nơi mantra có thể không đáp ứng. Đồng thời,
điều quan trọng là mục đích sử dụng một mantra, bởi vì việc sử dụng mantra cho
bất kỳ mục đích nào đều tạo ra những nghiệp quả và ảnh hưởng số phận của người
sử dụng nó.
Tại sao mantra được sử dụng
Mantra được sử dụng cho cả
mục đích tích cực và tiêu cực. Sau đây là một số mục đích quan trọng nhất mà
các mantra được sử dụng trong Ấn giáo.
1. Để giao tiếp với thần
linh và thể hiện sự sùng kính
2. Để cầu khẩn thần linh
và tìm kiếm sự giúp đỡ hay lời khuyên của họ
3. Để làm nguôi dịu những
vị thần hung dữ và tránh sự phẫn nộ của họ
4. Để tìm kiếm sự bảo vệ
của thần linh nhằm chống lại những năng lực xấu ác hay kẻ thù
5. Để thanh lọc thân tâm
cho sự giải thoát hay tự chuyển hóa
6. Để làm yên lặng tâm
trong việc quán tưởng thần linh
7. Để sửa soạn một nơi thờ
cúng trước khi bắt đầu một nghi lễ hiến tế
8. Để tôn trí tranh tượng
của thần linh tại một ngôi đền hay trong việc thờ phụng gia đình
9. Để thực hiện những
mong muốn thế tục và để có được sự an bình và thịnh vượng trong cuộc sống
10. Để cuốn hút người
khác giới và làm họ mê đắm, hoặc yểm bùa tình địch và ngăn chặn kẻ chống đối
11. Để chiến thắng cái chết,
tai ương bệnh tật, nghiệp xấu, hay những hoàn cảnh bất lợi
12. Để giúp những linh hồn
quá vãng đang trên đường đến giải thoát hay tái sanh
13. Để bỏ bùa, mê hoặc
hay tiêu diệt đối thủ
14. Để kiểm soát hay yểm
bùa muông thú, rắn rít v.v…
15. Để kiềm chế tâm và đi
vào giấc ngủ sâu hay những trạng thái nhận thức cao hơn
16. Để giành lấy ân sủng
thần linh hay ân sủng của một vị thầy (guru)
17. Để đạt được những sức
mạnh tâm linh (siddhis)
18. Để thể hiện những
chân lý tâm linh và triết học sâu sắc
19. Để xác nhận những
chân lý bằng sự chứng nhận lời nói (sabda pramana)
20. Để đạt lấy thành công
trong thể thao, tranh chấp, tranh luận và trong các cuộc chiến đấu.
Các loại mantra
Tùy thuộc vào việc sử dụng
và mục đích của chúng, các mantra có thể được phân thành những phạm trù khác
nhau, mà chúng được trình bày dưới đây.
Những mantra có mục đích chung
Chúng là những mantra phổ
biến mà nói chung công chúng đều biết và chúng được người tín đồ sử dụng vì những
mục đích khác nhau, không cần theo những nguyên tắc, luận lệ và những hạn chế.
Người Hindu sùng đạo sử dụng chúng trong đời sống hàng ngày của họ để thể hiện
sự tín tâm, vượt qua sợ hãi, tránh điều xấu ác, truyền sự tin cậy, hay chỉ để
cho tâm yên ổn. Một số cũng được sử dụng như tự kỷ ám thị để thay đổi suy nghĩ,
hành xử hay huấn luyện tâm họ.
Những mantra có mục đích cụ thể
Những mantra này được tụng
cho những mục đích cụ thể hay vào những dịp cụ thể, và chỉ những người cùng
dòng dõi, đức hạnh, kiến thức hay lòng trung thành đối với một phái hay một một
vị thầy truyền thống mới được phép sử dụng. Một vài ví dụ là những mantra mà
chúng được các tu sĩ sử dụng trong những nghi lễ Vệ-đà hay Mật giáo để truyền
thông với những vị thần cụ thể hay để đạt lấy những mục đích cụ thể. Những
mantra mà chúng được sử dụng trong những thể thức hiến tế cũng được xếp vào phạm
trù này. Những người sử dụng chúng phải tuân thủ một số luật lệ và giới hạn để
đạt được những kết quả mong muốn. Những luật lệ nói đến việc chúng nên được tụng
bao nhiêu lần, khi nào, ở đâu và vào những trường hợp nào.
Những mantra đem lại an bình
Chúng thường được tụng đọc
ở đầu những buổi lễ hiến tế, yoga, những bài thuyết giảng tâm linh hay để bắt đầu
những công việc mới. Chúng cũng được sử dụng để tẩy uế nhà cửa và nơi thờ cúng,
xua đuổi đi những thế lực xấu ác hay được sử dụng trong hành thiền để làm an ổn
thân tâm. Hầu hết những mantra cho mục đích an bình được sử dụng tập trung vào thần
Brahman hay tam thần là Brahman, Vishnu và Shiva. Chúng thường kết thúc với cụm
từ “an bình, an bình, an bình” mà nó có nghĩa là an bình ở trên cõi trời, an
bình ở trên mặt đất và an bình ở bên trong.
Những mantra làm thanh tịnh
Chúng được sử dụng để sái
tịnh những nơi thờ phụng và những nơi hiến tế mà ở đó những lễ hiến tế (yajna)
được thực hiện. Để tẩy uế những thứ bất tịnh (dosha), chủ đàn tế lễ (yajaman),
tranh tượng được sử dụng trong thờ cúng, hay đồ dâng cúng và đồ dùng được sử dụng
trong nghi lễ thờ cúng. Hầu hết những mantra cho mục đích thanh tịnh được tụng
đọc cùng với việc rảy nước. Người ta cũng có thể tụng chúng trong khi tắm hay
ngâm mình trong một con sông thiêng hay vào những dịp kiết tường để tẩy uế nhà
cửa, chủ đàn các tế lễ hay tất cả những người tham gia vào đó.
Những mantra sám hối
Như cái tên của chúng cho
thấy, những mantra này được sử dụng để tìm lấy sự tha thứ cho bất cứ lầm lỗi
nào mà ta có thể phạm phải vì cố ý hay vô ý trong khi thực hiện những buổi tế lễ
hay thờ cúng tại gia đình. Hầu hết những nghi lễ Vệ-đà và những phương pháp thờ
cúng chứa đựng một điều khoản cho việc sám hối. Sám hối luôn được thực hiện bởi
vị tu sĩ đứng đầu hay tu sĩ Bà-la-môn, những người tụng đọc các mantra thay mặt
tất cả mọi người tìm cầu điều may mắn và làm cho việc phụng cúng hoàn mãn.
Mantra nghi lễ
Những mantra này được sử
dụng trong những nghi lễ Vệ-đà phức tạp (yajna), những tế lễ hàng ngày (nitya
karma), việc thờ cúng gia đình (puja) hay những bí tích (samskara) chẳng hạn
như thời kỳ mang thai, sinh con, nhập học, kết hôn hoặc qua đời. Những mantra
này hầu hết được rút ra từ các Vệ-đà, hoặc từ Tantra hay từ văn học địa phương.
Tùy vào việc sử dụng của chúng mà chúng có thể là những mantra mở đầu, những
mantra thỉnh mời, những mantra chính, những mantra kết thúc, những mantra tạm
biệt v.v…Những mantra này được đọc bởi một hoặc nhiều tu sĩ hay một người nào
đó. Việc tụng đọc có thể kéo dài hàng giờ, hàng ngày hoặc hàng tháng.
Mantra nhập môn
Theo phong tục, vào lễ nhập
môn (upanayana), một vị thầy hay một người lớn tuổi trong gia đình đọc một vài
âm tiết hay những từ thiêng liêng vào tai của những người nhập môn trẻ để đánh
dấu sự khởi đầu việc học của cậu ta về các Vệ-đà hay sự bắt đầu học tập kiến thức
tâm linh. Những mantra này cũng được sử dụng bởi những vị thầy tâm linh, hay những
đệ tử được chỉ định của ông, để kết nạp những thành viên mới tham gia vào truyền
thống của họ, hoặc là một đệ tử tại gia hoặc là những người thực hành cao hơn.
Những mantra hủy diệt
Những mantra này dành cho
việc gây nên sự thương tổn cho tâm hoặc thân. Có một chi phần đầy đủ về kiến thức
ma quỷ (kshudra vidya) mà nó dành cho mục đích này. Những Vệ-đà cũng chứa đựng
nhiều bài thánh tụng mà chúng được sử dụng cho những mục đích tiêu cực để hủy
diệt đời sống và tài sản hay gây nên những tổn hại tâm linh. Các sử thi và
Purana cho thấy cách các mantra được sử dụng trong chiến tranh để phóng những
vũ khí hủy diệt và mũi tên vào kẻ thù để giết họ, làm cho họ kinh sợ, mê hoặc
hay làm suy yếu đi quyết tâm của họ. Atharvavedagồm
có nhiều mantra mà chúng được sử dụng để giáng sự tổn hại hay hủy diệt vào kẻ
thùcũng như các đối thủ ở trong những mối liên hệ hôn nhân, những vấn đề yêu
đương v.v… Các Vệ-đà cũng có những bài tụng cho việc sử dụng ở những tế lễ thú
vật.
Những khía cạnh tiêu cực của mantra
Ở mặt tiêu cực, những
mantra góp phần đưa đến sự ngu tối và mê tín. Bởi vì tính phổ biến của chúng,
các mantra được những kẻ lang băm vô liêm sĩ và những kẻ lừa gạt tôn giáo sử dụng
để lôi kéo những người cả tin với lời hứa chữa lành bệnh, giải trừ điều không
may, bỏ bùa tình địch, yểm trừ những năng lực xấu ác và thu hút giới giàu có cho
mục đích kiếm tiềnhay những ân huệ cá nhân. Người ta chi trả một số tiền lớn
cho bùa chú, những vòng xuyến được khắc viết những mantra huyền bí để đáp ứng
những mong muốn của họ hay để vượt qua những vấn đề nào đó. Một số người cũng
chìm đắm trong những nghi lễ đẫm máu và những thực hành mê tín, sử dụng mantra,
để đạt lấy những sức mạnh xấu ác cho những mục đích hủy diệt.
Những mantra cần phải được
sử dụng cho sự thịnh vượng của xã hội, trật tự và chuẩn mực của cuộc đời. Chúng
phải được sử dụng như là một sự dâng cúng đến thần linh bởi những người mà họ
thanh khiết và tận tâm, như là nhiệm vụ phục vụ thần linh của họ. Bất kỳ sự lạm
dụng mantra nào với mục đích vị kỷ sẽ tạo ra nghiệp xấu và đưa người ta đến chỗ
sa đọa tinh thần.
Đăng Nguyên dịch
Nguồn: hinduwebsite.com