Ảnh hưởng của lễ hội Phật giáo đối với tín đồ và xã hội
Ảnh hưởng của lễ hội Phật giáo đ
Ảnh hưởng của lễ hội 
Phật giáo đối với tín đồ và xã hội
Thích Hạnh Chơn
 
Lễ hội là hoạt động văn hóa, 
tôn giáo, tín ngưỡng… mang tính cộng đồng của loài người. Xã hội nào, tôn giáo 
nào cũng có lễ hội với các hình thức và quy mô khác nhau. Phật giáo trong sinh 
hoạt được xem là một tôn giáo nên có các lễ hội mang tính đặc thù nhằm đáp ứng 
nhu cầu quần chúng, tín đồ Phật tử. Có nhiều lễ hội liên quan ít nhiều đến Phật 
giáo nhưng lễ 
hội mang tính đặc thù và phổ biến trong Phật giáo thì không nhiều. Trong bài 
này, người viết chỉ nêu ba lễ lớn mang tính phổ biến trong cộng đồng Phật giáo 
Bắc tông ở Việt Nam bởi các cơ sở tự viện đều tổ chức và chúng có ảnh hưởng nhất 
định đến tín đồ và xã hội. Bài biết sẽ nêu những ảnh hưởng của lễ hội Phật giáo 
vừa nêu và đưa ra vài suy nghĩ với mong ước lễ hội Phật giáo sẽ góp phần tốt hơn 
trong đời sống văn hóa 
tôn giáo của cộng đồng tín đồ Phật giáo.
Khái niệm 
lễ 
hội Phật giáo
Trong Phật giáo, từ lễ 
thường được sử dụng hơn là lễ hội bởi nó liên quan đến nghi lễ mang tính trang 
nghiêm, trang trọng gồm có nghi thức và lễ nhạc. Tuy nhiên, các lễ lớn của Phật 
giáo thường đan xen phần hội để tạo thêm nét đa dạng trong kỳ hay ngày lễ và 
nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của quần chúng tín đồ. Về khái niệm lễ hội, những 
tài liệu giải thích khá khiêm tốn.
Theo Từ điển tiếng Việt,
“Lễ hội là cuộc vui tổ chức chung, có các lễ nghi mang tính văn hoá truyền 
thống của dân tộc.” 
Lễ hội bao gồm hai phần: lễ 
mang màu sắc tâm linh và hội mang tính giải trí. Bách 
khoa
toàn
thư
mở nêu: “Lễ 
là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần 
linh, 
phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ 
chưa có khả năng thực hiện. Hội là 
sinh hoạt văn 
hóa, tôn 
giáo, nghệ 
thuật của 
cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống.”
Từ điển Cambrigde định nghĩa: “Lễ hội (festival) là thời gian đặc biệt 
tưởng nhớ một sự kiện tôn giáo với các hoạt động xã hội, thức ăn hoặc nghi lễ 
riêng của nó.”
Với các định nghĩa về 
lễ hội vừa nêu, Phật giáo tạm dùng khái niệm lễ hội cho các lễ lớn diễn ra tại 
các chùa gồm lễ cầu an đầu năm rằm tháng Giêng, đại lễ Phật đản, lễ Vu lan, lễ 
kỷ niệm chư Phật, Bồ-tát… Lễ hội Phật giáo luôn chú trọng phần lễ nghi trang 
nghiêm nhằm thể hiện sự tôn kính Đức Phật, Bồ-tát, Thánh tăng và mang tính tu 
tập chuyển hoá còn phần hội mang tính phụ trợ để thu hút quần chúng tham dự. Vấn 
đề này sẽ được thảo luận trong các phần tiếp theo.
Các 
lễ 
hội Phật giáo phổ biến
Như được nêu trong phần 
giới thiệu, bài viết đề cập đến ba lễ hội lớn của Phật giáo mang tính phổ biến 
là rằm 
tháng Giêng, đại 
lễ Phật đản và lễ 
Vu lan. Mỗi lễ hội có ý nghĩa khác nhau và do đó có sự ảnh hưởng đến tín đồ cũng 
khác nhau.
Lễ hội 
rằm 
tháng Giêng
Phật giáo trở thành văn hóa 
dân tộc nên vào dịp Tết và nửa đầu tháng Giêng, 
các chùa tùy 
điều kiện tổ chức các chương trình lễ hội để tín đồ Phật giáo nói riêng và quần 
chúng nói chung về chùa lễ Phật, cầu nguyện, tu học, tham quan, du xuân…
Phật giáo đã ảnh 
hưởng tâm thức tín đồ người Việt nên cứ sau giao thừa và ngày mồng một, hầu như 
tín đồ Phật tử đều đi chùa để lễ Phật, cầu nguyện một năm may mắn an lành, vấn 
an chúc Tết chư Tăng, gặp bạn tu, tạo phước báu qua việc cúng dường Tam bảo…
Hình ảnh sinh hoạt 
đi chùa đầu năm trở thành văn hóa
đẹp của người Việt nói chung và tín đồ Phật giáo nói riêng.
Thời gian sau Tết đến rằm 
tháng Giêng, tín đồ Phật giáo tham dự các khóa 
lễ cầu an và đỉnh điểm là ngày rằm tháng Giêng. Trong thời gian này, lễ hội được 
tổ chức rất phong phú tùy 
địa phương, vùng miền. 
Về lễ, các nghi thức Phật 
giáo được thực hiện nhằm cầu nguyện bình an cho tín đồ Phật tử và cho đất nước, 
dân tộc (quốc thái, dân an). Sự mong ước được bình an và may mắn trong công việc 
là nhu cầu chung của con người, 
và với tín đồ Phật giáo nhu cầu ấy đưa họ đến các chùa để tham gia các khóa 
lễ. Điều mong ước thiện lành được thực hiện thông qua các khóa 
lễ Phật giáo với ý nghĩa tu tập, hướng thiện, làm phước là nhân lành quý báu để 
đưa đến kết quả thiện. Cách thức cầu an được thực hiện như thế thì không có gì 
mang màu sắc mê tín, nếu không muốn nói là khoa học thực nghiệm tâm linh. Bởi 
vì, nội dung trong khoá lễ cầu an là ôn lại lời dạy của 
Đức 
Phật, là thực hành chánh niệm, là tạo phước báu qua việc làm phước cúng dường. 
Nó không mang yếu tố cầu xin ban phát mà là chuyển hóa 
để đạt được ước muốn lành. 
Về hội, các chùa 
tùy 
điều kiện tổ chức các hình thức vui chơi, bình thơ, hát lễ, viết thư pháp, văn 
nghệ để truyền bá tư tưởng Phật giáo, dân tộc... Nhìn chung, phần hội trong dịp 
lễ rằm 
tháng Giêng không phong phú lắm do các dịch vụ giải trí bên ngoài chiếm ưu thế.
Đại lễ Phật đản
Lễ hội thứ hai cũng là lễ 
lớn nhất và quan trọng nhất trong Phật giáo là Lễ Phật đản hay Lễ Vesak-Tam hợp 
(kỷ niệm ba sự kiện cùng lúc: 
Đản sanh, 
Thành 
đạo, Niết-bàn 
của Đức 
Phật). Gọi là lễ lớn và quan trọng nhất vì đây là lễ kỷ niệm các sự kiện quan 
trọng diễn ra trong cuộc đời của 
Đức 
Phật. Người đệ tử Phật phải tỏ lòng thành kính tri ân, tưởng nhớ đến bậc thầy đã 
khai sáng ra đạo Phật để chúng ta có cơ hội tu tập giác ngộ giải thoát là đạo lý 
xưa nay. Đệ tử Phật thì có xuất gia và tại gia. Hàng xuất gia trực tiếp tu học 
và truyền bá lời dạy của Đức 
Phật nên không thể nào quên đại lễ này. Trong khi đó, có rất nhiều Phật tử tại 
gia bao gồm Phật tử quy y và tín đồ đi chùa nhưng chưa quy y không nhớ, không 
quan tâm đến đại lễ quan trọng này. Đó là điều khác biệt lớn giữa tín đồ Phật 
giáo và tín đồ các tôn giáo lớn khác trên thế giới.
Về lễ, 
đại 
lễ Phật đản được tổ chức vừa hành chánh vừa theo nghi thức Phật giáo. Nghi thức 
Phật đản thì đơn giản so với các lễ lớn khác bao gồm nghi thức tắm Phật, tụng 
kinh đản sanh hay kinh tùy 
chọn, bài sám Phật đản và hồi hướng. Việc cầu nguyện cho cá nhân gia đình ít 
được đề cập trong dịp lễ này mà thay vào đó là cầu nguyện quốc gia, thế giới, 
nhân loại được an lành.
Về hội, có lẽ phần hội 
trong đại 
lễ Phật đản phong phú nhất so với hai lễ còn lại. Các chùa đều trang hoàng băng 
rôn, biểu ngữ, lễ 
đài, vườn Lâm-tỳ-ni…
tuỳ theo điều kiện. 
Một số chùa tổ chức triển lãm, thuyết pháp, văn nghệ, từ thiện, rước Phật đản 
sanh, diễu hành xe hoa, xe đạp hoa, thuyền hoa, thả hoa đăng…Các chương trình 
liên quan đến hội là phương tiện để phổ biến cho nhiều người biết đến ngày lễ 
trọng đại của Phật giáo, biết đến Phật giáo và từ đó họ tham gia sinh hoạt, tu 
học theo Phật giáo. 
Lễ hội Vu lan 
Lễ thứ ba 
- lễ 
Vu lan có tính phổ biến và ảnh hưởng lớn trong cộng đồng người Việt theo Phật 
giáo Bắc truyền. Lễ này thường được tổ chức từ cuối tháng 
Sáu 
cho đến rằm tháng Bảy 
và có nơi đến hết tháng Bảy 
(AL). Đây là thời 
gian chư Tăng theo truyền thống Bắc truyền kết thúc khóa 
An cư ba tháng. Theo kinh Vu 
nan
bồn, 
Đức Phật hướng dẫn đệ tử tên Mục-kiền-liên cúng dường cho thập phương Tăng sau 
khi họ kết thúc mùa An cư để cứu mẹ là Mục Liên Thanh Đề thoát khổ ngạ quỷ. Noi 
tấm gương đại hiếu của ngài 
Mục-kiền-liên, Phật tử tại gia cũng như xuất gia tổ chức cúng dường trai diên, 
lễ phẩm cho chư Tăng để cầu siêu cho ông bà, cha mẹ nhiều đời gọi là 
“Cửu 
huyền thất tổ” 
hay người thân đã qua đời. Hiếu trở thành đạo hiếu trong cộng đồng người Việt 
nên lễ 
Vu lan trở nên quan trọng và có lẽ phổ biến hơn 
đại 
lễ Phật đản.
Về lễ, các chùa hướng dẫn 
Tăng Ni, Phật tử trì tụng kinh Vu 
lan
và 
Báo hiếu 
để tín đồ ôn lại lời dạy hiếu thảo và phương pháp báo hiếu theo Phật giáo. Các 
nghi thức cúng dường, cúng hương linh kèm theo hình thức đọc tên cầu siêu cho 
những người thân của tín đồ Phật tử đã qua đời là phương tiện hữu hiệu để đưa 
tín đồ về chùa tham dự. Tâm thức hiếu kính ông bà tổ tiên, thương nhớ người thân 
qua đời là động lực thúc đẩy họ đến với Phật giáo. Và đó cũng là cách hữu hiệu 
dễ làm để báo hiếu hay giúp cho những người đã qua đời. 
Về hội, trong mùa Vu lan 
đan xen các nghi thức cầu siêu, tạo phước là các hình thức giáo dục và giải trí 
như cài bông hồng, văn nghệ về đạo hiếu, thư pháp, triển lãm, tiệc chay, từ 
thiện giúp đồng bào nghèo hay bệnh tật…
Nhìn chung, văn nghệ 
mùa Vu lan là chiếm ưu thế. 
Ảnh hưởng của lễ hội 
đối với tín đồ
Trong ba lễ hội lớn vừa 
nêu, chúng ta dễ dàng nhận thấy hai lễ hội 
rằm 
tháng Giêng và Vu lan có sức ảnh hưởng rộng rải trong cộng đồng tín đồ Phật tử 
hơn là đại 
lễ Phật đản. Lễ hội rằm tháng Giêng kết hợp với Tết đã tạo nên văn hóa 
Phật giáo - 
văn hóa 
đi chùa của tín đồ Phật tử và du khách. Phật giáo duy trì và phát huy nét văn hóa 
đẹp ấy là đã đóng góp cho văn hóa 
dân tộc, cho xã hội. Lễ Vu lan có sức lan toả lớn trong cộng đồng tín đồ Phật tử 
bởi lễ này nhắc lại và nhấn mạnh đạo hiếu. Hiếu là nền tảng đạo đức của dân tộc 
nên phát huy được giá trí đạo đức tức là đóng góp cho xã hội, cho đất nước. Sự 
ảnh hưởng của hai lễ hội này không chỉ trong phạm vi các chùa mà còn lan tỏa 
trong cộng đồng tín đồ Phật giáo nói riêng và cả xã hội Việt nói chung. 
Ngược lại, 
đại 
lễ Phật đản quan trọng nhất đối với người đệ tử Phật lại ít có sức ảnh hưởng 
trong cộng đồng tín đồ Phật tử và xã hội. Số lượng tín đồ về tham dự kỷ niệm 
Phật đản còn khiêm tốn. Cộng đồng tín đồ Phật tử tham gia treo cờ Phật giáo tại 
tư gia, dâng lễ cúng Phật, làm vườn Lâm-tỳ-ni, 
tham gia các hoạt động mùa Phật đản chưa tương xứng. Nguyên nhân tại sao?
Có rất nhiều lý do mà muốn 
nắm rõ phải thực hiện cuộc điều tra xã hội học thực tế. Trong giới hạn hiểu biết 
của mình, người viết nêu ra nguyên nhân tạm gọi là 
“cung-cầu”. 
Dịp rằm tháng Giêng là thời điểm tín đồ cầu bình an, may mắn và thịnh vượng cho 
gia đình trong một năm. Phật giáo đáp ứng nhu cầu đó nên tín đồ Phật tử về chùa 
đông để cầu nguyện. Từ đó, lễ hội rằm tháng Giêng tạo thành văn hoá lễ chùa, văn 
hóa
Phật giáo. Vào dịp tháng 
Bảy 
thì tín đồ Phật tử có nhu cầu cầu siêu cho 
“Cửu 
huyền thất tổ” 
nên họ về chùa để cúng. Lễ Vu lan đáp ứng nhu cầu ấy nên thu hút được số đông 
tín đồ Phật tử tham gia. Hơn nữa, lễ Vu lan nêu cao tinh thần hiếu đạo, tri ân 
và báo ân ông bà tổ tiên đã chạm đến trái tim của đa số quần chúng nên họ về 
chùa để thấm nhuần thêm tinh thần ấy. Đối với 
đại 
lễ Phật đản hay lễ 
Vesak, nội dung chính là tưởng niệm và tri ân 
Đức 
Phật 
-
Bậc
Thầy 
của nhân loại. Tinh thần tri ân và cách giáo hóa 
để tín đồ tại gia ý thức bổn phận tri ân 
Bậc
Đạo 
sư chưa được phát huy. Do đó, đạo lý này dù hay vẫn chưa trở thành nhu cầu của 
tín đồ nên họ ít đến chùa và tham gia lễ hội. Có lẽ, sẽ có nhiều ý kiến không 
tán đồng và vì vậy rất cần sự chia sẻ ý kiến hay để tìm giải pháp hiệu quả.
Lễ hội cần phải thích 
nghi với thời đại
Phật giáo cần những giải 
pháp nào để duy trì và phát huy giá trị của các lễ hội vốn có? Lễ hội Phật giáo 
muốn duy trì sự ảnh hưởng đối với tín đồ và xã hội phải phát huy được giá trị 
của nó và đồng thời thích nghi với nhu cầu thời đại. 
Giá trị của 
lễ 
rằm tháng Giêng là đáp ứng nhu cầu cầu bình an và mong ước may mắn thịnh vượng 
của tín đồ. Phật giáo cần hướng tín đồ thực hành đúng giáo pháp nhân qủa 
Đức Phật dạy. Đó là sự tu tập, sự tạo phước báu chứ không phải là giải trừ sao 
hạn theo cách tế lễ. 
Giá trị của lễ Vu lan là 
đáp ứng nhu cầu của tín đồ về cầu siêu, thực hành đạo hiếu đối với ông bà tổ 
tiên và thể hiện tình thương với người thân còn sống cũng như đã qua đời. Phật 
giáo hướng dẫn tín đồ tu tập công đức, tạo phước báu qua các hành động thiết 
thực để hồi hướng cho tổ tiên, người thân qua đời, sống hiếu thảo với người còn 
sống thay vì quá nặng về hình thức cúng kiến. Khi giá trị của lễ hội được khẳng 
định và phù hợp với tinh thần nhân quả thì lễ hội Phật giáo sẽ không bao giờ lạc 
hậu và sẽ duy trì được sự ảnh hưởng bền vững của nó đối với tín đồ, xã hội, 
bởi nó trở thành văn hóa
đạo đức dân tộc. 
Vậy thì giá trị của 
đại 
lễ Phật đản là gì? Đó là tinh thần tri ân, uống nước nhớ nguồn. Tuy nhiên, số 
lượng tín đồ Phật giáo hiểu 
đúng giáo pháp
quá 
khiêm tốn thì làm sao họ có thể ý thức bổn phận tri ân báo ân đối với Đức Phật 
Thích Ca. Nếu họ tri ân báo ân có lẽ họ nghĩ đến Đức Phật A Di Đà, Bồ-tát 
Địa Tạng, Bồ-tát 
Quán Thế Âm nhiều hơn vì họ được dạy và họ tin rằng chính Đức Phật A Di Đà, Bồ-tát 
Địa Tạng tiếp độ các hương linh người thân của họ siêu thoát, còn Bồ-tát 
Quán Thế Âm thì kiêm cả hai và nhất là 
gia
hộ 
cho họ được bình an trong cuộc sống khi họ kêu cứu. Nói cách khác, tín đồ tri ân 
báo ân những vị đáp ứng nhu cầu của họ khi họ cần. Do đó, 
đại 
lễ Phật đản sẽ được phát huy giá trị trong cộng đồng tín đồ khi nào đáp ứng được 
nhu cầu của họ và có sự thích nghi để đáp ứng nhu cầu của tín đồ. Làm sao để tín 
đồ thấy được nhu cầu đó?
Ai cũng dễ dàng nhận thấy
đại 
lễ Phật đản ít phổ biến, ít người hưởng ứng tham gia so với 
lễ
Giáng 
sinh. Một số tín đồ Phật giáo muốn có những hình ảnh, biểu tượng liên quan Đức 
Phật tại các nơi công cộng để 
lễ Phật đản được 
nhiều người biết đến. Tuy nhiên, khi so sánh và mong muốn lễ hội Phật giáo phổ 
biến thì chúng ta phải biết bản chất của mỗi lễ hội tôn giáo để từ đó phát huy 
thế mạnh của nó mà thu hút tín đồ tham gia. Với 
lễ
Giáng 
sinh, sự lan tỏa 
của nó không chỉ dừng lại nơi 
phạm vi tôn giáo mà
vươn sang những lĩnh vực như 
vui chơi giải trí, mua sắm 
và hưởng thụ. Cái yếu tố phi tôn giáo và sự đáp ứng nhu cầu hưởng thụ là động 
lực đưa dòng người đến với 
lễ hội ấy bất kể họ thuộc tín 
đồ tôn giáo nào. Với
đại 
lễ Phật đản, bản chất của lễ hội là sự tu tập chuyển hóa 
chứ không phải đáp ứng nhu cầu giải trí hưởng thụ. Do đó giới trẻ ít tham gia là 
điều có thể suy luận ra. 
Hơn nữa, hình thức tổ chức
đại 
lễ Phật đản đôi khi tạo sự 
nhàm chán. Việc nghe giới 
thiệu dài dòng thành phần tham 
dự, giới thiệu tặng 
hoa, nghe 
đọc thông điệp, diễn văn,
phát biểu và cuối 
cùng là nghi thức đơn điệu khó đi vào tâm can tín đồ Phật tử. 
Vậy giá 
trị nào của lễ hội có thể
làm động lực 
đưa
tín đồ đến với lễ hội?
Nếu lễ Phật đản có thể cung cấp một khóa 
tu để cho tín đồ hiểu giá
trị đạo Phật, một 
chương trình văn nghệ đặc sắc nói về sự hy sinh của 
Đức 
Phật, một hoạt động thiết thực như 
tặng quà 
Phật đản, một buổi tưởng niệm tri ân làm nổi bật 
sự vĩ đại của Đức 
Phật về đức tính từ bi, trí tuệ, dấn thân phụng sự…
và nhiều chương 
trình thiết thực phù hợp với thời đại khác thì tín đồ và quần chúng mới tìm đến 
để học hỏi và trải nghiệm. Các chương trình do 
Đại 
Tăng thực hiện có năng lực mầu nhiệm khác với buổi thuyết giảng chỉ nêu lý 
thuyết. Đó là điều cốt lõi của Phật giáo và điều đó đang thiếu. Khi giá trị của
đại 
lễ được củng cố cộng thêm hình thức mang tính hội, giải trí nữa thì tự động tín 
đồ sẽ đến với lễ hội như họ đến với 
lễ Noel 
vậy.
Bài viết mong rằng các ban 
ngành liên quan dành thời gian nghiên cứu
để 
cống hiến những nội dung và 
hình thức hữu hiệu để làm cho lễ hội Phật giáo trở nên hấp dẫn đối với tín đồ 
Phật tử và quần chúng, 
và tạo nên nét văn hóa
đặc trưng Phật giáo. 
 
 
 
 
 
 
	
 
	
		
		
		 
		Hoàng 
		Phê chủ biên, Từ 
		
		điển
		
		
		tiếng 
		Việt, 
		NXB.Đà 
		Nẵng, 2004, tr.561.