Tri thị không hoa
tri thi
Tri
thị không hoa
KS. Minh Bình
Trong kinh Viên giác, khi nói về vấn đề giác ngộ
viên mãn, Đức Phật nhấn mạnh vào một chữ Tri: Tri thị không hoa. Tri thị không hoa là biết hết thảy đều như hoa đốm
trong hư không, do mắt bị nhậm mà thấy ra. (Chữ
Thị là một đại từ, hiểu là các pháp. Nhưng từ pháp là một thuật ngữ quá hàm súc
của nhà Phật, nên ở đây tạm nói là hết thảy cho dễ hiểu). Hư không trống rỗng,
mắt bệnh thấy hư không có hoa bay lăng xăng, rõ là ảo giác. Thế giới, muôn loại,
con người, thân và tâm, sanh tử, mọi chuyện cá nhân, gia đình, xã hội… hết thảy
đều là ảo giác. Ta đang ở trong một giấc mộng dài (ngã tại nhất trường mộng), tỉnh dậy chẳng có gì.
Cho
dù mộng dữ hay lành
Đến
khi tỉnh giấc cũng thành không thôi…
Nói tỉnh dậy chẳng có
gì là chẳng còn có những chuyện trong mộng. Chứ tỉnh dậy thì cốt khỉ hoàn cốt
khỉ, Phật vẫn là Phật, mà vũ trụ vẫn sinh thành, hoại diệt như nó vẫn là.
Nên nhớ rằngkhông hoa
là cái thấy của chúng ta, của những kẻ đang bị ảo giác. Không hoa chẳng phải là
chuyện của Phật. Tức là, cũng cuộc sống này, cũng địa cầu này, mà chúng ta lại
thấy nó là Ta-bà, còn các Ngài lại thấy nó là Phật quốc. Thế thì cái thấy nào
đúng? Xin thưa là đừng bận lòng với những cái thấy, đừng vội bảo dĩ nhiên là Phật
đúng còn mình sai.Bởi vì Ta-bà hay Phật quốc chỉ có giá trị là những cái thấy (là kiến phần, phạm vi nhận thức), không
đáng để tranh luận; đại khái là một quả đất, một sân khấu, một bầu không gian...
Điều đáng lưu ý nhất,
là chính nhữngcái thấy về thân tâmbản ngã lại đưa ta đi đến những chốn xa xăm. Trong
kinh Viên giác, phần trả lời cho Bồ-tát
Tịnh Nghiệp, Đức Phật đã chỉ ra sự hình thành của những giấc mộng sanh tử: “Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay do tưởng
vọng mà chấp có ta, người, chúng sanh và thọ mạng. Nhận 4 thứ điên đảo này làm
cái thể của ta, sanh ra 2 cảnh yêu ghét, vậy là thêm một lớp chấp hư vọng. Hai
cái vọng này nương nhau sanh ra nghiệp hư vọng, từ đó thấy có lưu chuyển trong
6 đường.”Thật khốn khổ trong những cuộc lưu chuyển, luân hồi bất tận. Ôi,
những cái thấy và những sự dấn bước nguy hiểm, những giấc mộng dữ mệt nhoài.
Lang
thang làm khách phong trần mãi
Ngày
hết quê xa muôn dặm trường!
Quả thật là đừng bận
lòng với những cái thấy nữa. Vị Nhập lưu không thấy mình là Nhập lưu, vị Vô
sanh không thấy mình là Vô sanh, bởi Thiện Huệ không thấy mình giác ngộ nên được
Phật Nhiên Đăng thọ ký đời sau thành Phật hiệu là Thích Ca, còn Văn Thù do khởi
Phật kiến mà bị đọa vào giữa 2 tòa núi…
Đến phần trả lời câu hỏi
của Bồ-tát Phổ Hiền trong kinh Viên giác,
Đức Phật đã dạy rõ: “Này thiện nam, tất cả
chúng sanh và mọi vật huyễn hóa đều sanh từ diệu tâm viên giác Như Lai.”Nhìn
khách quan, tích cực thì mọi thứ có mặt trên đời này đều không tồi, việc gì
cũng có ý nghĩa của nó, những dòng nhân quả bất tận đều được hình thành từ sức
của diệu tâm. Hễ muốn gì, làm gì thì được nấy: keo kiệt thì nghèo túng để hiểu
được keo kiệt, mất hạnh thì gặp nhiều kẻ mất hạnh, hại người thì gặp người hại,
phóng sanh thì được trường thọ và ít bệnh, vui vẻ hòa đồng thì đến chốn êm đềm,
gai góc thì gặp chỗ ác liệt, không có gì thì vô sự v.v… Nhân quả thật nhiệm mầu,
ắt là do sức của diệu tâm viên giác Như Lai. Cả vũ trụ nhảy múa theo vũ điệu
Hoa nghiêm. “Tất cả các pháp là để đến với Hoa nghiêm”, ngài Minh Đăng Quang từngbảo
như thế.
XưaThiền sư Hoài Hải hành
đạo ở núi Bách Trượng, có một con chồn già đến xin ngài cứu vớt nó. Bởi kiếp
xưa làm Hòa thượng trụ trì ở núi này, có người học đạo đến hỏi rằng: “Bậc đại
tu hành có rơi vào nhân quả không?”, đáp: “Không rơi vào nhân quả.”(Bất lạc nhân quả!). Do lời đáp sai lầm
mà bị đọa làm chồn đã 500 kiếp, thấm thía lắm rồi. Bấy giờ ngài Hoài Hải bảo chồn
hãy hỏi ngài.Chồn hỏi: “Bậc đại tu hành có rơi vào nhân quả không?”, Thiền sư Hoài
Hải đáp: “Chẳng mê mờ nhân quả.” (Bất muội
nhân quả!). Nghe lời dạy chồn liền giác ngộ, thoát kiếp làm thú tinh ranh.
Có nhân là có quả, ứng theo tâm lượng mà thành tướng, lẽ công bằng của diệu
tâm. Nhân quả hiển thị nhiệm mầu, cũng như trò huyễn, mà nói có nói không gì
cũng rơi vào phạm vi của huyễn, còn diệu tâm bất động.
Tri
thị không hoa là nói về cái thấy, cái nhìn, ý nghĩa
cũng như tri vọng. Khi 2 thầy trò nói
về vấn đề tri vọng,Hòa thượng Giác
Ngộ đã hỏi chúng tôi rằng:
– Nói đến tri vọng thì
con dùng tâm gì để tri? Nếu dùng tâm chơn để tri vọng thì tâm đó chưa thật
chơn, bởi tâm chơn không thấy có vọng. Nếu dùng tâm vọng để tri vọng thì đã vọng
càng thêm vọng. Vậy con dùng tâm gì để tri vọng?
Bây giờ, nhớ lại câu hỏi
ngày trước đó của thầy thì nghĩ rằng: Vậy biết vọng không phải là ngồi nhủ vọng,
vọng… Mà biết vọng là giác ngộ được tính chất vọng của những cái biết, không kể
là ngồi hay nằm, hay đi đứng, làm việc... Thân vọng, tâm vọng, muôn loài vọng,
thế giới vọng; mà cũng thân chơn, tâm chơn, muôn loài chơn, thế giới chơn. Cốt
yếu của vấn đề là ở đâu? Chính là ở cái biết: mọi cái biết của ta đều vọng, nó
lấy ta, của ta, mạng số, muôn loài làm kính chiếu soi mọi thứ. Nếu cái biết
không bị nhồi nắn gì hết, tự nhiên sáng tỏ, thì:
Tâm
không vạn sự đều không
Tâm
chơn vạn pháp thảy đồng quy chơn!
Có một vị quan đến hỏi
đạo với thầy Cảnh Sầm ở Trường Sa. Ông hỏi:
– Thưa Hòa thượng, nghe
nói: “Chúng ta hàng ngày dùng nó mà lại không biết nó!”, xin hỏi nó là gì?
Hòa thượng đẩy dĩa xoài
mời khách:
– Xin mời ăn một miếng
đã.
Xơi xong, vị quan lặp lại
câu hỏi. Hòa thượng chỉ tay vào cái dĩa, nhìn vị quan nói:
– Chính là nó, hàng
ngày chúng ta dùng nó mà không biết nó!
Vị quan không hiểu gì cả,
ngài mới ăn nó ư? Kìanó ứng ra mắt, tai, mũi, lưỡi… hàng ngày ai cũng dùng nó
mà chỉ thấy những gì mình muốn thấy. Nếu lấy nó làm mình thì đâu có vọng. Vọng ở
tại chỗ tri, chứ hàng ngày ai cũng dùng nó mà!
Chữ tri trong kinh Viên giác rất giá trị. Đức Phật bảo Bồ-tát
Phổ Hiền: “Tri huyễn tức ly, bất tác
phương tiện. Ly huyễn tức giác, diệc vô tiệm thứ.” Hễ ai biết được huyễn
hóa tức là lìa nó rồi,chẳng cần tạo phương tiện để lìa xa nữa. Khi lìa huyễn
hóa tức là giác vậy, cũng không có thứ lớp tu tiến. Sau khi bỏ hết mọi ảo giác,
vọng tưởng, thì sẽ còn lại cái giác bất động, chứ chẳng phải là không có gì.
Ánh giác đó soi ra sẽ thấy hết thảy đều thanh tịnh: Cái thân thịt hữu hạn, mềm
yếu, chẳng sạch sẽ, là báo ứng của ta, nó chẳng phải là ta. Cái hiểu biết này
kia là duyên theo bóng dáng của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, (lục trần duyên ảnh), chẳng phải là tâm.
Cái hay suy nghĩ cũng chẳng thật là tâm. Diệu tâm bất động, là ta, cùng khắp…
Nói vậy, nhưng Phật
cũng chỉ cách tùy thuận tánh giác cho người có duyên. Trong phần nói về những
chỗ được (sở đắc) của kẻ phàm, các hạng
Bồ-tát và Phật trên nền tảng diệu tâm, Đức Phật đã dạy Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ: “Các vị Bồ-tát và những chúng sanh đời sau
trong tất cả thời không khởi niệm vọng, với các tâm vọng cũng không dứt trừ, ở
cảnh tưởng vọng chẳng thêm biết rõ, với cái không biết rõ cũng chẳng biện chân
thật. Các vị ấytin hiểu, nhận giữ pháp này, không kinh sợ, là người tùy thuận
tánh giác vậy. Người như thế đã từng gieo trồng cội gốc công đức ở vô số Phật,
hiện đời đã là Bồ-tát. Người này sẽ thành tựu được tất cả loại trí như Phật.”.Cách
tùy thuận tánh giác này cũng là một pháp tu. Pháp tu này có căn cứ trên cơ sở đã
ngộ được viên giác diệu tâm không?– Nó được thiết lập trên cơ sở tin hiểu lời
Phật dạy, nhưng không khởi niệm thì ít ai làm nổi.
Rồi Đức Phật cũng dạy
cách tuviên giác. Pháp viên giác vốn bình đẳng, không hai, không tu không chứng,
nhưng trong sự tu hành tiệm tiến thì có vô số phương tiện, mà nói gọn là có 3
cách tu chỉ, quán và thiền-na. Từ 3 cách này phối hợp qua lại thành 25 cách tu viên
giác, 25 luân của Bồ-tát…Tất cả đều căn cứ trên cơ sở đã ngộ được diệu tâm viên
giác Như lai, đã kiến tánh không, đã nhận ra ông Phật trong nhà mình (tức là Kiến tánh khởi tu).
Vậy người trí chưa ngộ
được diệu tâm sẽ tu pháp viên giác như thế nào? Đáp lại câu hỏi đó của Bồ-tát
Viên Giác, Đức Phật đã chỉ cách lập đạo tràng sám hối 21 ngày, rồi nương theo
chư Phật an cư 120 ngày, 100 ngày hoặc 80 ngày;tu giữ tâm thật lặng lẽ (chỉ), hoặc nhớ tưởng Phật (quán), hoặc đếm hơi thở (thiền-na), siêng năng khéo léo, sẽ được
tiêu nghiệp, chứng nghiệm viên giác.
Bài viết này triển khai
một số ýchính trong kinh Viên giác, trong
tinh thần cố gắng học, hiểu và tin theo lời Phật dạy.Cố gắng thức dậy khỏi giấc
mộng sanh tửlà thể hiện thiện chí phấn đấu vươn lên của người học Viên giác.
Viên giác là giác ngộ
viên mãn, là chuyện của Phật. Từ Phật nhìn thì nhân loại đang bị ảo giác, đang
quờ quạng, lầm lẫn. Nên các bậc giác ngộ là Đức Phật và 12 vị Bồ-tát đã khởi bi
tâm, lập thuyết Viên giác, mở ra một con đường sáng cho nhân loại. Viên giác là
con đường tắt, Phật pháp là con đường tắt, cho những ai hiểu và tin theo.
Bởi như loài thú thấp
kém thì có lựa chọn nào khác hơn là sống theo bản năng? Một phần lớn nhân loại
cũng như vậy, chỉ sống với thân thịt và những kinh nghiệm tích lũy được trong
cuộc sống, thì sao lại không nhận thân đó là mình và những hiểu biết đó là mình?
Rồi từ trong khổ đau họ hướng đến hạnh phúc, từ trong bóng tối họ tiến ra ánh
sáng, từ ác họ đi đến thiện. Tại chỗ thiện nhân loại mới tiến hóa vượt bậc được.
Như thế là một quá trình tiệm tiến rất dài lâu. So với quá trình đóthì Phật
pháp là con đường tắt, do những bậc giác ngộ từ bi mở ra cho những người trí.
Viên giác là một học thuyết trong nhiều học thuyết của nhà Phật.