Tinh 
		Vân – Nhã Tuệ dịch
		 
		
		
		Phật giáo truyền thừa hơn 2.600 năm đến nay, đã viết nên trang 
		lịch sử huy hoàng về nhiều mặt, như nghệ thuật, văn hóa, phiên 
		dịch, triết học, trong đó luân lý Phật môn - đạo thầy trò - 
		mối quan hệ Tăng luân không thể thay thế giữa sư phụ với đồ đệ 
		thọ pháp, càng đáng được phát huy, làm rạng rỡ truyền thống.
		
		Từ 
		xưa Phật môn có kiến giải “tam phân sư đồ, thất phân đạo hữu” (ba 
		phần thầy trò, bảy phần bạn đạo). Đứng trên lập trường của 
		người làm thầy, trong tâm lúc nào cũng xem đồ  đệ là bạn đạo, 
		dùng phương thức giáo dục khai sáng, khiến pháp đồ (đồ chúng 
		học pháp) dưới sự dẫn dắt của người thầy, có càng nhiều 
		không gian tự thân khơi ngộ và khai sáng; đứng trên lập trường 
		của người làm trò, không chỉ phụng hành mỹ đức “nhất nhật vi 
		sư, chung thân vi phụ” (một ngày làm thầy, suốt đời làm cha), mà 
		đặc biệt trong thiền môn còn thường nhận được sự chỉ bảo từng 
		câu từng chữ, thì huệ mạng hồi sinh, nhân sinh đổi mới. Ví dụ 
		câu chuyện của Bách Trượng với con chồn già, bằng một chữ nhân 
		quả bất “muội”, khiến nó được vượt qua nghi hoặc hơn 500 năm.1 
		Đạo tràng chùa viện hiện đại, sư phụ không chỉ làm thầy, mà 
		bên trong còn lấy Phật pháp chăm sóc nuôi dưỡng huệ mạng đồ 
		chúng, bên ngoài lấy đạo tràng bồi dưỡng sắc thân đồ chúng, 
		khiến họ chăm học hướng thượng, hoằng pháp lợi sinh, để không 
		lo về sau, lại càng không dễ dàng.
		
		
		Trung Quốc được mệnh danh là “lễ nghi chi bang” (nước của lễ 
		nghi), vậy giữa thầy trò làm thế nào để sống chung với nhau? 
		Hàn Dũ (768-824) từng nói: “Sư giả, sở dĩ truyền đạo, thụ 
		nghiệp, giải hoặc dã.” Nghĩa là, thầy giáo là người truyền 
		thụ đạo lý, phổ biến kiến thức, giải trừ những điều nghi 
		hoặc. Đây là thiên chức (trách nhiệm thiêng liêng) của người 
		thầy, mà thân là đệ tử, phải xem “tôn sư trọng đạo” là bổn 
		phận (trách nhiệm và nghĩa vụ mà bản thân phải tận lực làm). 
		Tuy nhiên, với Đức Phật lại có những khai thị sâu sắc hơn, như
		
		Tứ phần luật nói: “Hòa thượng khán đệ tử, đương như nhi 
		ý; đệ tử khán Hòa thượng, đương như phụ ý. Triển chuyển tương 
		kính, trọng tương chiêm thị, như thị chánh pháp tiện đắc cửu 
		trụ.” Nghĩa là, Hòa thượng đối đãi đồ đệ, giống như cha mẹ 
		đối đãi con cái; đồ đệ cư xử với Hòa thượng, giống như con cái 
		cư xử với cha mẹ. Tương kính nhau, coi trọng nhau, Chánh pháp như 
		thế liền được trụ lâu ở đời. Đạo thầy trò trong cửa Phật, 
		lúc thì như cơn gió mát, lướt nhẹ qua muôn vật, Bồ-đề sinh 
		khởi khắp nơi; lúc thì như sương tuyết, che kín vô minh, khiến 
		phiền não bọc phát vô số. Trong kinh
		
		A-nan vấn sự Phật cát hung, Đức Phật nói: “Sư đệ chi 
		nghĩa, nghĩa cảm tự nhiên, đương tương tín hậu, thị bỉ nhược kỷ; 
		kỷ sở bất hành, vật thí vu nhân. Hoằng sùng lễ luật, huấn chi 
		dĩ đạo, hòa thuận trung tiết, bất tương oán tụng. Đệ chi dữ sư, 
		nhị nghĩa chân thành: Sư đương như sư, đệ tử đương như đệ tử, 
		vật tướng phỉ báng, thận mạc hàm độc, tiểu oan thành đại, 
		hoàn tự thiêu thân.”2 
		Nghĩa là, tình nghĩa thầy trò ân nghĩa tương cảm tự nhiên, tin 
		tưởng nhau sâu đậm, phải xem trong thầy có trò và ngược lại; 
		những điều mình không muốn làm, chớ nên làm cho người khác, tôn 
		giữ rộng truyền lễ nghĩa giới luật, hướng dẫn dạy bảo đạo 
		đức cho trò, hòa thuận trung tiết, không tạo oán hờn kiện tụng 
		nhau. Đệ tử cũng như vậy. Thầy trò ân nghĩa chân thành: thầy 
		phải ra thầy (thầy phải làm tròn bổn phận của thầy), trò 
		phải ra trò (trò phải làm tròn bổn phận của trò), chớ gièm 
		pha nói xấu nhau, thận trọng chớ ôm lòng ác độc tạo nên oán 
		hận, việc bé xé thành to, rồi lại tự thiêu chính mình.
		
		Đức 
		Phật không chỉ dùng ngôn giáo (thuyết giáo - dạy bằng lời - lý 
		thuyết) giáo dục học trò, mà còn dùng thân giáo (giáo dục 
		bằng hành động gương mẫu của mình). Ví dụ: trong định Đức 
		Phật thấy một Tỳ-kheo già bị bệnh, liền tiến về phía trước 
		thăm hỏi, đồng thời tự thân gột rửa thân thể người bệnh ấy. Ở 
		nước Hiền-đề của Ấn Độ, từ già đến trẻ đều cảm động trước lòng 
		từ bi của Đức Phật3. 
		Ưu-bà-ly (Upali) xuất thân từ dòng tộc Thủ-đà-la (Shudra), lúc vì 
		Đức Phật cắt tóc, thông qua chỉ bảo của Đức Phật là làm thế 
		nào để cạo bỏ râu tóc, dần từ cảnh giới Sơ thiền đi vào cảnh 
		giới Tứ thiền. A-na-luật (Aniruddha) – một trong mười đệ tử lớn 
		của Đức Phật, lúc Phật đang giảng kinh, thì ngủ gà ngủ gật, 
		bị Đức Phật quở mắng, từ đó kích khởi lòng tinh tiến hướng 
		đạo, chứng được thần thông thiên nhãn. Để thay đổi thói quen nói 
		dối của La-hầu-la (Rāhula), Đức Phật dùng nước và chậu rửa 
		chân, nghiêm khắc dạy bảo, khiến La-hầu-la về sau trở thành vị Tôn 
		giả “mật hạnh đệ nhất”4. 
		Đức Phật xem đệ tử như con đẻ của mình; đệ tử xem Đức Phật 
		như cha ruột của mình. Lúc Đức Phật dự báo về thời điểm sẽ nhập 
		Niết-bàn (nirvana) của mình, các đệ tử lớn của Ngài như 
		Xá-lợi-phất (Sāriputra), Mục-kiền-liên (Maudgalyāyana) không nỡ 
		chứng kiến cảnh đau buồn khi Đức Phật nhập Niết-bàn nên đã lần 
		lượt nhập diệt trước Đức Phật.
		
		
		“Dưỡng tử đệ như dưỡng chi lan, ký tích học dĩ bồi chi, cánh 
		tích thiện dĩ nhuận chi.” Nghĩa là, nuôi con em như dưỡng cỏ chi 
		và cỏ lan, vừa tích lũy học vấn để bồi dưỡng nó, lại tích 
		thiện tích đức để tưới tẩm vun trồng nó. Bậc thầy xuất thế 
		nên xem việc nuôi dưỡng thiện căn đệ tử, tăng thêm pháp thiện 
		(kusala dharma) làm nội dung chính, như
		
		Nam Hải ký quy nội pháp truyện nói: “Phù giáo sư môn đồ, 
		thiệu long chi yếu, nhược bất tồn niệm, tắc pháp diệt khả 
		kỳ.” Nghĩa là, thầy dạy cho đồ đệ chỗ quan trọng là kế tục 
		phát huy Chánh pháp, khiến cho nó hưng thịnh rộng lớn; nếu 
		không ấp ủ điều này trong suy nghĩ, thì Phật pháp sẽ không mong 
		đợi gì. Vì vậy, việc dạy và học giữa thầy và trò có vai 
		trò ảnh hưởng, thúc đẩy phát triển lẫn nhau, làm gương cho 
		nhau; thậm chí trò có thể giỏi hơn thầy, ưu tú hơn thầy, càng 
		trở thành điểm đặc sắc về đạo thầy trò trong cửa Phật. Ví 
		dụ: Bồ-tát Quán Thế Âm trong quá khứ đã thành Phật hiệu Chánh 
		Pháp Minh Như Lai, vì để xuống trần gian cứu độ chúng sinh, đã 
		tái làm Bồ-tát bổ xứ của Phật A-di-đà (Amitabha). 
		Bàn-đầu-đạt-đa (Bandhudatta) và Cưu-ma-la-thập (Kumarajiva) từng 
		thầy trò Đại Tiểu thừa của nhau, là câu chuyện muôn thuở được 
		người đời sau ca tụng. Cưu-ma-la-thập sau khi đến Trung Quốc, môn 
		đệ hiền triết đông đúc, trong đó Tăng Triệu (384-414) - Tăng nhân 
		thời Đông Tấn tham gia dịch trường của Cưu-ma-la-thập, đảm nhiệm 
		trợ dịch chấp bút, đồng thời hoàn thành rất nhiều kinh chú. 
		Đại sư Huyền Trang (600-664) vì Khuy Cơ (632-682) mà đã hướng dẫn 
		gieo trồng thiện căn duyên Phật, đem ba xe (xe dê, xe nai, xe bò, ý 
		chỉ cho Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Đại thừa) quyền xảo 
		(khéo thuận với thời cơ) hóa độ, đào tạo ra “bách bộ luận sư” 
		của Trung Quốc. giữa Ngũ tổ Hoàng Nhẫn (602-675) và Lục tổ 
		Huệ Năng (638-713), “mê thời sư độ, ngộ thời tự độ” (khi mê muội 
		thì thầy cứu giúp; khi ngộ ra rồi thì mình tự cứu giúp), trở 
		thành giai thoại (chuyện lý thú) trong thiền môn.   
		
		
		  Tình nghĩa giữa thầy trò đôi lúc nặng hơn tình thân của thế 
		gian, như Đàm Ấn đời nhà Tấn bị bệnh nguy cấp, đệ tử Pháp 
		Khoáng bảy ngày bảy đêm vì thầy mà lễ sám thành kính. Ấn 
		Giản nhà Nguyên gặp binh nạn, cũng vẫn theo việc thường ngày mà 
		phụng dưỡng thầy Trung Quán Trảo Công, nhận được sự kính trọng 
		sâu sắc của quân nhà Nguyên. Pháp Ngộ nhà Tấn vì đệ tử của 
		mình uống rượu, chỉ bị phạt cho qua chuyện, mà chưa bị đuổi ra 
		khỏi sư môn5, 
		nhận được gậy (bằng cây mận gai) mà thầy Đạo An gửi tới, thế 
		là Pháp Ngộ gõ chùy triệu tập đại chúng, dùng gậy tự đánh 
		phạt mình để lãnh hội lời giáo huấn của thầy (Đạo An). Thị 
		giả Bố Mao theo Thiền sư Điểu Khoa mười sáu năm mới nhận được 
		chỉ bảo, liễu ngộ mặt mũi (vốn có) chính mình. Hoài Chí nhà 
		Tống nghiêm cẩn tuân theo những lời di huấn của thầy Chân Tịnh 
		Khắc Văn, quyết từ chối trụ trì dẫn chúng, quẳng bỏ danh lợi 
		sau lưng. Một câu làm thầy, kiên định có thể “vén mây thấy mặt 
		trời”, trừ bỏ một khối hoài nghi, tình nghĩa học trò xem thầy 
		như là cha, cũng không nén nổi khiến người ta thể hiện cảm 
		động.    
		
		
		Thầy đối xử với học trò, bằng phương thức ngôn ngữ nhẹ nhàng 
		yêu thương cố nhiên có thể bồi dưỡng long tượng (người tu hành 
		hùng dũng và có đại lực) Phật môn, nhưng mà giáo dục công án6 
		không hẳn là không thể pháp khí luyện mài7. 
		Mã-nhĩ-ba (Mar-pa, 1012-1097) - người sáng lập phái Già-nhĩ-cư 
		(Bkah’ brgyud pa) Tây Tạng, để thanh tịnh hắc nghiệp (ác nghiệp) 
		của cao tăng Mật-lặc-nhật-ca (Mi la ras pa, 1040-1123), đã không 
		ngừng dành đủ loại khổ hạnh mãi cho đến lúc thành tựu đạo 
		nghiệp (sự nghiệp tu đạo). Bồ-đề-đạt-ma đến Trung Quốc, Huệ Khả 
		vì cầu đại pháp đã chặt tay đứng trong tuyết, cuối cùng đưa 
		tới đắc pháp, trở thành Nhị tồ Thiền tông.
		
		Thái Bình ngự lãm nói: “Sư giả, phát mông chi cơ, học 
		giả hữu sư, diệc như thụ chi hữu căn dã.” Tức thầy là người 
		chỉ dạy những kiến thức nền tảng, người học cần có thầy, 
		cũng như cây cần có gốc rễ vậy. Lại như kinh
		
		Trung tâm nói: “Đạo thành nãi tri sư ân.” Tức đạo có 
		thành thì phải biết ơn thầy. Ở trong Phật môn, giáo dục “công 
		án” so với “ái ngữ” là nhanh hơn, không dùng pháp khí thì không 
		thể vâng nhận (thuận thụ). Người thầy sử dụng điều này nuôi 
		nấng bồi dưỡng đệ tử, làm cho đạt tới thánh cảnh. Đệ tử một 
		lòng tin tưởng kiên cố để đền báo. Tình nghĩa vi diệu giữa 
		thầy trò như vậy, quả thực không phải cứ là kẻ phàm phu chúng 
		sinh nào cũng có thể hiểu được. 
		
		
		Phật giáo là tôn giáo coi trọng giáo dục. Đức Phật được tôn 
		là đạo sư trời người, giỏi ở việc giáo hóa chúng sinh. Nguyên 
		tắc giáo dục đệ tử của Ngài chủ yếu là khai thông trí tuệ, gợi 
		mở Phật tính, bởi muốn đáp ứng các loại căn cơ chúng sinh mà 
		có phương tiện thiện xảo khác nhau. Vì vậy khi giáo dục đệ 
		tử, Tổ sư các triều đại cũng đều tuân theo tinh thần của Đức 
		Phật, mở rộng các phương pháp giáo dục khác nhau cho các nhà. 
		Từ truyện cao tăng qua các triều đại đến công án thiền, ghi 
		chép cách truyền tâm ấn giữa thầy và trò, cũng như “giao phong 
		khả tri” của thiền cơ, trông như vô tình, kỳ thực là đại hữu 
		tình. Đạo thầy trò trong Phật môn do đó là rất rõ ràng.    
		
		
		
		 Nguồn: Tinh Vân (2008),
		
		Phật giáo và thế tục, Nxb Từ thư Thượng Hải, tr.137-139
		
		
		         
		
		1 Bất muội nhân quả, là cơ duyên đối 
		thoại giữa con con chồn và Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải.
		Thung dung lục
		mẩu 
		thứ 8: “Bách Trượng lên nhà giảng, thường có một ông già đến nghe pháp, 
		nghe xong, theo mọi người ra về. Một hôm, ông già không về, Bách 
		Trượng bèn hỏi: ‘Ai đứng đó?’ Ông già đáp: ‘Vào thời Đức Phật Ca-diếp 
		xưa kia, tôi đã từng ở núi này. Có người đến học đã hỏi: Bậc đại tu hành 
		có còn rơi vào nhân quả nữa không? Tôi trả lời: Không rơi vào nhân quả. 
		Cũng vì câu nói ấy mà tôi đã phải đọa làm thân chồn hoang 500 kiếp rồi. 
		Nay xin Hòa thượng thay cho một chuyển ngữ.’ Bách Trượng nói: ‘Chẳng 
		lầm nhân quả.’ Với câu nói này, ông già đại ngộ.” Ông già nhờ ngài 
		Bách Trượng thay cho chuyển ngữ “bất muội nhân quả” mà tiêu sạch cái 
		mê muội ở quá khứ, rồi ngay ở câu nói đó mà đại ngộ, thoát được thân 
		chồn hoang. Xưa nay, trong Thiền gia phần nhiều gọi những kẻ bác không 
		có nhân quả mà lại tự cho mình là người thấu suốt nhân quả là “dã hồ 
		thiền” (thiền chồn hoang).
		2 Trong các kinh 
		khác Đức Phật cũng có khai thị đạo về thầy trò, như kinh
		Trường A-hàm: “Đệ tử kính 
		phụng sư trưởng, lại có năm việc. Năm việc ấy là gì? (1) Hậu 
		hạ cung cấp những điều cần; (2) Kính lễ cúng dường; (3) Tôn 
		trọng quý mến; (4) Thầy có dạy bảo điều gì thì kính thuận 
		không trái nghịch; (5) Theo thầy nghe pháp, khéo nhớ không quên. 
		Này Thiện Sinh! Kẻ làm đệ tử phải thờ kính sư trưởng với năm 
		điều trên. Sư trưởng cũng có năm điều đối với đệ tử. Thế nào 
		là năm? (1) Dạy dỗ có phương pháp; (2) Dạy những điều chưa nghe; 
		(3) Giải nghĩa rõ ràng những điều trò hỏi; (4) Chỉ cho bạn 
		hiền; (5) Dạy tất cả những điều mình biết không hối tiếc. Này 
		Thiện Sinh! Nếu đệ tử kính thuận cung phụng sư trưởng, thì 
		phương ấy được an ổn, không có điều lo sợ.” Kinh
		Phật thuyết Thi-ca-la việt lục 
		phương lễ nói: “Được xem là đệ tử thờ thầy, cần có năm 
		việc: (1) Cung kính tán thán; (2) Nhớ ơn thầy; (3) Nghe lời thầy 
		dạy; (4) Nhớ nghĩ không chán; (5) Nên theo và khen ngợi thầy. 
		Thầy dạy đệ tử cũng có năm việc: (1) Phải làm cho hiểu biết; 
		(2) Làm cho đệ tử mình hơn đệ tử khác; (3) Muốn làm cho điều 
		đã biết không quên; (4) Giảng giải những điều hoài nghi khó 
		hiểu; (5) Muốn khiến trí tuệ đệ tử hơn thầy.”   
		3 Tham khảo
		Phật-đà thiên thuộc
		Phật giáo tùng thư.
		4 Mật hạnh, tức là gìn giữ giới 
		hạnh vi tế (nhỏ bé), cũng tức là ba ngàn oai nghi, tám vạn tế 
		hạnh, có thể phòng giữ vô khuyết. Về Ưu-bà-ly, A-na-luật, và La-hầu-la, 
		xin đọc Thập đại đệ tử truyện.
		5 Uống rượu là 
		phạm đại giới căn bản, lẽ ra phải đuổi ra khỏi chùa viện, 
		nhưng Pháp Ngộ vì nghĩ thương đệ tử của mình chỉ phạm lần 
		đầu, với lại vẫn chưa có những hành vi vượt quá khuôn phép, 
		nên chỉ quở trách một trận rồi thôi. Sau khi việc đó xảy ra, 
		lan đến tai Đại sư Đạo An, thầy của Pháp Ngộ.
		Đạo An nhờ người mang một cây gậy đến Pháp Ngộ, thâm ý 
		là trách Pháp Ngộ dạy đồ đệ không nghiêm, giữ gìn giới pháp 
		chưa đủ nghiêm túc.
		6 Phương thức mà 
		Tổ sư Thiền tông tiếp hóa đệ tử. Khi bậc thầy thiền gia hướng 
		dẫn người học, để ngăn chặn tận gốc những suy nghĩ không có 
		căn cứ hoặc khảo nghiệm ngộ cảnh, hoặc dùng gậy đánh, hoặc 
		thét lớn một tiếng, để ám thị (ra hiệu ngầm, gợi ý) và khai 
		ngộ đối phương. 
		7 Chỉ có thể tu 
		hành Phật đạo, người có thể nhận đại pháp (pháp thâm sâu đại 
		thừa), không phải chỉ cái đùi dùng gõ trong các buổi khóa 
		tụng trên điện đường.