Tản mạn về Ngã và Thực tính
Tản mạn về Ngã và Thực tính
Tản mạn về Ngã và Thực tính
 
Huy Thành
Mỗi khi đi trên đường, chúng ta thường nhìn thấy những dòng người nối nhau hối 
hả. Ở đó có đủ cả đàn ông và phụ nữ, người già và người trẻ, nghèo và giàu, sang 
và hèn... Tất cả dường như đang rất vội vã. Họ đang vội vã vì điều gì? Không ai 
biết được! Ta có thể nói là họ vội vã để kiếm sống, để sinh tồn. Nhưng nếu chúng 
ta nhìn sâu hơn chút nữa, chúng ta sẽ thấy rằng cũng có những người vội vã vì 
danh lợi, quyền lực; có người vội vã để lập mưu, tính kế; có người vội vã để 
giết người cướp của; có người vội vã để sát hại; có người vội vã để chôn vùi đời 
mình trong những cuộc tình; có người vội vã vì mê đắm tài sản đến đánh mất cả 
khả năng tự chủ…
Cuộc đời đầy dẫy những hạng người như vậy. Nhưng khi chúng ta nghĩ xa thêm chút 
nữa, có thể chúng ta sẽ phân vân là điều gì đứng đằng sau chi phối tất cả những 
hành vi này. Nếu đi sâu vào quán sát, chúng ta có thể đi đến kết luận rằng, tất 
cả những hành vi này là kết quả của việc chấp thủ bản ngã. Chính bản ngã là 
nguyên nhân của tất cả những sự theo đuổi danh vọng, lợi ích, quyền lực và tất 
cả những cuộc đấu tranh, cuồng loạn…
Cố nhiên, ở đấy cũng có những con người vị tha, những người rộng lượng, hào hiệp 
và đầy từ tâm, những người không mệt mõi trong việc giảng dạy hay hoan hỷ giúp 
đỡ những người nghèo túng. Nhìn chung những người này ý niệm về tự ngã nhẹ hơn. 
Nhưng tuy thế, họ lại có những thứ khái niệm ngã khác ngự trị trong đầu. Những 
loại quan niệm này thường ở trong hình thức một Thiên Chúa sáng tạo, Bậc Thánh 
nhân, Đấng Bất tử, hay những cái gì khác không thuộc cái tôi. Một vài người có 
những quan niệm gần hơn chẳng hạn như chủng tộc, quốc gia, tôn giáo, đảng phái 
v.v. Trong khi có thể kiềm chế bản ngã trước sự ảnh hưởng của một trong những 
quan niệm này, thì tự thân quan niệm này nó trở thành một bản ngã bị biến dạng 
tiếp tục ngự trị trong đầu, đôi khi nó có thể gây ra sự chấp thủ thậm chí còn 
mạnh hơn cả bản ngã thông thường!
Nhóm sau có vẻ như trái ngược hoàn toàn với nhóm trước, nhưng thực ra cả hai 
nhóm đều thật sự giống nhau, bởi vì nhóm này thì chấp thủ một cách kiên cố về 
một bản ngã biến dạng trong khi nhóm kia bị buộc chặt vào với bản ngã.
Trong một vài thế kỷ lại đây, có một nhóm người thứ ba đã xuất hiện. Những người 
này có thể được xếp dười tiêu đề là các khoa học gia hàng đầu. Họ đang bắt đầu 
đặt vấn đề về bản ngã như là đề tài cho việc nghiên cứu của họ.
Cuối cùng, bản ngã là gì?
Theo Albert Einstain, nếu tốc độ của một vật thể vướt qua tốc độ của ánh sáng, 
thì vật thể đó sẽ biến mất. Nếu thân thể của chúng ta biến mất trong khi vận 
chuyển ở tốc độ ánh sáng, thì bản ngã của chúng ta có thể tồn tại hay không? Nếu 
bản ngã của chúng ta biến mất, thì khi vận tốc giảm xuống thấp hơn tốc độ của 
ánh sáng, thì bản ngã của chúng ta có thể quay trở lại với sự tái xuất hiện của 
thân thể chúng ta hay không? Và bản ngã của chúng ta ở nơi đâu trong suốt khoảng 
thời gian đó?
Khi một nhà phẩu thuật đang thực hiện phẩu thuật một người bất tĩnh và sắp chết, 
ông ta có phân vân là linh hồn của người ấy ở đang ở đâu ngay giữa thời điểm của 
sống và chết hay không?
Khi một nhà thiên văn học đang chăm chú tập trung vào vũ trụ, ông ta có nảy lên 
suy nghĩ rằng bản ngã của ông ta thì nhỏ hơn cả một hạt bụi nhỏ nhất trong vũ 
trụ bao la hay không? Hay ông ta cảm thấy rằng nó to lớn như vũ trụ?
Nhìn chung thì chúng ta đều coi thân thể vật lý của chúng ta được nối kết chặt 
chẻ với tự ngã của mình. Nhưng từ những gì ta thấy, những nhà khoa học dường như 
không tìm ra được câu trả lời cho câu hỏi này: Tự ngã là gì? Họ chỉ đưa ra câu 
hỏi. Tuy thể chỉ bằng việc đặt câu hỏi thôi, một số nhà khoa học đã có một sự 
bám víu nhẹ hơn về tự ngã của họ so với những người bình thường.
Việc đề cập trên đây chỉ là một sự phân tích sơ sài về đông đảo những hạng người 
đông đúc trong cõi đời, và những quan niệm khác nhau về tự ngã. Nhưng có một 
điều chúng ta cần phải biết rằng là sự thật có rất ít người cố định mãi trong 
một hạng người nào đó suốt cả cuộc đời của họ. Hầu hết mọi người đều có sự pha 
trộn về những quan niệm và những thái độ khác nhau: có những tên cướp đôi khi 
lại nhân từ độ lượng; không thể tìm ra những chính trị gia không tìm mưu tính kế 
để chống lại những đối thủ của họ; người thường nói về chủ nghĩa vị tha có khi 
là người đầu tiên nghĩ đến những cuộc thắng ở sòng bạc. Đó là lý do tại sao 
trong hàng ngàn năm của lịch sử loại người, chỉ có rất ít những nhà lãnh đạo tôn 
giáo hay những vị lãnh đạo thật sự “vô ngã”.
Vì thế, toàn thể loài người, từ xưa cho đến nay, chỉ một ít người được xem là đã 
giải thoát bản thân mình ra khỏi sự giam hãm của tự ngã hay tự ngã biến dạng 
này. Còn hầu hết chỉ biết bận rộn tối ngày, từ đời này đến đời khác, suốt đời 
vẫn ở mãi trong sự giam hãm này. Trong mười người thì ít nhất có tám người chịu 
đựng khổ đau nhiều hơn là hưởng thụ niềm vui. Những dẫu thế hầu hết mọi người 
vẫn cứ tiếp tục theo đuổi niềm vui nhỏ nhoi này giữa nỗi đau lớn lao, họ hoàn 
toàn hài lòng tiêu phí hầu hết cuộc đời của họ trong sự giam hãm này.
Chúng ta hãy thảo luận đề tài này xa hơn chút nữa. Trong cuộc đời này, có thể có 
người tâm của họ vắng mặt những tư tưởng về danh lợi. Nhưng có rất ít người - 
nếu không muốn nói là không có ai - tâm của họ hoàn toàn không có mặt ý niệm về 
tự ngã, hoàn toàn giải thoát khỏi tự ngã.
Trước hết, “giải thoát” không hàm nghĩa giống như việc di chuyển từ một nơi này 
đến một nơi khác. Chúng ta không giải thoát chính mình ra khỏi nơi này để vào 
một thế giới khác. Điều đó cũng không có nghĩa rằng thế giới sẽ biến mất như là 
một kết quả của việc giải thoát vừa mới tìm thấy này. Thế giới vẫn tồn tại. Núi 
vẫn là núi và sông vẫn là sông. Mặt trăng vẫn tiếp tục tỏa sáng trên bầu trời. 
Nhưng nếu chúng ta đã giải thoát ra khỏi sự câu thúc của tự ngã hay một tự ngã 
biến hình, thì tất cả những dục vọng cám dỗ, được, mất, và những hạn chế ở trong 
cõi đời này không còn có bất kỳ sức mạnh nào đối với ta. Một người như vậy sẽ 
giống như một chiếc gương soi, phản chiếu tất cả mọi mặt của cuộc sống mà không 
bị ảnh hưởng chút nào bởi sự phản chiếu này.
Thứ hai, nếu tâm của chúng ta như một tấm gương sáng, thì thế giới hoàn toàn 
trống rỗng, không có điều gì ở trong nó cả. Những nhà khoa học, cũng bằng việc 
quán sát và phân tích một cách cẩn thận như vậy, đã đi đến kết luận rằng vạn vật 
không có gì khác hơn ngoài năng lượng. Nếu giả thiết những nhà khoa học dùng 
phương thức tư duy phân tích như vậy trong việc quán sát con người, họ sẽ nhận 
ra rằng phía sau tất cả những hình thức và dáng dấp khác biệt, thật sự không có 
điều gì khác ngoài năng lượng. Ánh sáng ngọn đèn, hơi nóng lò sưởi, những âm 
thanh chúng ta nghe, những chuyển động chúng ta thấy, và những gì chúng ta xúc 
chạm tất cả đều là năng lượng. Đàn ông là năng lượng, phụ nữ là năng lượng; tôi 
là năng lượng, bạn là năng lượng; về cơ bản mọi thứ trong thế giới này đều là 
năng lượng. Tuy nhiên năng lượng không có tự tính, và không thể nhận thấy được. 
Thế nhưng, người nào tâm sáng rõ như tấm gương thì cũng có thể nhìn thấy những 
gì mà những nhà khoa học nhìn thấy. Nhưng người ấy khác với các nhà khoa học ở 
chỗ, vị ấy không cần sử dụng việc phân tích. Vị ấy biết rằng mọi thứ, gồm cả 
chính mình, là không ngay Nơi Chính Nó. Đây là trạng thái được mô tả trong 
Tâm kinh: “Sắc chẳng khác không và không chẳng khác sắc. Sắc chính là không 
và không chính là sắc…”. Bởi vì không có sự khác nhau giữa sắc và không, nên 
khái niệm về tự ngã có thể sinh khởi bằng cách nào?
Thứ ba, khi một người đã thể nhập vào một trạng thái như vậy, không chỉ quan 
niệm về tự ngã không có cách phát sinh, mà tất cả vạn vật trong cuộc đời này đều 
được xem như là hoàn toàn bình đẳng và không sai khác, điều này trong kinh Phật 
gọi là “bình đẳng và bất nhị”. Dựa vào cấp độ này, chúng ta đều bình đẳng và bất 
nhị. Sinh tử và Niết-bàn, phiền não và bồ-đề, không và sắc, được và mất, bạn và 
thù…, tất cả đều bình đẳng và bất nhị. 
Sự biểu lộ tính bất nhị được gọi là thực tính. Đây là bộ mặt thật của vũ trụ. 
Thực ra, ngay cả danh xưng thực tính này cũng không cần thiết. Thực tính và 
không thực tính cũng bình đẳng và bất nhị. Đặt cho nó một danh xưng thì cũng như 
giăng một đám mây trên bầu trời; mặt trời sẽ không còn chiếu sáng nữa.
Đến đây có người có thể nói: “Nếu nhìn vạn vật trong thế giới này là bình đẳng 
và bất nhị, thì sẽ không có đúng và sai, không có tốt và xấu. Loại thế giới mà 
chúng ta sẽ có là gì? Tôi không nghĩ rằng loại học thuyết này sẽ mang đến cho xã 
hội và bản thân chúng ta bất cứ một sự lợi ích nào.”
Theo Phật giáo, hạng người nhận thức được một vấn đề như vậy thì rất được kính 
trọng. Bởi vì những tư tưởng của người ấy đều tập trung vào lợi ích của chúng 
sinh, vị ấy được xem như là vị Bồ-tát có lòng từ bi rộng lớn.
Thực ra, khi chúng ta nói về thể nhập thực tính là chúng ta đề cập đến một tiến 
trình dần dần và khá khó khăn. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng bằng cách nào 
chăng nữa nếu nhiều người trong chúng ta có thể thể nhập được với thực tính, thì 
cuộc đời này sẽ giảm đi những chấp ngã, mà do đó cũng giảm đi vô minh, sân hận, 
tham ái. 
Vì vậy, vấn đề ở đây là làm cách nào để thể nhập với thực tính. Tôi sử dụng từ 
thể nhập nơi đây để chỉ ra rằng, chỉ hiểu biết về thực tính - xem nhẹ tự ngã, 
hay xem tự ngã như là một sự huyễn hóa không thôi - thì chưa đủ. Chúng ta phải 
thật sự nhận chân nó bằng kinh nghiệm bản thân về nó. Chỉ khi ấy chúng ta mới có 
thể đạt được trạng thái không mà ở đó thậm chí không có một sự giả định nào về 
ngã hay vô ngã.
Chúng ta chấp thủ lấy tự ngã ngay khi chúng ta vừa mới chào đời. Sự chấp thủ này 
ngày càng trở nên bám rể sâu hơn khi chúng ta lớn. Điều đó trở thành vấn đề quá 
khó khăn cho chúng ta thể nhập được với thực tính. Chúng ta nhận thấy rằng nhiều 
sự giới hạn của chúng ta đã làm cản trở sự thể nhập của chúng ta với thực tính. 
Nói chung, chúng ta có rất ít trí tuệ.
Như chúng ta biết, mắt của chúng ta hoàn toàn thiếu khả năng để nhìn thấy được 
mọi vật. Xa hơn nữa, những gì tai của chúng ta có thể nghe được thì ở trong một 
phạm vi nhỏ hơn phạm vi của một con chó bình thường có thể nghe, và nhỏ hơn 
nhiều phạm vi của một con cá heo. Có rất nhiều những âm thanh trong vũ trụ mà 
chúng ta, là những con người, không thể nào nghe được. Chúng ta cũng không thể 
biết được những tốc độ vượt qua tốc độ của ánh sáng hay của điện, hay không biết 
được bất cứ nhiệt độ nào thấp hơn dưới zê-rô tuyệt đối.
Tuy vậy, rất khó khăn để thay đổi thói quen của chúng ta. Chúng ta thường đi 
theo chúng một cách tự động mà không nhận thức được chúng.
Có một câu chuyện thế này. Lúc bắt đầu một khóa thiền định bảy ngày, một Thiền 
sư đã nói với ba người đệ tử của mình: “Bắt đầu từ giờ phút này, các con sẽ 
không được nói.” Người đệ tử thứ nhất lập tức thưa: “Vâng, bạch thầy, con sẽ 
không nói”. Người đệ tử thứ hai nói: “Xem kìa, thầy bảo chúng ta không nói vậy 
mà huynh đang nói!” Người đệ tử thứ ba nhìn vị Thiền sư và nói: “Bạch thầy, chỉ 
có con là người biết vâng lời. Con sẽ không nói thêm bất cứ điều gì”. Có lẽ ba 
người đệ tử này hơi ngớ ngẫn, nhưng giai thoại này chỉ cho chúng ta thấy rằng, 
thật sự khó khăn để thay đổi thói quen của chúng ta.
Bởi vì con người chúng ta đầy rẫy những sự giới hạn và bởi vì thật quá khó khăn 
cho chúng ta thay đổi những thói quen của mình, nên hiển nhiên tri kiến của 
chúng ta rất thiếu chính xác. Tuy nhiên thông thường, chúng ta lại rất cố chấp. 
Do đó không phải dễ dàng để con người khai mở thực tính của mình, chúng ta có 
thể bị trói buộc mãi bởi tự ngã hay tự ngã biến dạng của chúng ta. Chừng nào 
chúng ta còn tham, còn sân, còn si, còn chấp thủ thì chừng đó chúng ta chưa thể 
khai mở được thực tính rỗng rang của mình. Chúng ta chỉ đạt được trạng thái vô 
ngã hay khai mở được thực tính rỗng rang của mình chỉ khi tâm ta không còn bám 
víu chấp thủ, giải thoát ra khỏi những khái niệm “ta, của ta, và tự ngã của 
ta”./.