SỐNG, CHẾT,
														
														TÁI SINH,
														
														TRUNG ẤM, CÚNG 
														VONG
														
														
														
														Nguyên Giác
														 
														Sinh và tử,
														
														tái sinh và
														
														trung ấm, cách 
														nào để cúng vong… đó là 
														các
														
														quan tâm lớn của 
														nhiều
														
														Phật tử. Bài viết 
														này sẽ
														
														dựa vào Kinh để 
														khảo sát những
														
														vấn đề đang được
														
														Phật tử
														
														quan tâm và
														
														thảo luận.
														
														
														Trước tiên, cần 
														nêu rõ rằng, những chữ 
														như
														
														tái sinh, hay
														
														trung ấm thân (thời 
														gian
														
														sau khi chết
														
														trong đời này mà 
														chưa thọ thân của
														
														đời sau) có thể 
														gây nhầm lẫn là có một 
														“cái tôi” nào đang
														
														luân hồi; thực sự 
														vốn không hề có “cái 
														tôi” nào hết. Nên nhìn 
														rằng
														
														chúng ta như một 
														chùm bọt sóng (sắc, thọ, 
														tưởng, hành, thức) đang 
														trôi trên dòng sông
														
														tham ái,
														
														liên tục
														
														biến đổi trên 
														dòng sông đó. Không nên 
														nhìn như có cái gì gọi 
														là “cái đang là” mà nên 
														nhìn như chỉ có “cái 
														đang hình thành”; chỉ 
														như thế mới không bị 
														vướng vào
														
														chấp trước rằng 
														các
														
														thủ uẩn là ngã 
														hay có gì như là thực. 
														Dòng sông
														
														vô thường trên
														
														thân tâm
														
														chúng ta vẫn đang 
														chảy xiết;
														
														Đức Phật có khi 
														gọi tượng hình là trận 
														lũ, và thúc giục
														
														mọi người hãy 
														vượt trận lũ, tức là 
														vượt
														
														tham ái, để qua 
														bờ
														
														giải thoát.
														Khi
														
														trí thức phương 
														Tây (Hoa Kỳ và Châu Âu)
														
														tin theo
														
														Phật giáo, nhiều 
														người chọn
														
														thái độ xem
														
														Phật giáo đa dạng 
														như bàn tiệc,
														
														tùy ý
														
														lựa chọn. Thậm 
														chí, nhiều vị tự nhận
														
														lập trường
														
														thế tục 
														(secular), xem
														
														Phật giáo chỉ như 
														triết lý sống, gạt bỏ cả 
														chuyện
														
														tái sinh, bất kể
														
														Đức Phật nói 
														trong kinh rất nhiều về
														
														luân hồi và thúc 
														giục
														
														học nhân phải
														
														tu học khẩn cấp 
														như lửa cháy trên đầu để
														
														giải thoát. Trong 
														khi đó, một số
														
														trí thức phương 
														Tây chỉ chọn
														
														Thiền tập bổ sung 
														vào
														
														đức tin
														
														tôn giáo đã có 
														của họ.
														Thực sự, chính ngay 
														trong các
														
														tôn túc
														
														tăng ni cũng tự 
														có
														
														lựa chọn
														
														tùy ý kiểu
														
														Phật giáo Bàn 
														Tiệc;
														
														thí dụ, nhiều vị
														
														tăng ni không tin 
														hoặc không
														
														quan tâm về
														
														năng lực
														
														thần chú như các 
														vị theo
														
														Mật Tông, tuy 
														rằng trong
														
														Trường Bộ, có 
														Kinh DN 32 ghi bài
														
														thần chú khuyên 
														là
														
														tứ chúng nên học 
														thuộc để được
														
														hộ trì, trích bản 
														dịch
														
														Hòa Thượng Thích
														
														Minh Châu (sẽ 
														viết tắt: bản TMC):
														“…Tôn giả, Hộ Kinh 
														Āṭānāṭiya này
														
														che chở,
														
														hộ trì, ngăn 
														không cho ai làm hại các 
														vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni,
														
														Nam cư sĩ,
														
														Nữ cư sĩ và khiến 
														các vị này sống
														
														an lạc. Khi một 
														vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni,
														
														Nam cư sĩ,
														
														Nữ cư sĩ nào sẽ 
														học Hộ Kinh Āṭānāṭiya 
														này một cách
														
														chín chắn,
														
														rõ ràng, nếu có 
														loài
														
														phi nhân nào… [quấy 
														nhiễu thì]… các 
														hàng
														
														phi nhân sẽ dìm 
														đầu vị ấy xuống. Này
														
														Tôn giả, các hàng
														
														phi nhân sẽ chẻ 
														đầu vị ấy ra làm bảy 
														mảnh.” (1)
														Bài viết này sẽ dẫn 
														kinh, kèm với các nối 
														kết (link) để dễ
														
														tham khảo, thứ tự 
														chỉ là đọc tới đâu, viết 
														tới đó, vì vốn học của 
														người viết không nhiều 
														dể nhìn
														
														toàn diện. Người 
														viết xin
														
														thành kính
														
														sám hối trước
														
														Tam Bảo về tất cả 
														những bất toàn.
														.. o 
														..
														Câu hỏi: Có 
														nên cúng tế, làm các
														
														nghi lễ
														
														bố thí cho người 
														chết hay không?
														
														
														Đức Phật
														
														trả lời câu hỏi 
														này trong Kinh AN 
														10.177, trích bản TMC:
														“Thưa
														
														Tôn giả Gotama,
														
														bố thí có
														
														lợi ích gì cho 
														các
														
														bà con huyết 
														thống đã chết không? Các
														
														bà con huyết 
														thống đã chết có được
														
														thọ hưởng
														
														bố thí ấy hay 
														không?
														—Này Bà-la-môn, nếu 
														có
														
														tương ưng xứ, 
														thời có
														
														lợi ích, không có
														
														lợi ích
														
														nếu không có
														
														tương ưng xứ…
														(…)—Thưa
														
														Tôn giả Gotama, 
														nếu
														
														bà con huyết 
														thống đã chết, không 
														sanh vào chỗ ấy, và các
														
														bà con huyết 
														thống khác cũng không 
														sanh vào chỗ ấy, thời ai 
														hưởng
														
														bố thí ấy?
														—Không có
														
														trường hợp ấy, 
														không có cơ hội ấy, này 
														Bà-la-môn, rằng chỗ ấy 
														có thể trống không trong 
														một
														
														thời gian dài, 
														không có người
														
														bà con huyết 
														thống đã chết. Nhưng này 
														Bà-la-môn, người
														
														bố thí không phải 
														không có hưởng quả.” 
														(2)
														.. o 
														..
														Câu hỏi: 
														Cúng tế người chết có 
														phải vô ích?
														Ngay cả không
														
														tương ưng xứ, 
														cũng vẫn sinh ra
														
														ruộng phước (dẫn 
														tới
														
														ruộng phước gọi 
														là đạt thẩn). Trong
														
														Tạp A Hàm, Kinh 
														1041, bản dịch của hai 
														thầy Tuệ Sỹ & Thích Đức 
														Thắng, trích:
														“Bà-la-môn
														
														bạch Phật: Thưa 
														Cù-đàm, nếu con vì
														
														tín tâm
														
														bố thí cho người
														
														thân tộc, nhưng 
														họ không sanh vào trong 
														chốn Nhập xứ
														
														ngạ quỷ và cũng 
														không có các
														
														thân tộc
														
														quen biết khác 
														sanh vào chốn Nhập xứ
														
														ngạ quỷ, thì
														
														thức ăn do
														
														lòng tin
														
														bố thí đó ai sẽ 
														hưởng?
														
														
														Phật bảo 
														Bà-la-môn:
														
														Giả sử ông vì 
														những
														
														thân tộc
														
														quen biết mà
														
														bố thí, nhưng họ 
														không sanh vào trong 
														chốn Nhập xứ
														
														ngạ quỷ và lại 
														cũng không có những 
														người
														
														quen biết khác 
														sanh vào chốn
														
														ngạ quỷ, thì việc
														
														bố thí do
														
														lòng tin, tự mình 
														sẽ được phước.
														
														Của bố thí do
														
														lòng tin của 
														người
														
														thí chủ đó, sẽ 
														không mất đạt-thẩn.” 
														(3)
														.. o 
														..
														Câu hỏi: Có 
														bao giờ gặp lại người đã 
														chết như khi họ còn 
														sống?
														Không gặp lại được. 
														Do vậy,
														
														Đức Phật luôn 
														luôn
														
														hối thúc
														
														tu hành khẩn cấp 
														và chớ nên giữ
														
														nỗi buồn
														
														xa lìa người 
														thân, Kinh Snp 3.8,
														
														trích dịch:
														“Khi thấy một thi 
														thể, nên biết rằng, 
														‘Người này sẽ không gặp 
														mình nữa đâu.’ Y hệt như 
														lửa trong ngôi nhà cháy 
														bị nước
														
														dập tắt, một 
														người
														
														trí tuệ, học 
														nhiều và
														
														nhạy cảm nên 
														nhanh chóng
														
														xua đuổi
														
														nỗi buồn khởi 
														dậy, y hệt gió thổi bạt 
														đi một mảnh bông gòn.”
														(4)
														.. o 
														..
														Câu hỏi: 
														Khi đã chết, không ai 
														làm
														
														hồi sinh được?
														Đúng vậy. Do vậy,
														
														Đức Phật dạy rằng 
														thân người là quý, và
														
														quan tâm lớn nhất 
														là phải tu
														
														giải thoát. Trong
														
														Kinh Pháp Cú,
														
														Bài Kệ 114 viết: 
														“Sống 100 năm
														
														trong đời mà 
														không
														
														nhận ra
														
														Niết Bàn, không 
														bằng một ngày
														
														trong đời của 
														người
														
														nhận ra
														
														Niết Bàn.”
														Phần Tích truyện cho
														
														bài kệ này kể về
														
														cuộc đời
														
														Ni trưởng 
														Kisagotami. Nguyên là vợ 
														của một
														
														trưởng giả thành 
														Savatthi, khi đứa con 
														trai
														
														duy nhất chết, bà
														
														tuyệt vọng, đi 
														hỏi xem có ai có thể 
														giúp con bà
														
														sống lại.
														
														Nỗi buồn lớn tới 
														nổi làm bà
														
														mất trí. Một 
														người nói với bà rằng 
														hãy tới gặp
														
														Đức Phật.
														
														Đức Phật noi rằng 
														ngài có thể làm đứa bé  sống 
														lại, nếu bà tìm 
														được các hạt cải 
														(mustard) trắng từ một
														
														gia đình chưa 
														từng có ai qua đời. Bà 
														ôm đứa con trước ngực, 
														đi gõ cửa nhà này sang 
														nhà kia,
														
														tuyệt vọng vì 
														không thể
														
														tìm ra nhà ai 
														chưa từng có người thân 
														chết. Bà
														
														nhận ra rằng 
														không có nhà nào
														
														thoát khỏi
														
														nỗi buồn người 
														thân từ trần. Bà đưa xác 
														con vào rừng,
														
														trở về trình với
														
														Đức Phật, và
														
														Đức Phật nói rằng 
														cái chết tới với tất cả
														
														chúng sinh và 
														trước khi lòng tham 
														người ta
														
														thỏa mãn, cái 
														chết tới mang họ đi. Bà 
														nghe như thế, tức khắc
														
														đắc quả
														
														Dự Lưu, xin
														
														xuất gia. Và rồi 
														một
														
														thời gian sau, bà
														
														đắc quả
														
														A La Hán.
														
														
														Câu chuyện trên 
														chỉ có trong Luận thư, 
														phần
														
														chú giải
														
														Pháp Cú, không có 
														trong kinh nào khác, và 
														do vậy có
														
														học giả nêu
														
														nghi vấn là 
														chuyện kể được thêm vào, 
														vì Tích truyện trong 
														Luận thư
														
														xuất hiện sau
														
														Kinh Pháp Cú 
														khoảng 700 năm. Thêm 
														nữa, người ta khó
														
														hình dung rằng
														
														Đức Phật khuyên 
														một bà mẹ đang ôm xác 
														con hãy tới gõ cửa các 
														nhà trong thành phố để 
														hỏi xin hạt cải trắng… 
														một công việc đòi rất 
														nhiều
														
														thể lực.
														Trong khi đó, Kinh SN 
														5.3 có nói về
														
														Ni trưởng 
														Kisagotami trong khi
														
														ngồi thiền dưới 
														một gốc cây thì bị
														
														Ác Ma  xuất 
														hiện, quậy phá, 
														nhắc rằng bà từng khóc 
														sướt mướt khi đứa con 
														trai chết.
														
														Ni trưởng 
														Kisagotami
														
														trả lời
														
														Ác Ma rằng bà đã
														
														chinh phục đạo 
														binh
														
														Tử Thần rồi, 
														không còn
														
														nỗi buồn nào nữa 
														hết. (5)
														.. o 
														..
														Câu hỏi: Có 
														phải
														
														ái dục làm cho 
														tâm
														
														xao động để
														
														chúng sanh
														
														luân hồi theo 
														nghiệp?
														Trong Kinh SN 1.57, 
														bản dịch TMC:
														“—Cái gì sanh thành 
														người? Cái gì luôn dong 
														ruỗi? Cái gì chịu luân 
														hồi? Cái gì người nương 
														tựa?
														—Ái dục sanh thành 
														người,
														
														Chính tâm luôn 
														dong ruỗi,
														
														Chúng sanh chịu
														
														luân hồi,
														
														Chính nghiệp, 
														người nương tựa.” (6)
														.. o 
														..
														Câu hỏi: 
														Làm sao để
														
														tái sinh vào cõi 
														chư thiên?
														Trong Kinh AN 8.36, 
														bản dịch TMC:
														“Ở đây, này các 
														Tỷ-kheo, có hạng người
														
														căn bản làm phước 
														do
														
														bố thí trên một 
														quy mô to lớn,
														
														căn bản làm phước 
														do
														
														giới đức trên một 
														quy mô to lớn, nhưng 
														không
														
														đạt được
														
														căn bản làm phước 
														do
														
														tu tập. Người ấy, 
														sau khi thân hoại
														
														mạng chung, được 
														sanh cọng trú với
														
														chư Thiên ở
														
														Tam thập Tam thiên. 
														Tại đây, này các 
														Tỷ-kheo,
														
														Thiên chủ Sakka 
														sau khi làm thật nhiều
														
														căn bản
														
														phước nghiệp do
														
														bố thí, sau khi 
														làm thật nhiều
														
														căn bản
														
														phước nghiệp do
														
														giới đức,
														
														vượt qua Bốn
														
														thiên vương trên 
														mười điểm: tuổi thọ
														
														chư Thiên, dung 
														sắc
														
														chư Thiên,
														
														an lạc
														
														chư Thiên,
														
														danh tiếng
														
														chư Thiên,
														
														Tăng thượng lực
														
														chư Thiên, thiên 
														sắc,
														
														thiên hương,
														
														thiên vị, thiên 
														xúc.” (7)
														.. o 
														..
														Câu hỏi: Có 
														phải cách
														
														bố thí
														
														tốt hơn phẩm vật 
														bố thí?
														Biết cách
														
														bố thí sẽ được
														
														tái sinh vào
														
														cõi trời. Kinh DN 
														23 kể về cách
														
														bố thí, bản dịch 
														TMC:
														“Rồi
														
														Tôn giả Gavampati
														
														đi vào trong
														
														thế giới
														
														loài Người và nói 
														như sau: “Hãy
														
														bố thí một cách 
														hoàn bị. Hãy
														
														bố thí với tự tay 
														mình làm. Hãy
														
														bố thí một cách 
														có suy tư. Hãy
														
														bố thí các đồ 
														không phế thải. Tôn chủ 
														Pāyāsi, vì
														
														bố thí không hoàn 
														bị, vì
														
														bố thí không tự 
														tay mình làm, vì
														
														bố thí không có 
														suy tư, vì
														
														bố thí đồ phế 
														thải, sau khi thân hoại
														
														mạng chung, được 
														sanh
														
														nhập chúng với
														
														Bốn Đại
														
														Thiên vương, 
														trong cung điện trống 
														không của Serisaka. Còn 
														thanh niên Uttara, bị bỏ 
														qua trong một cuộc
														
														bố thí này, vì đã
														
														bố thí một cách 
														có hoàn bị, vì đã
														
														bố thí với tự tay 
														mình làm, vì đã
														
														bố thí một cách 
														suy tư, vì đã
														
														bố thí với các đồ 
														không phế thải, sau khi 
														thân hoại
														
														mạng chung, được 
														sanh lên
														
														thiện thú,
														
														Thiên giới,
														
														nhập chúng với
														
														chư Thiên ở Tam 
														thập tam thiên”…” (8)
														.. o 
														..
														Câu hỏi: Có 
														thể đoán được người này 
														hay người kia sẽ
														
														tái sanh về đâu?
														Đúng vậy. Muốn biết 
														người này, người kia
														
														tái sanh vào cõi 
														dữ hay lành, chỉ cần 
														nhìn về
														
														thân khẩu ý của 
														họ mà đoán. Kinh SN 6.57 
														ghi về hai đường
														
														tái sinh
														
														lành dữ, theo bản 
														dịch TMC:
														“Người ấy do làm
														
														ác hạnh về thân, 
														về lời, về ý, sau khi 
														thân hoại
														
														mạng chung sanh 
														vào cõi dữ,
														
														ác thú, đọa xứ,
														
														địa ngục... Người 
														ấy do làm
														
														thiện hạnh về 
														thân, về lời, về ý, sau 
														khi thân hoại
														
														mạng chung sanh 
														vào cõi lành,
														
														Thiên giới,
														
														thế giới này...”
														(9)
														.. o 
														..
														Câu hỏi: Ai 
														tái sanh?
														Câu hỏi không
														
														thích nghi. Không 
														nên nhìn như có ai, có 
														tôi, hay có người đang
														
														sanh diệt, vì 
														thực sự không có cái gì 
														là ai, là tôi, hay là 
														người. Chỉ nên nhìn là 
														có mắt thấy và có
														
														nhãn thức đang 
														sanh diệt…
														
														tương tự với tai 
														nghe, mũi ngửi, lưỡi 
														nếm, thân chạm xúc, ý tư 
														lường đang
														
														sanh diệt theo 
														luật
														
														duyên khởi. Kinh 
														SN 35.33 viết, trích bản 
														TMC:
														“—Này các Tỷ-kheo, 
														tất cả phải bị sanh. Và 
														này các Tỷ-kheo, thế nào 
														là tất cả phải bị sanh?
														Mắt, này các Tỷ-kheo, 
														phải bị sanh. Các sắc 
														phải bị sanh.
														
														Nhãn thức phải bị 
														sanh. Nhãn xúc phải bị 
														sanh. Do duyên nhãn xúc 
														khởi lên
														
														cảm thọ gì, lạc, 
														khổ hay bất khổ
														
														bất lạc;
														
														cảm thọ ấy phải 
														bị sanh … Tai … Mũi … … 
														Lưỡi … Thân … Ý phải bị 
														sanh. Các pháp phải bị 
														sanh.
														
														Ý thức phải bị 
														sanh. Ý xúc phải bị 
														sanh. Do duyên ý xúc 
														khởi lên
														
														cảm thọ gì, lạc, 
														khổ hay bất khổ
														
														bất lạc;
														
														cảm thọ ấy phải 
														bị sanh.
														Thấy vậy, này các 
														Tỷ-kheo, bậc
														
														Đa văn Thánh
														
														đệ tử
														
														nhàm chán đối với 
														mắt … ” … không còn trở 
														lui
														
														trạng thái này 
														nữa”. (10)
														.. o 
														..
														Câu hỏi: Vì 
														sao tái sanh?
														Chỉ vì
														
														tham ái, vì
														
														ưa thích, vì vui 
														với cái được thấy (được 
														nghe, được ngửi…) do vậy
														
														khởi tâm có cái 
														tôi
														
														ưa thích và dính 
														mắc vào cái được tôi ưa 
														thich (ngã,
														
														ngã sở), từ đó 
														hình thành nên căn nhà 
														(thân/tâm) của
														
														chúng sanh. Kinh 
														SN 23.2, trích bản TMC:
														“Tôn giả Rādha bạch
														
														Thế Tôn: “Chúng 
														sanh, chúng sanh”, bạch
														
														Thế Tôn, được nói 
														đến như vậy.
														
														Cho đến như thế 
														nào, bạch
														
														Thế Tôn, được gọi 
														là chúng sanh?
														—Này Rādha, dục nào 
														(chanda), tham nào, hỷ 
														nào,
														
														khát ái nào đối 
														với sắc,
														
														triền phược ở 
														đấy,
														
														triền miên ở đấy, 
														do vậy gọi là
														
														chúng sanh 
														(sattà)… thọ … tưởng … 
														các hành … Dục nào, tham 
														nào, hỷ nào,
														
														khát ái nào đối 
														với thức,
														
														triền phược ở 
														đấy,
														
														triền miên ở đấy, 
														do vậy gọi là
														
														chúng sanh.
														
														
														Ví như, này 
														Rādha, các đứa con trai 
														hay các đứa con gái chơi 
														với cái nhà bằng đất.
														
														Cho đến khi đối 
														với những nhà bằng đất 
														ấy, lòng tham chưa
														
														thoát ly,
														
														lòng dục chưa
														
														thoát ly, lòng ái 
														chưa
														
														thoát ly, lòng 
														khát chưa
														
														thoát ly, lòng 
														nhiệt tình chưa
														
														thoát ly, lòng
														
														khát ái chưa
														
														thoát ly,
														
														thời chúng còn 
														tham dính vào, thích 
														chơi,
														
														chất chứa, và đắm 
														trước những nhà bằng đất 
														ấy.” (11)
														.. o 
														..
														Câu hỏi: 
														Cái gì
														
														nuôi dưỡng chúng 
														sanh?
														Đó là bốn loại
														
														thức ăn: thứ 
														nhất,
														
														thực phẩm nuôi
														
														thân mạng (edible 
														food); thứ nhì,
														
														xúc thực, tức là
														
														thế giới trong 
														tâm hình thành từ tiếp 
														cận căn-cảnh-thức 
														(sense-impressions); thứ 
														ba, tư
														
														niệm thực hay là 
														hành (volitions); thứ 
														tư, là
														
														thức thực 
														(consciousness). Nhưng 
														tất cả đều do ái mà ra. 
														Kinh SN 12.11, bản dịch 
														TMC viết, trích:
														“Này các Tỷ-kheo, có 
														bốn loại đồ ăn này khiến 
														cho
														
														các loại sanh vật 
														hay
														
														các loại
														
														chúng sanh được
														
														tồn tại hay khiến 
														cho
														
														các loại sắp sanh 
														thành được thọ sanh. Thế 
														nào là bốn? Một là
														
														đoàn thực hoặc 
														thô hoặc tế, hai là
														
														xúc thực, ba là 
														tư
														
														niệm thực, bốn là
														
														thức thực. Này 
														các Tỷ-kheo, bốn loại đồ 
														ăn này khiến cho
														
														các loại sanh vật 
														hay khiến cho
														
														các loại
														
														chúng sanh được
														
														tồn tại hay khiến 
														cho
														
														các loại sắp sanh 
														thành được thọ sanh.
														Và này các Tỷ-kheo, 
														bốn loại đồ ăn này do 
														cái gì làm nhân, do cái 
														gì
														
														tập khởi, do cái 
														gì tác sanh, do cái gì 
														làm cho hiện hữu? Bốn 
														loại đồ ăn này do ái làm 
														nhân, do ái
														
														tập khởi, do ái 
														tác sanh, do ái làm
														
														hiện hữu.”(12)
														.. o 
														..
														Câu hỏi: Có 
														thể tiếp cận
														
														thế giới mà không 
														đắm nhiễm, tức là
														
														vô sanh, hay 
														không?
														Có thể, đó là khi
														
														thế giới 
														căn-cảnh-thức dựng lập, 
														mà không xem đó là
														
														thức ăn. Chữ 
														“sắc” trong kinh dẫn sau 
														là
														
														thế giới của 
														“sắc, thanh, hương, vị, 
														xúc, pháp” (cái được 
														thấy, cái được nghe, cái 
														được ngửi, cái được nếm, 
														cái được chạm xúc, cái 
														được tư lường
														
														suy nghĩ) –
														
														nếu không
														
														say đắm vị ngọt 
														của sắc (những cái thấy 
														nghe hay biết…) thì 
														không bị đắm chìm.
														
														Tương tự với thọ, 
														tưởng, hành, thức.
														Kinh SA 13, bản dịch 
														của hai thầy Tuệ Sỹ & 
														Thích Đức Thắng, trích:
														“Nếu
														
														chúng sanh nào 
														không nếm vị ngọt của 
														sắc thì sẽ không nhiễm 
														đắm sắc. Vì
														
														chúng sanh nếm vị 
														ngọt của sắc cho nên bị 
														đắm trước.
														“Cũng vậy,
														
														chúng sanh nào 
														không nếm vị ngọt của 
														thọ, tưởng, hành, thức 
														thì
														
														chúng sanh ấy 
														không bị đắm nhiễm thức. 
														Vì
														
														chúng sanh nếm vị 
														ngọt của thọ, tưởng, 
														hành, thức cho nên
														
														chúng sanh ấy bị
														
														nhiễm trước vào 
														thức.” (13)
														.. o 
														..
														Câu hỏi: 
														
														thế giới này
														
														sanh diệt thế 
														nào, tức là
														
														tập khởi thế nào 
														và
														
														đoạn diệt thế 
														nào?
														Kinh SN 12.44, bản 
														dịch TMC viết:
														“Và này các Tỷ-kheo, 
														thế nào là
														
														thế giới tập 
														khởi?
														Do duyên con mắt và 
														các sắc,
														
														nhãn thức khởi 
														lên. Do ba cái
														
														tụ họp, nên có 
														xúc. Do duyên xúc nên có 
														thọ. Do duyên thọ nên có 
														ái. Do duyên ái nên có 
														thủ. Do duyên thủ nên có 
														hữu. Do duyên hữu nên có 
														sanh. Do
														
														duyên sanh, nên 
														có già chết, sầu, bi, 
														khổ, ưu, não
														
														sanh khởi. Đây là
														
														thế giới
														
														tập khởi.
														Do duyên lỗ tai và 
														các tiếng… Do duyên lỗ 
														mũi và các hương… Do 
														duyên lưỡi và các vị… Do 
														duyên thân và các xúc… 
														Do duyên ý với các pháp,
														
														ý thức khởi lên. 
														Do ba cái
														
														tụ họp nên có 
														xúc. Do duyên xúc nên có 
														thọ… Do
														
														duyên sanh nên 
														già chết, sầu, bi, khổ, 
														ưu, não,
														
														sanh khởi. Này 
														các Tỷ-kheo, đây là sự
														
														tập khởi của
														
														thế giới.
														Và này các Tỷ-kheo, 
														thế nào là
														
														thế giới đoạn 
														diệt?
														Do duyên con mắt và 
														các sắc,
														
														nhãn thức khởi 
														lên. Do ba cái
														
														tụ họp nên có 
														xúc. Do duyên xúc nên có 
														thọ. Do duyên thọ nên có 
														ái. Do sự
														
														ly tham,
														
														đoạn diệt ái ấy 
														một cách
														
														hoàn toàn nên thủ 
														diệt. Do thủ diệt nên 
														hữu diệt… Đây là sự
														
														đoạn diệt của
														
														toàn bộ
														
														khổ uẩn này. Đây 
														là
														
														thế giới
														
														đoạn diệt.
														Do duyên lỗ tai và 
														các tiếng… Do duyên lỗ 
														mũi và các hương… Do 
														duyên lưỡi và các vị… Do 
														duyên thân và các xúc…”
														(14)
														.. o 
														..
														Câu hỏi: Có 
														một thức
														
														bất biến đã và 
														đang
														
														luân chuyển kiếp 
														này sang kiếp kia trong 
														cuộc tái sanh?
														Không, không hề có 
														thức
														
														bất biến nào như 
														thế. Trong Kinh MN 38, 
														bản dịch TMC, trích:
														“Tỷ-kheo tên là Sati 
														khởi
														
														tà kiến: thức này 
														dong ruổi,
														
														luân chuyển nhưng 
														không đổi khác.
														Chư Tỷ-kheo, Ta đã 
														dùng nhiều
														
														pháp môn nói thức 
														do
														
														duyên khởi. Không 
														có duyên, thức không 
														hiện khởi. Nhưng Tỷ-kheo 
														Sati, con của người đánh 
														cá, không những
														
														xuyên tạc Ta vì 
														đã tự
														
														chấp thủ
														
														sai lạc, còn
														
														tự pháp hoại mình 
														và tạo nên nhiều tổn 
														đức, và như vậy sẽ đưa 
														đến
														
														bất hạnh và
														
														đau khổ
														
														lâu dài cho kẻ mê 
														mờ ấy...
														...Này các Tỷ-kheo, 
														có ba sự
														
														hòa hợp mà một
														
														bào thai
														
														thành hình: ở 
														đây,
														
														cha mẹ có giao 
														hợp và người mẹ không 
														trong thời có thể thụ 
														thai, và
														
														hương ấm 
														(gandhabba) không
														
														hiện tiền, như 
														vậy
														
														bào thai không 
														thể
														
														thành hình. Ở 
														đây, cha và mẹ có giao 
														hợp, và người mẹ trong 
														thời có thể thụ thai, 
														nhưng
														
														hương ấm 
														(gandhabba) không
														
														hiện tiền, như 
														vậy
														
														bào thai không 
														thể
														
														thành hình. Và 
														này các Tỷ-kheo, khi nào
														
														cha mẹ có giao 
														hợp, và người mẹ trong 
														thời có thể thụ thai, và
														
														hương ấm có
														
														hiện tiền; có ba 
														sự
														
														hòa hợp như vậy, 
														thì
														
														bào thai mới
														
														thành hình.” 
														(15)
														.. o 
														..
														Câu hỏi: Có 
														
														trung ấm (giữa 
														đời này và
														
														đời sau) 
														không, và cách nào để 
														vượt dòng sanh tử?
														Có
														
														trung ấm, tức 
														khoảng giữa đời này và
														
														đời sau, nhưng 
														Kinh không nói
														
														thời lượng
														
														trung ấm. Cách 
														vượt thoát
														
														sanh tử là lìa
														
														chấp trước, không 
														dính mắc. Trong
														
														Trung Bộ, Kinh MN 
														144, bản dịch TMC viết:
														
														“Tôn giả Mahācunda 
														nói với
														
														Tôn giả Channa:
														—Do vậy, này
														
														Hiền giả Channa, 
														lời dạy này của
														
														Thế Tôn phải được
														
														thường trực
														
														tác ý: “Ai có
														
														chấp trước là có
														
														dao động. Ai
														
														không chấp trước 
														là không có
														
														dao động. Không 
														có
														
														dao động, thời có
														
														khinh an; có
														
														khinh an thời 
														không có hy cầu (nati); 
														không có hy cầu thời 
														không có khứ lai; không 
														có khứ lai thời không có 
														tử sanh; không có tử 
														sanh thời không có đời 
														này, không có
														
														đời sau, không có 
														giữa hai đời. Như 
														vậy là sự đoạn tận đau 
														khổ”. (16)
														.. o 
														..
														Câu hỏi: 
														Cái gì làm nhiên liệu 
														cho tái sanh? Khi 
														thân này đoạn tận trong 
														khi chưa thọ thân khác,
														cái gì làm nhiên liệu 
														cho
														
														trung ấm?
														Sanh là do
														
														chấp thủ, nhưng
														
														tham ái vẫn luôn 
														luôn là nhiên liệu. 
														Trong Kinh SN 44.9, bản 
														dịch TMC viết, trích:
														“Ví như, này Vaccha, 
														một ngọn lửa cháy đỏ khi 
														nào có nhiên liệu 
														(saupàdàna), không phải 
														không có nhiên liệu. 
														Cũng vậy, này Vaccha, Ta
														
														tuyên bố về
														
														sanh khởi đối với 
														người có
														
														chấp thủ (sanh 
														y), không phải với người 
														không có
														
														chấp thủ.
														—Thưa
														
														Tôn giả Gotama, 
														trong khi có gió thổi 
														ngọn lửa đi thật xa, 
														thời
														
														Tôn giả Gotama
														
														tuyên bố cái gì 
														làm nhiên liệu cho ngọn 
														lửa này?
														—Này Vaccha, trong 
														khi có gió thổi ngọn lửa 
														đi thật xa, thời Ta nói 
														chính gió là nhiên liệu. 
														Trong khi ấy, này 
														Vaccha, chính gió là 
														nhiên liệu (upàdàna).
														—Thưa
														
														Tôn giả Gotama,
														trong khi một loài
														
														hữu tình
														
														quăng bỏ thân này 
														để sanh vào một thân 
														khác, thời
														
														Tôn giả Gotama
														
														tuyên bố cái gì 
														làm nhiên liệu cho thân 
														này?
														—Này Vaccha, trong 
														khi một loài
														
														hữu tình
														
														quăng bỏ thân này 
														và sanh vào một thân 
														khác, này Vaccha, Ta
														
														tuyên bố rằng 
														trong khi ấy chính ái 
														(tanhà) là nhiên liệu 
														(upàdànam).” (17)
														Bản Anh dịch của 
														Bhikkhu Bodhi, dùng chữ
														
														cụ thể hơn, rằng 
														khi đã từ trần mà chưa
														
														tái sanh:
														“When, Vaccha, a 
														being has laid down 
														this body but has not 
														yet been reborn in 
														another body, I 
														declare that it is 
														fuelled by craving. For 
														on that occasion craving 
														is its fuel.” (Dịch: 
														Vaccha, khi một
														
														chúng sanh 
														đã nằm thân này xuống 
														rồi, mà chưa
														
														tái sanh trong 
														một thân khác, 
														ta nói rằng…) (17)
														Ghi chú #382 nơi 
														trang 1456 của Bhikkhu 
														Bodhi trong bản sách 
														giấy
														
														Tương Ưng Bộ cho 
														Kinh SN 44.9, nói rằng 
														lời dạy của
														
														Đức Phật cho thấy 
														một khoảng trống
														
														trung ấm giữa 
														thời điểm chết của thân 
														này và thời điểm
														
														nhập thai cho 
														thân sau, và Kinh này
														
														trái với kiểu
														
														lý luận “tái sanh 
														tức khắc” của Theravada.
														(17)
														Bản Anh dịch của 
														Bhikkhu Sujato cũng
														
														tương tự:
														“When someone who 
														is attached has laid 
														down this body, Vaccha, 
														and has not been reborn 
														in one of the realms, I 
														say they’re fueled by 
														craving. For craving is 
														their fuel then.” 
														(17)
														.. o 
														..
														Câu hỏi: Có 
														phải
														
														chúng sanh trong 
														cõi
														
														trung ấm lang 
														thang vất vơ như
														
														văn học dân gian 
														thường nói?
														
														
														Trả lời rằng 
														không
														
														nhất thiết, 
														bởi vì tất cả đều từ 
														hạnh nghiệp. Trong Kinh 
														DN 2,
														
														Đức Phật
														
														sử dụng
														
														hình ảnh ngôi nhà 
														dụ cho thân người, khi 
														chết đi là rời nhà này 
														để vào nhà kia,  nhưng
														
														vẫn có những
														
														chúng sanh chưa 
														vào nhà mới được, vẫn 
														còn (nơi
														
														trung ấm) đang 
														“đi qua lại trên đường, 
														ngồi ở giữa ngã tư hay 
														trên đài thượng.” Người 
														trên đài thượng là bậc 
														thánh
														
														được giải thoát 
														trong nơi
														
														trung ấm, gọi là
														
														Trung gian 
														Niết-bàn (Bhikkhu 
														Sujato: they’re 
														extinguished in-between 
														one life and the next).
														Kinh DN 2, bản dịch 
														TMC viết, trích:
														“Như vậy vị ấy với
														
														thiên nhãn thuần 
														tịnh
														
														siêu nhân thấy sự
														
														sống chết của
														
														chúng sanh. Vị ấy 
														biết rõ rằng
														
														chúng sanh, người
														
														hạ liệt kẻ cao 
														sang, người
														
														đẹp đẽ kẻ thô 
														xấu, người
														
														may mắn kẻ
														
														bất hạnh, đều do 
														hạnh nghiệp của chúng.
														Này
														
														Đại vương,
														
														ví như một tòa 
														lầu có thượng đài, giữa 
														ngã tư đường, một người 
														có mắt đứng trên ấy, 
														sẽ thấy những người
														
														đi vào nhà, đi từ 
														nhà ra, đi qua lại trên 
														đường, ngồi ở giữa ngã 
														tư hay trên đài thượng. 
														Người ấy nghĩ: “Những 
														người này
														
														đi vào nhà, những 
														người này đi từ nhà ra, 
														những người này đi qua 
														lại trên đường, những 
														người này ngồi giữa ngã 
														tư, trên đài thượng”. 
														Cũng vậy, này
														
														Đại vương với
														
														tâm định tĩnh, 
														thuần tịnh, không
														
														cấu nhiễm, không
														
														phiền não,
														
														nhu nhuyến, dễ
														
														sử dụng,
														
														vững chắc, bình 
														thản như vậy, Tỷ-kheo 
														dẫn tâm, hướng tâm đến
														
														trí tuệ về
														
														sanh tử của
														
														chúng sanh. Vị ấy 
														với
														
														thiên nhãn thuần 
														tịnh,
														
														siêu nhân, thấy 
														sự sống và chết của
														
														chúng sanh.” 
														(18)
														.. o 
														..
														Câu hỏi: Có
														
														phương pháp nhanh 
														chóng nào để
														
														giải thoát, không 
														còn vướng
														
														gì nữa
														
														trong đời này,
														
														đời sau và đời 
														chặng giữa (trung 
														ấm)?
														 Câu
														
														trả lời là có
														
														Thiền pháp như 
														thế.
														
														Đức Phật nói 
														trong Kinh Bahiya (Ud 
														1.10),
														
														ngôn ngữ rất
														
														minh bạch về đời 
														chặng giữa, bản TMC:
														“- Vậy này Bàhiya, 
														Ông
														
														cần phải học tập 
														như sau: "Trong cái 
														thấy, sẽ chỉ là cái 
														thấy. Trong cái nghe, sẽ 
														chỉ là cái nghe. Trong 
														cái thọ tưởng, sẽ chỉ là 
														cái thọ tưởng. Trong cái 
														thức tri, sẽ chỉ là các 
														thức tri ". Như vậy, 
														nàyBàhiya, Ông
														
														cần phải học tập. 
														Vì rằng, này Bàhiya, nếu 
														với Ông, trong cái thấy, 
														sẽ chỉ là cái thấy; 
														trong cái nghe, sẽ chỉ 
														là cái nghe; trong cái 
														thọ tưởng, sẽ chỉ là cái 
														thọ tưởng; trong cái 
														thức tri, sẽ chỉ là cái 
														thức tri. Do vậy, này 
														Bàhiva, ông không là chỗ 
														ấy. Vì rằng, này Bàhiya, 
														Ông không là đời này, 
														không là
														
														đời sau, không là 
														đời chặng giữa. Như 
														vậy là đoạn
														
														tận khổ đau.” 
														(19)
														Lời
														
														Đức Phật rất
														
														minh bạch rằng có
														
														một đời chặng 
														giữa --
														
														chúng ta quen gọi 
														là
														
														trung ấm. Cuối 
														bài sẽ dẫn thêm ba bản 
														tiếng Anh của Kinh 
														Bahiya.
														.. o 
														..
														Câu hỏi: 
														Khi
														
														Tôn giả 
														Màlukyaputta nói rằng tự 
														thấy mình già rồi, nên 
														xin
														
														Đức Phật
														
														thuyết pháp
														
														vắn tắt để tự 
														thân khẩn cấp tu
														
														giải thoát,
														
														Đức Phật dạy pháp 
														nào?
														
														
														Tương tự như Kinh 
														trên, Kinh Màlukyaputta 
														Sutta trích như sau, 
														cũng nói về cõi
														
														trung ấm:
														“—Bạch
														
														Thế Tôn, dầu cho 
														con già yếu, niên cao, 
														đại lão, đã đến tuổi
														
														trưởng thượng, đã 
														đến cuối
														
														cuộc đời, mong
														
														Thế Tôn hãy
														
														thuyết pháp
														
														vắn tắt cho con! 
														Mong
														
														Thiện Thệ hãy
														
														thuyết pháp
														
														vắn tắt cho con!
														
														Chắc chắn con sẽ
														
														hiểu ý nghĩa lời
														
														Thế Tôn giảng.
														
														Chắc chắn con sẽ
														
														trở thành người 
														thừa
														
														tự pháp của
														
														Thế Tôn...
														…này Màlukyaputta, 
														đối với các pháp được 
														thấy, được nghe, được 
														cảm nhận, được biết đến, 
														Ông sẽ chỉ thấy được với 
														những vật thấy được, chỉ
														
														nghe được với 
														những vật
														
														nghe được, chỉ 
														cảm nhận được đối với 
														những vật cảm nhận được, 
														chỉ
														
														nhận biết được 
														đối với những vật
														
														nhận biết được. 
														Cho nên, này 
														Màlukyaputta, Ông không 
														có vì cái ấy. Do vì, này 
														Màlukyaputta, Ông không 
														có vì cái ấy, nên Ông 
														không có: “Ở nơi đây”. 
														Do vì, này Màlukyaputta, 
														Ông không có: “Ở nơi 
														đây”, do vậy, này 
														Màlukyaputta, Ông sẽ 
														không có đời này,
														
														đời sau, và giữa 
														hai đời ấy. Đây là 
														sự
														
														chấm dứt khổ 
														đau.” (20)
														.. o 
														..
														Câu hỏi: 
														Thường nghe nhiều thầy 
														nói về pháp tu
														
														vô sở trụ (không 
														chấp trước – 
														không trụ vào
														
														sắc thanh hương 
														vị xúc pháp), xin hỏi 
														pháp này có vượt
														
														sinh tử
														
														cả đời này,
														
														đời sau, và 
														đời chặng giữa hay 
														không?
														Đó cũng là pháp đoạn
														
														tận khổ đau ngay 
														ở đây và bây giờ,
														
														chủ đề của
														
														Kinh Kim Cang. 
														Kinh MN 144 cũng nhắc về 
														đời này,
														
														đời sau, và đời 
														chặng giữa, bản TMC 
														trích:
														“Tôn giả Mahācunda 
														nói với
														
														Tôn giả Channa:
														—Do vậy, này
														
														Hiền giả Channa, 
														lời dạy này của
														
														Thế Tôn phải được
														
														thường trực
														
														tác ý: “Ai có
														
														chấp trước là có
														
														dao động. Ai
														
														không chấp trước 
														là không có
														
														dao động. Không 
														có
														
														dao động, thời có
														
														khinh an; có
														
														khinh an thời 
														không có hy cầu (nati); 
														không có hy cầu thời 
														không có khứ lai; không 
														có khứ lai thời không có 
														tử sanh; không có tử 
														sanh thời không có đời 
														này, không có
														
														đời sau, không có
														giữa hai đời. Như 
														vậy là sự đoạn tận đau 
														khổ”. (21)
														.. o 
														..
														Câu hỏi: Có 
														thể
														
														giải thoát nơi
														
														trung ấm hay 
														không?
														Rất là
														
														hy hữu. Một số vị 
														vào được
														
														Niết Bàn nơi
														
														trung ấm thân, 
														khi chết là vào
														
														Thánh vị
														
														A Na Hàm và từ 
														đây vào
														
														Trung gian
														
														Niết bàn. Kinh AN 
														7.55, bản dịch TMC viết, 
														trích:
														“Tỷ-kheo trong khi
														
														thực hành như vậy
														
														suy nghĩ như sau: 
														“Nếu cái này không có, 
														cái này có
														
														thể không phải 
														của ta. Nếu cái này sẽ 
														không có, cái này sẽ 
														không phải của ta. Cái 
														gì có, cái gì được 
														thành, ta đều từ bỏ”. Vị 
														ấy có được xả. Vị ấy 
														không tham đắm
														
														sanh hữu, không 
														tham đắm
														
														tích tụ của hữu; 
														với
														
														chánh trí tuệ, vị 
														ấy thấy có
														
														con đường
														
														vô thượng
														
														tịch tịnh. Vị ấy 
														chưa
														
														chứng ngộ
														
														trọn vẹn
														
														hoàn toàn
														
														con đường ấy. Vị 
														ấy chưa đoạn tận
														
														trọn vẹn
														
														hoàn toàn mạn
														
														tùy miên. Vị ấy 
														chưa đoạn tận
														
														trọn vẹn
														
														hoàn toàn
														
														hữu tham
														
														tùy miên. Vị ấy 
														chưa đoạn tận
														
														trọn vẹn
														
														hoàn toàn
														
														vô minh
														
														tùy miên. Do diệt 
														tận năm hạ phần
														
														kiết sử, vị ấy 
														chứng được
														
														Trung gian 
														Niết-bàn.
														
														Ví như, này các 
														Tỷ-kheo, một cái bát 
														bằng sắt được đốt cháy 
														cả ngày và được đập 
														đánh, một miếng vụn có 
														thể văng ra và
														
														trở thành nguội 
														lạnh. Cũng vậy, này các 
														Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong 
														khi
														
														thực hành,
														
														suy nghĩ như sau: 
														“Nếu cái này không có, 
														cái này có
														
														thể không phải 
														của ta. Nếu cái này sẽ 
														không có, cái này sẽ 
														không phải của ta. Cái 
														gì có, cái gì được 
														thành, ta đều từ bỏ”. Vị 
														ấy có được xả, vị ấy 
														không tham đắm hữu, 
														không tham đắm
														
														hậu hữu; với
														
														chánh trí tuệ, vị 
														ấy thấy có
														
														con đường
														
														vô thượng
														
														tịch tịnh. Và vị 
														ấy chưa
														
														chứng ngộ
														
														trọn vẹn
														
														hoàn toàn
														
														con đường ấy. Vị 
														ấy chưa đoạn tận
														
														trọn vẹn
														
														hoàn toàn mạn
														
														tùy miên. Vị ấy 
														chưa đoạn tận
														
														trọn vẹn
														
														hoàn toàn
														
														hữu tham
														
														tùy miên. Vị ấy 
														chưa đoạn tận
														
														trọn vẹn
														
														hoàn toàn
														
														vô minh
														
														tùy miên. Do diệt 
														tận năm hạ phần
														
														kiết sử, vị ấy 
														chứng được
														
														Trung gian 
														Niết-bàn.”(22)
														Bản tiếng Anh của 
														Bhikkhu Sujato nói rõ 
														hơn: With the ending 
														of the five lower 
														fetters they’re 
														extinguished in-between 
														one life and the next. 
														(Dịch: Do diệt tận năm 
														hạ phần
														
														kiết sử, các vị 
														này vào
														
														Niết bàn nơi
														
														thân trung ấm 
														khoảng giữa đời này và
														
														đời sau.) (22)
														.. o 
														..
														Câu hỏi: 
														
														Chúng ta nên làm 
														gì để giúp tất cả các
														
														chúng sanh, trong 
														đó có
														
														cha mẹ nhiều đời 
														của
														
														chúng ta, trong
														
														thân trung ấm, vì 
														họ có thể đang “đi từ 
														nhà cũ ra mà chưa tìm 
														được nhà mới, đang đi 
														qua lại trên đường, hay 
														đang ngồi ở giữa ngã tư” 
														với
														
														nghiệp thức bất 
														định?
														Xin mạn phép
														
														trả lời rằng nên 
														hàng ngày
														
														tụng Kinh
														
														Từ Bi (Metta 
														Sutta).
														
														Bản kinh ngắn này 
														cũng có thể dùng cho 
														pháp
														
														Thiền Tâm Từ, 
														trong đó
														
														Đức Phật dạy là 
														hãy nguyện
														
														bình an cho tất 
														cả mọi loài, kể cả 
														những loài sắp sinh 
														(hiểu là trong
														
														thân trung ấm). 
														Đây cũng là một trong 
														những
														
														bản kinh xưa 
														nhất, khi
														
														chư tăng còn phải 
														sống nơi góc rừng, chân 
														núi – ký số
														
														Kinh Từ Bi trong 
														nhóm
														
														Kinh Tập ghi là 
														Sutta Nipata I.8.
														Trích
														
														Kinh Từ Bi, bản 
														dịch của Thầy Thích
														
														Nhất Hạnh:
														“Và đây là điều họ 
														luôn luôn
														
														tâm niệm:
														Nguyện cho
														
														mọi người và mọi 
														loài đươc sống trong
														
														an toàn và
														
														hạnh phúc, tâm tư
														
														hiền hậu và
														
														thảnh thơi.
														Nguyện cho tất cả các 
														loài sinh vật trên trái 
														đất đều được sống
														
														an lành, những 
														loài yếu, những loài 
														mạnh, những loài cao, 
														những loài thấp, những 
														loài lớn, những loài 
														nhỏ, những loài ta có 
														thể nhìn thấy, những 
														loài ta không thể nhìn 
														thấy, những loài ở gần, 
														những loài ở xa, những 
														loài đã sinh và 
														những loài sắp sinh.
														Nguyện cho đừng loài 
														nào
														
														sát hại loài nào, 
														đừng ai coi nhẹ
														
														tính mạng của ai, 
														đừng ai vì giận hờn hoặc
														
														ác tâm mà mong 
														cho ai bị
														
														đau khổ và khốn 
														đốn.
														Như một bà mẹ đang 
														đem
														
														thân mạng mình
														
														che chở cho đứa 
														con
														
														duy nhất,
														
														chúng ta hãy đem
														
														lòng từ bi mà đối 
														xử với tất cả mọi loài…”
														(23)
														Trong các bản tiếng 
														Anh cũng chỉ mang một 
														nghĩa
														
														cụ thể là
														
														thân trung ấm:
														Andy Olendzki dịch 
														là: Whether born 
														already or not yet born 
														(dù đã sanh hay chưa 
														sanh);
														Amaravati Sangha 
														dịch: Those born and 
														to-be-born (những ai 
														đã sanh và sắp sanh);
														Ven. Khantipalo dịch:
														those that are here, 
														those seeking to exist 
														(những
														
														chúng sanh nơi 
														đây, và những
														
														chúng sanh đang 
														tìm nơi sanh).
														Có 19 bản dịch tiếng 
														Anh Kinh Metta Sutta 
														cũng ghi nối kết ở 
														(23).
														Thêm nữa,
														
														Kinh Từ Bi nên 
														tụng hàng ngày,
														
														Thiền Tâm Từ nên 
														tập hàng ngày, không chỉ 
														để
														
														cầu nguyện cho
														
														cha mẹ nhiều đời 
														trong
														
														thân trung ấm và 
														tất cả các
														
														chúng sanh
														
														ba cõi, mà còn vì 
														lời
														
														Đức Phật dạy rằng
														
														cúng dường
														
														Đức Phật và hàng 
														trăm bậc Thánh, rằng xây 
														chùa và dâng cúng
														
														Tam Bảo cũng 
														không có
														
														phước đức bằng “có 
														ai dầu chỉ trong một 
														khoảnh khắc vắt sữa bò,
														
														tu tập từ tâm… và 
														có ai dầu chỉ trong một 
														khoảnh khắc búng ngón 
														tay,
														
														tu tập
														
														tưởng vô thường.” 
														(Kinh AN 9.20) (24)
														Do vậy, hàng ngày
														
														tụng Kinh
														
														Từ Bi,
														
														tu Thiền
														
														Tâm Từ cũng là 
														một cách cúng vong
														
														tuyệt vời nhất 
														vậy.
														
														Nguyên Giác
														
														(Thư Viện Hoa Sen)
														
 
														GHI CHÚ:
														(1) Kinh DN 32, bản 
														Việt:
														
														https://suttacentral.net/dn32/vi/minh_chau 
														- bản Anh (Bhikkhu 
														Sujato):
														
														https://suttacentral.net/dn32/en/sujato
														(2) Kinh AN 10.177:  
														
														https://suttacentral.net/an10.177/vi/minh_chau
														(3) Kinh SA 1041:
														
														https://suttacentral.net/sa1041/vi/tue_sy-thang
														(4) Kinh Snp 3.8:
														
														https://suttacentral.net/snp3.8/en/mills
														(5) Kinh SN 
														5.3:
														
														https://suttacentral.net/sn5.3/vi/minh_chau
														(6) Kinh SN 1.57:
														
														https://suttacentral.net/sn1.57/vi/minh_chau
														(7) Kinh AN 8.36:
														
														https://suttacentral.net/an8.36/vi/minh_chau
														(8) Kinh DN 23:
														
														https://suttacentral.net/dn23/vi/minh_chau
														(9) Kinh AN 6.57:
														
														https://suttacentral.net/an6.57/vi/minh_chau
														(10) Kinh SN 35.33:
														
														https://suttacentral.net/sn35.33-42/vi/minh_chau
														(11) Kinh SN 23.2:
														
														https://suttacentral.net/sn23.2/vi/minh_chau
														(12) Kinh SN 12.11:
														
														https://suttacentral.net/sn12.11/vi/minh_chau
														(13) Kinh SA 13:
														
														https://suttacentral.net/sa13/vi/tue_sy-thang
														(14) Kinh SN 12.44:
														
														https://suttacentral.net/sn12.44/vi/minh_chau
														(15) Kinh MN 38:
														
														https://suttacentral.net/mn38/vi/minh_chau
														(16) Kinh MN 144:
														
														https://suttacentral.net/mn144/vi/minh_chau
														 (17) Kinh SN 44.9, 
														bản của HT Thích
														
														Minh Châu:  https://suttacentral.net/sn44.9/vi/minh_chau
														bản Bhikkhu Bodhi:
														
														https://suttacentral.net/sn44.9/en/bodhi
														Note #382 của 
														Bhikkhu Bodhi: “Tam ahaṃ 
														taṇhūpādānaṃ vadāmi. The 
														Buddha’s statement seems 
														to imply that a temporal 
														gap can intervene 
														between the death moment 
														and reconception. Since 
														this contradicts 
														Theravāda orthodoxy, Spk 
														contends that at the 
														death moment itself the 
														being is said to be “not 
														yet reborn” because the 
														rebirth-consciousness 
														has not yet arisen.” (The 
														Connected Discourses of 
														the Buddha: A New 
														Translation of the 
														Samyutta Nikaya)
														bản Bhikkhu Sujato:  https://suttacentral.net/sn44.9/en/sujato
														(18) Kinh DN 2:  https://suttacentral.net/dn2/vi/minh_chau
														(19) Kinh Bahiya:  https://thuvienhoasen.org/a25130/kinh-bahiya
														Bản của Bhikkhu 
														Anandajoti: Bāhiya, you 
														will not be here or 
														hereafter or in between 
														the two—just this is the 
														end of suffering.”
														
														https://suttacentral.net/ud1.10/en/anandajoti
														Bản của Ireland:  
														then, Bahiya, you will 
														be neither here nor 
														beyond nor in between 
														the two. Just this is 
														the end of suffering."
														
														https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/ud/ud.1.10.irel.html
														Bản của Thanissaro 
														Bhikkhu: When there is 
														no you there, you are 
														neither here nor yonder 
														nor between the two.
														
														https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/ud/ud.1.10.than.html
														(20) Kinh 
														Màlukyaputta Sutta:
														
														https://suttacentral.net/sn35.93/vi/minh_chau
														(21) Kinh MN 144:
														
														https://suttacentral.net/mn144/vi/minh_chau
														(22) Kinh AN 7.55, 
														bản HT Thích
														
														Minh Châu:
														
														https://suttacentral.net/an7.55/vi/minh_chau
														Bản Bhikkhu Sujato:
														
														https://suttacentral.net/an7.55/en/sujato
														(23)
														
														Kinh Từ Bi, bản 
														dịch HT
														
														Nhất Hạnh:
														
														https://thuvienhoasen.org/a10456/kinh-tu-bi-metta-sutta
														Nhóm 19 bản Anh dịch 
														Metta Sutta:
														
														http://www.leighb.com/mettasuttas.htm
														(24) Kinh AN 9.20:
														
														https://suttacentral.net/an9.20/vi/minh_chau