Nguyên Nhân của Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo Nam Bộ Giai Đoạn 1920-1945
Nguyên Nhân của Phong Trào Chấn
Nguyên Nhân của Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo Nam Bộ Giai Đoạn 1920-1945
Thích Đồng Hạnh
1. Bối cảnh nghiên cứu
Ý tưởng về 
chấn hưng Phật giáo xuất phát đầu tiên từ 
HT.Khánh Hòa vào năm 1923. Nhân ngày giỗ tại chùa Long Hoa, quận Tiểu Cầu, tỉnh 
Trà Vinh (19-9-Quý 
Hợi), HT.Khánh Hòa 
đã thỉnh 
mời những vị tôn túc ở vùng Tiền - Hậu Giang về dự. Trong buổi lễ giỗ, Hòa 
thượng 
đã 
ngõ ý mời các vị tôn túc cùng thành lập một tổ chức Phật giáo chung nhằm củng cố 
và 
chấn hưng Phật giáo [15, 
tr.43]. Trước ngõ ý rất chân thành của HT.Khánh Hòa và vì một nền Phật giáo
tươi sáng 
hơn, 
chư 
Hòa thượng như Huệ Quang, Chí Thiền, Trí Thiền, Từ Phong, Chánh Quả, An Lạc, Huệ 
Định, Diệu Pháp đã 
hoan hỷ nhận lời 
hiệp tâm với HT.Khánh Hòa. 
Quý ngài 
đã thành lập 
Hội 
Lục Hòa Liên Hợp nhằm tạo 
cơ sở 
cho một hội Phật giáo thống nhất toàn quốc. Nhưng những nỗ 
lực ban đầu của HT.Khánh hòa 
đã 
thất bại [15, 
tr.45; 
8, 
tr.23].
Mãi tới năm 1926, ý tưởng 
chấn hưng Phật giáo
mới được cư sĩ Huỳnh Thái Cửu 
nhắc lại. 
Nhân dịp 
lễ 
Vu 
lan 
vào năm này, 
cư sĩ đã 
thỉnh 
mời một số vị Hòa thượng tới 
tư 
gia tại Trà Vinh để cúng dường trai tăng. Trong buổi tác bạch cúng dường, cư sĩ 
đã 
thưa trình về 
những vấn nạn của giới 
Tăng
Ni 
và sự suy thoái của Phật giáo nước nhà, và 
ông 
cũng nêu rõ thành ý muốn thành lập một tổ chức Phật giáo thống nhất để hưng khôi 
Phật giáo nước nhà. [15, 
tr.44; 
26, 
tr.431]. Cư sĩ 
Huỳnh Thái Cửu đã 
đề ra 3 tiêu chí cho việc chấn hưng 
như sau:
a.      
Lập hội Phật giáo.
b.     
Thỉnh ba tạng kinh điển dịch ra chữ Quốc ngữ.
c.      
Lập trường Phật học đào tạo 
Tăng 
tài.
Vào năm 1927, 
HT.Khánh 
Hòa hiệp thông cùng 
HT.Huệ 
Quang, Liên Trì, Thiện Niệm, Thiện Chiếu cùng các cư sĩ trẻ tại chùa Linh Sơn 
lập 
ra 
một tổ chức với tên gọi Phong Trào Chấn Hưng, với mục đích ban đầu là làm 
cơ sở giáo dục chư 
Tăng
Ni 
và tàng lưu kinh sách phục vụ cho vấn đề nghiên cứu [15, 
tr.50]. Tuy nhiên, do không xin được giấy phép của chính quyền thuộc địa, tổ 
chức này không được đi vào hoạt động. Vào đầu năm 1929, nhóm của 
HT.Khánh 
Hòa lại hiệp thông với 
sư 
Thiện Chiếu lập Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học. Nhưng do không xin được giấy 
phép, nên tổ chức này 
cũng 
không 
thể 
đi vào hoạt động ngay được. Cũng trong năm 1929, nhóm 
HT.Khánh 
Hòa đã vận động thành lập hai tập san Phật giáo bằng chữ Quốc ngữ là Pháp Âm 
và Phật Hóa Tân Thanh Niên. Tuy nhiên, tờ Pháp Âm bị đình chỉ ngay 
sau ấn bản đầu tiên; tờ Phật Hóa Tân Thanh Niên vẫn được hoạt động.
   Ngày 26-8-1931, 
Thống đốc Nam Kỳ Khrautheimer phê chuẩn Nghị định số 2062 chính thức công nhận 
tính pháp lý của Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học (Association pour l'etude et la 
conservation du Bouddhisme en Cochinchine), đồng thời thông qua bản điều lệ gồm 
19 điều và bản quy tắc 51 điều
[15, 
tr.54].
   Tiếp bước sự thành công của Hòa thượng Khánh Hòa trong việc lập Nam Kỳ Nghiên 
Cứu Phật Học Hội, một số vị tôn túc cũng cho thành lập những tổ chức Phật giáo 
cũng như 
tập 
san Phật giáo, 
nhằm mục đích cùng 
chấn hưng Phật giáo tại Nam bộ. Đến ngày 16-7-1935, 
tại Miền Nam có các tổ chức 
Phật giáo 
được công nhận tính pháp lý là: Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học đăng ký tại
chùa 
Linh Sơn, Sài Gòn; Tịnh độ Cư sĩ Phật 
Hội 
tại chùa Hưng Long, Chợ Lớn; Lưỡng Xuyên Phật học Hội tại chùa Long Phước, Trà 
Vinh; Long Xuyên Phật giáo Lương Hữu 
Hội 
tại chùa Bình An, Long Xuyên; Hội Phật 
Học 
Tương Tế
tại chùa Thiên Phước, Sóc Trăng; Thiên Thai Thiền 
Giáo
Tông 
Liên 
Hữu 
Hội 
tại chùa Phước An, Bà Rịa [36, 
tr.55]. 
Thành lập muộn nhất tại Miền Nam là Hội Phật học Kiêm Tế (Association 
Bouddhique et de Bienfaisance de Rachgia) vào năm 1937, 
và đây là hội Phật giáo cuối cùng được thành lập tại Nam 
Bộ 
giai đoạn 1920-1945 [6, 
tr.8].
   Phong trào chấn hưng tại Nam 
Bộ 
giai đoạn 1920-1945 thật sự đạt được mục tiêu quảng tuyên 
Phật 
lý theo hướng chuyên nghiệp, phổ thông và dễ tiếp cận, bởi vì mỗi hội nhóm kể 
trên đều có những Tập san Phật học. Những tờ báo có ảnh hưởng tới phong trào 
chấn hưng trong giai đoạn này là Từ Bi Âm (Nam kỳ Nghiên cứu Phật học 
Hội), Duy Tâm ( Lưỡng Xuyên  Phật học Hội), Tiến Hóa (Phật học 
Kiêm tế Hội), Tạp chí Pháp Âm (Tĩnh 
độ 
Cư 
sĩ), 
và Phật Học Tùng Thư ( Đoàn Trung Còn) [12, 
tr 
567]. 
Hơn thế nữa, phong trào chấn hưng Phật giáo đã góp phần xác định yếu tố Phật 
giáo là một trong những yếu tố quan trọng của văn hóa Việt Nam [12, 
tr 
568], 
mặc dù còn nhiều hạn chế trong thành quả.
   Vậy nguyên nhân gì đã thúc đẩy việc chấn hưng Phật giáo trong giai đoạn này? 
Để trả lời cho câu hỏi này, bài viết này xin nêu những nguyên nhân đã thúc đẩy 
công cuộc chấn hưng 
Phật giáo 
tại Việt Nam nói chung và tại Nam 
Bộ 
nói riêng. 
2. Những nguyên nhân thúc đẩy sự chấn hưng Phật giáo giai đoạn 1920-1945
2.1.1. Những tác động từ bên ngoài
   Trong giai đoạn đầu 
của 
thế kỷ 20, nhiều cuộc vận động chấn hưng Phật giáo quốc tế đã diễn ra, như
các 
phong trào chấn 
hưng 
Phật giáo 
ở
Ấn Độ, Trung Quốc 
v.v… Những phong trào này 
đã ảnh hưởng tới 
giới 
trí thức hữu tâm người Việt, và thúc đẩy họ tiến bước khôi chấn 
lại 
Phật giáo nước nhà [16;
1].
   Phong trào chấn hưng Phật giáo tại Ấn Độ được 
khởi 
xướng bởi David Hewavitarane, người Tích Lan. Ông về sau xuất gia và được gọi là 
Đại 
đức 
Dharmapala [12, 
tr.561;
5, tr.645]. 
Dharmapala bắt đầu công việc chấn hưng Phật giáo tại Ấn Độ bằng việc trùng tu 
lại các Phật 
tích 
quan trọng tại Ấn Độ (12, 
tr.565). 
Một thời gian sau, song song với việc trùng tu những thánh tích Phật giáo đang 
diễn 
tiến, 
Dharmapala vận động thành lập 
Hội 
Mahabodhi Society. 
Hội 
Mahabodhi không chỉ là 
nơi 
xuất bản tạp chí Phật học mà còn là trung tâm Phật học [12, 
tr.564;
5, tr.692].
   Hơn thế nữa, Dharmapala cũng là người truyền lửa cho việc chấn hưng Phật giáo 
tại Trung Quốc. Theo Nguyễn Lang [12, 
tr.563], 
vào năm 1908, 
Dharmapala đã liên lạc với cư sĩ Dương Nhân Sơn ở Trung 
Quốc 
để thành lập Kỳ Hoàn 
tinh
xá, 
làm nơi cho Tăng Ni và cư sĩ hữu tâm về nghiên cứu Phật học. Trung 
tâm 
Kỳ Hoàn khuyến khích các Tăng Ni và học giả nghiên cứu và dịch thuật Phật pháp 
bằng ba ngôn ngữ chính:
Anh, Hán và 
Pāli. 
Dương Nhân Sơn và những người bạn của ông sau này trở thành những trụ cột chính 
trong phong trào chấn hưng Phật giáo tại Trung Hoa.
   Phong trào chấn hưng Phật giáo tại Nhật Bản bắt nguồn từ cuộc cải cách của 
Thiên 
hoàng 
Minh Trị vào cuối thế kỷ 18
- đầu thế kỷ 19. Vào cuối thế kỷ 19, với sự ủng hộ của các nước phuong Tây và 
lợi dụng sự bất mãn của các Phiên, Minh Trị đã lật đổ thế lực Mạc Phủ và trở 
thành người nắm quyền lực tối cao tại Nhật Bản 
[22]. 
Sau khi lên nắm quyền, Minh Trị ban hành chính sách cải cách toàn diện Nhật Bản 
[17, tr.60]. Vào thời Mạc phủ Togugawa, 
nhà nước 
thiết lập chính sách Đàn 
gia 
(Danka). Theo chính sách này, tất cả người dân phải đăng ký hộ khẩu tại một ngôi 
chùa [17, tr.62]. Nói cách khác, 
chùa chiền 
trở 
thành công cụ quản lý nhân khẩu trong một 
vùng. 
Bởi vậy, khi Thiên 
hoàng 
Minh Trị lên nắm quyền, Phật giáo bị rơi vào tầm cải cách quyết liệt nhất.
   Thực tế, Minh Trị không chủ tâm cải cách để Phật giáo tốt hơn mà chủ trương 
triệt hạ sự phát triển của Phật giáo [17, tr.65]. Nhưng sự đàn áp của Minh Trị 
lại 
đưa đến một chiều hướng khác. 
Khi Phật giáo rơi vào tình trạng bế tắc cùng cực, 
các tu sĩ Phật giáo 
bắt đầu 
tìm đường qua Châu Âu du học. Khi 
trở 
về, những tu sĩ này 
được trang bị 
một kiến thức sâu rộng về Pāli, Anh và Sankrit, 
cộng với kiến thức nghiên cứu hiện đại và hàn lâm của phương Tây. 
Họ
đã lập ra những hội phiên biên dịch kinh điển từ Pāli, Sankirt, 
Hán 
sang 
Nhật 
ngữ. 
Họ cũng lập những trường Phật học để truyền bá và nghiên cứu Phật học
[17, tr.67].
   Để nối dài tinh thần học thuật cho Phật giáo, việc đào tạo, bồi dưỡng, giáo 
dục là lựa chọn tất yếu. Các trường đại học chuyên khoa của các tông phái Phật 
giáo liên tiếp xuất hiện dưới thời Đại Chính. 
Đến 
nay, sau những nỗ lực toàn diện để cải cách và hiện đại hóa Phật giáo, cùng ảnh 
hưởng của 
triết 
học Phương Tây và Ki-tô 
giáo, Phật giáo Nhật Bản đã hoàn toàn thoát ly hình thái và quan niệm của Phật 
giáo Trung Quốc. Tầng lớp tu sĩ vào núi tu hành và chờ chúng sinh đến xin cứu độ 
đều bị xã hội hiện đại đào thải [17, tr.69].
   Phong trào chấn hưng Phật giáo tại Trung Quốc được khởi xướng từ nhóm của cư 
sĩ Dương Nhân Sơn và 
Đại 
sư Thái Hư [12, 
tr.557; 
24]. 
Nhưng nguyên nhân của việc chấn hưng là do sự suy thoái và yếu kém của Phật giáo 
tại Trung 
Quốc 
từ đầu thế kỷ 19. Theo 
Thích Nữ Tuệ Thanh [24], 
dưới thời Gia Khánh, triều đình bỏ chính sách quản lý chùa chiền và ủng hộ mạnh 
mẽ sự phát triển của chùa chiền. Với sự ủng hộ này, bao nhiêu tệ hại đã
ập 
tới với Phật giáo Trung 
Quốc. 
Cũng 
chính 
trong giai đoạn này, Trung Quốc bị tấn công bởi phương Tây và Nhật Bản, điều này 
khiến 
cho 
giới trí thức xem Phật giáo như là vật cản cho sự canh tân đất nước.
   Người góp công đầu trong việc canh tân Phật giáo Trung 
Quốc 
là Dương Nhân Sơn. Ông tên thật là Văn Hội (1837-1911), người Thạch Đại, tỉnh An 
Huy. Năm 28 tuổi, khi đang nằm điều trị bệnh, 
ông tình cờ đọc được nhiều trước tác Phật giáo. 
Sau đó
ông 
phát 
nguyện đi theo đạo Phật và tiếp tục nghiên cứu các bộ kinh luận 
Phật giáo, 
như kinh Hoa 
nghiêm,
Pháp 
hoa,
các bộ 
luận 
về 
Duy 
thức
và 
Tịnh 
độ
v.v… 
Điều đặc biệt là trong khi đi công tác tại Anh, ông đã kết giao với một vị trí 
thức của Nhật Bản, đó là Tiến sĩ Nam Điều Văn Hùng. Nhờ thiện duyên này mà ông 
đã mang được nhiều Phật điển, chương sớ 
bị tán thất tại 
Trung Quốc nhưng vẫn còn tại Nhật Bản về lại Trung Quốc và cho ấn hành. Năm 
Quang Tự hai mươi ba (1897), ông sáng lập 
Khắc 
kinh xứ tại Kim Lăng. Trải qua nhiều gian lao vất vả, 
cuối cùng 
đã 
in được hơn 2.000 
quyển kinh, luận. Sự nghiệp nghiên cứu Phật học và trước tác của ông 
đã 
được biên tập thành một bộ 
sách 
gồm 10 
quyển 
với tên gọi là Dương Nhân Sơn 
cư
sĩ
di
trước 
[11, tr.25-26].
Mặc dù Dương Nhân Sơn là người đi đầu trong việc chấn hưng Phật giáo Trung
Quốc,
Đại 
sư Thái Hư được xem là người tiến hành và phát triển phong trào chấn hưng Phật 
giáo Trung 
Quốc
[11, tr.25-26].
Ngài họ Lữ, hiệu Duy Tâm, pháp danh Thái Hư, sinh ngày 2 tháng 12 năm 1889 tại 
huyện Sùng Đức, tỉnh Triết Giang, 
vào 
đời vua Quang Tự năm thứ 15. Lúc
16 tuổi, vào năm Quang Tự 30 (1904), 
ngài
lên núi 
Tiểu Cửu Hoa 
cầu 
xin xuất gia với Hòa thượng Khoan Công, 
và được 
bổn 
sư đưa về Tứ Minh, làm lễ ra mắt Tổ sư Tráng Niên Lão Nhân và chính thức xuất 
gia tại đây. 
Vào năm 1924, 
ngài 
tổ chức Đại hội Phật giáo Liên hiệp thế giới tại chùa Đại Lâm. Và trong thời 
gian này, ngài bắt đầu giảng kinh Nhân 
vương
hộ
quốc 
tại 
Trường 
Đại học Trung Hoa. 
Sau đó
ngài 
đi thăm Ngũ Đài 
Sơn 
và hướng dẫn phái đoàn Phật giáo Trung 
Quốc 
đi Nhật tham dự Đại hội Phật giáo Đông Nam Á. Về nước, 
ngài 
đi Thượng Hải lập Phật Hóa Giáo Dục Xã, xuất bản tuần san Tâm Đăng, đến 
giảng tại Đại học Hạ Môn và Phật 
học
viện 
Mân Nam. Bấy giờ trong nước cuộc chiến tranh đã lan tới phương Bắc, Tăng Ni bị
buộc 
phải hoàn tục. Trong tình thế này, 
ngài
đã 
viết ra quyển Tăng 
chế
kim
luân 
để vận động 
cách tân 
Phật giáo.
   Tóm lược:
Nguyên 
nhân của những phong trào chấn hưng Phật giáo tại Ấn 
Độ, 
Nhật Bản và Trung Quốc đều xuất phát từ sự suy thoái trong chùa chiền. Điều này 
cũng đúng với Phật 
giáo 
Việt Nam 
ở 
giai đoạn đó, 
như 
được mô tả rõ trong nhận xét của 
Sư 
Thiện Chiếu: “Xét lại Tăng giới hiện thời của nước ta, nhất là Nam kỳ, phần 
nhiều không chuyên tâm về đường học vấn... Phần lớn chỉ cầu Thần Phật hộ trì cho 
cuộc đời mình sung túc, ít ai chịu thậm nhập đạo từ bi bác ái. Chùa chiền giống 
công ty bảo hiểm thì tránh sao những kẻ gian tà không lợi dung làm kế sinh nhai, 
khiến cho trong giới Tăng sĩ hằng diễn tệ nạn.” 
[6, tr.57]. 
Với sự tương đồng 
như vậy, 
những cuộc chấn hưng Phật giáo diễn 
ra 
tại Ấn 
Độ, 
Nhật Bản và Trung Quốc vô hình chung là chất xúc tác hữu hiệu thúc đẩy những
người 
thiện tâm đứng lên cách tân Phật giáo nước nhà.
2.1.2. Những tác nhân từ trong nước
   Từ đầu thế kỷ 18 tới giữa thế kỷ 19, xã hội Việt Nam thay đổi liên tục, và 
đây là nguyên nhân tạo ra những nhân tố tác động mạnh tới nền Phật học. Theo tư 
liệu 
mà 
chúng tôi có, có bốn nguyên nhân trong nước 
đã 
tác động mạnh tới sự cải cách và chấn hưng Phật giáo trong giai 
đoạn 
1920-1945: 
sự 
thay đổi của nền giáo dục,
sự 
kỳ thị tôn giáo của thực dân Pháp, 
sự 
ra đời một số tôn giáo bản địa mới, 
và 
sự 
suy thoái 
của tầng lớp Tăng sĩ.
a.     
Sự thay đổi của hệ thống giáo dục
Ngày 21-12-1917, Toàn quyền Albert Sarraut ký Nghị định ban hành Học chính Tổng 
quy (Règlement général de l’Instruction publique en Indochine), là bộ 
luật giáo dục chính thức quy định về cơ quan quản lý giáo dục, hệ thống trường 
lớp, cơ cấu tổ chức các loại trường, chương trình, quy định về giáo viên, cách 
thức đánh giá, thi cử, thanh tra nhà trường
[20, tr.42]. 
   Kể từ khi bộ luật giáo dục này được ban hành, nền giáo dục Việt Nam bước vào 
ngã rẻ mới:
Tư tưởng giáo dục Nho gia bị thay thế bằng giáo dục thực tiễn, 
và Tiếng Việt 
cùng 
chữ Quốc 
ngữ
và 
Pháp ngữ được đẩy mạnh, dùng làm công cụ chính cho giáo dục thời kỳ này [20, 
tr.45]. 
Vào 
thời 
kỳ 
này, một đội ngũ trí thức Tây học xuất hiện thay thế tầng lớp trí thức cũ 
nặng về
“tầm chương trích cú”
[1].
Giáo dục 
Phật giáo Việt Nam 
vào 
giai đoạn trước khi Pháp ban hành bộ luật giáo dục năm 1917 
chịu
ảnh hưởng nặng nề 
phương thức giáo dục của 
Nho gia, với kiểu 
học 
tầm chương trích cú phổ biến 
trong 
giới Tăng lữ.
Vào 
giai đoạn này, 
hầu hết kinh điển Phật giáo được lưu 
giữ 
bằng Hán văn. Cho nên khi tư tưởng Tây học được phổ biến rộng rãi trong quần 
chúng, Phật giáo bị rơi vào thế lạc hậu 
[1].
b.     
Sự kỳ thị tôn giáo của Pháp
   Vào năm 1885, thực dân Pháp chính thức đô hộ toàn bộ Việt Nam, Lào và 
Campuchia cũng như Quảng Tây. Trong thời gian cai trị, ngoài hệ thống giáo dục 
thực tiễn, thực dân Pháp 
còn 
ủng hộ 
mạnh mẽ việc
phát 
triển Ki-tô 
giáo 
[12, tr.550]. 
Với chính sách 
này, 
Pháp dùng nhiều biện pháp để triệt thoái ảnh hưởng của Phật giáo trong quần 
chúng nhân dân. Trong giai đoạn từ năm 1861 đến 1865, Pháp 
đã 
triệt hạ các chùa lớn, chỉ 
để 
lại các chùa trong ngõ hẻm [13, 
tr29]; 
trong đó
chùa Kim Chương và chùa Phật Lớn (Ông Phúc) bị dỡ 
bỏ 
vào năm 1865, trong khi chùa Kim Tiên (Chợ Quán) bị dỡ 
bỏ 
vào năm 1863. Tồi tệ hơn, trong giai đoạn này, Pháp thực hiện chính sách kỳ thị 
tôn giáo. Chúng không chỉ ủng hộ sự phát triển của Thiên Chúa giáo mà còn chiếm 
dụng chùa chiền để làm 
đồn bốt, 
nhà thờ [3,tr.28].
c.
Sự ra 
đời 
những tôn giáo bản địa mới
   Một nguyên nhân khách quan khác ảnh hưởng tới Phật giáo là việc ra đời các 
tôn giáo mới mà 
chúng 
dựa trên nền tảng của Phật giáo, 
như Bửu Sơn Kỳ Hương (1849), Cao Đài (1926), Tứ Ân Hiếu Nghĩa (1867), 
và Hòa Hảo (1939) [7, 
tr.11-12]. 
Mặc dù nhiều sử liệu trong giai đoạn 1920-1945 cho thấy Hòa 
Hảo và Tứ Ân Hiếu Nghĩa không gây được 
nhiều 
ảnh hưởng, 
thì 
đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và Cao Đài là hai tôn giáo có sức ảnh hưởng cực kỳ lớn đối 
với quần chúng nhân dân trong khu vực Nam Bộ 
[18]. 
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương mặc dù được 
thành 
lập 
dựa 
trên nền tảng Phật lý, nhưng nó đơn giản và mộc mạc hơn, 
vì vậy 
nó gần gũi và thu hút được thành phần nông dân nghèo khổ ở lưu vực sông Cửu Long 
[14];[10, 
tr.46]. 
Trong khi đó, mặc dù có tuồi đời non trẻ, đạo Cao Đài được cho là có ảnh hưởng 
mạnh nhất và thu hút được nhiều người theo nhất trong giai đoạn 1920-1945 
[18].
d.     
Sự 
suy thoái 
của tầng lớp Tăng sĩ
   Sự suy yếu về phẩm chất tu học của giới Tăng lữ có lẽ là nguyên nhân quan 
trọng thúc đẩy sự chấn hưng Phật giáo 
[1].
Hòa thượng 
Thích 
Mật Thể 
[25, 
tr.53] 
trong công trình nghiên cứu sơ lược 
về
lịch sử 
Phật giáo Việt Nam, 
đã 
nhấn mạnh 
rằng 
nguyên nhân yếu kém của 
tầng lớp
Tăng lữ là do sự sủng ái quá mức của các vua triều Nguyễn đối 
với Phật giáo: “Từ trên vua quan cho đến thứ dân, ai ai cũng an trí đạo Phật 
là ở sự cúng cấp cầu đảo chứ không biết gì khác nữa…
Phần đông Tăng đồ chỉ nghĩ đến danh vọng, chức tước: xin bằng Tăng Cang, Trú 
trì, Sắc tứ .v.v...
Ôi! Tinh thần Phật giáo đến đây hầu đã tuyệt diệt?”.
Về giáo lý, kinh sách thì bị thất truyền, sai lạc nhiều do sự thâm nhập của lối 
sống thế tục và các hình thức mê tín, nhất là của đạo Lão thần tiên. Về sự tu 
hành càng bị sa sút. Cư sĩ 
Khánh Vân đã miêu tả trong Tạp chí Duy Tâm số 18 năm 1926 rằng: “Có kẻ 
mượn Phật làm danh, cũng ngày đêm hai buổi công phu, thọ trì, nhập sóc vọng, 
cũng sám hối như ai, nhưng lại luyện bùa học ngải, luyện roi thần, khi lên ông, 
lúc gặp bà, gọi là cứu nhân độ thế, nhưng thực ra lợi dụng lòng mê muội của 
thiện nam, tín nữ, rộng túi tham vơ vét cho sạch sành sanh.”[27, 
tr.301-307].
Cư sĩ 
Thanh Quang cũng nói về tình trạng này trong Tạp chí Đuốc Tuệ: “Đau 
đớn thay xứ ta, những hạng xuất gia vào chùa phần nhiều chỉ học đặng vài bộ 
kinh, lo luyện hơi cho hay, tập nhịp tán cho già, nay lãnh đám này, mai lãnh đám 
kia; cũng tràng hạt, cũng cà-sa, 
thử lật mặt trái của họ ra mà xem thì có khác nào người trần tục.”
[28, 
tr.3-5].
 
 
 
3. Kết Luận
Trong nghiên cứu này, 
khảo
cứu
lịch
sử 
và 
khảo
cứu
văn
học 
được sử dụng 
như 
hai công cụ cho việc tiếp cận dữ liệu. Sau khi phân tích nguồn dữ liệu, 
cho thấy có hai nguyên nhân chính thúc đẩy sự chấn hưng Phật giáo giai đoạn 
1920-1945, nguyên nhân từ bên ngoài và nguyên nhân trong nước.
Trong khi nguyên nhân từ bên ngoài được cho lưu xuất từ những cao trào chấn hưng 
Phật giáo tại Ấn Độ, Nhật Bản 
và 
Trung Quốc, nguyên nhân từ trong nước bao gồm 4 yếu tố: sự thay đổi của nền giáo 
dục, sự kỳ thị tôn giáo của Pháp, sự ra đời các tôn giáo bản địa, 
và sự suy thoái của giới Tăng lữ.
Và rồi khi mọi nhân duyên hội đủ, phong trào chấn hưng Phật giáo được khởi động 
và tạo nên một làn sóng chấn hưng Phật giáo khắp cả nước, đem lại nhiều thành 
quả to lớn cho Phật giáo Việt Nam từ thời chấn hưng cho đến ngày nay.
Tài Liệu Tham Khảo
1.     
Lại Như Bằng (2016), Phong trào Chấn hưng Phật 
giáo 
tại Việt Nam và tại các nước Trung Quốc, Nhật Bản 
- 
Kỳ 1. 
Tham khảo tại 
https://toasang-ugvf.org/
2.     
Binh Anson (1999), Hòa thượng Hộ Tông Vansarakkhita (1893-1981). Tham 
khảo tại 
https://www.budsas.org/
3.     
Lê Cung (2008), Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963, 
NXB.Thuận 
Hóa, Huế.
4.     
Lê Cung (2013), 50 năm nhìn lại phong trào chấn hưng Phật giáo miền Nam Việt 
Nam (1963 
- 
2013),
NXB.Đại 
Học Huế, Huế.
5.     
David, G ( 2014 ). Rebuilding the Navel of the Earth: Buddhist pilgrimage and 
transnational religious networks. Modern Asian Studies, Volume 48 (3), 
pp.645-692.
6.     
Nguyễn Đại Đồng & Nguyễn Thị Minh (2007), Phong 
trào
Chấn 
hưng Phật giáo - Tư Liệu báo chí Việt Nam từ 1927-1938, 
NXB.Tôn 
Giáo, Hà Nội. 
7.     
Thiện Hậu (2017), Phật giáo Nam tông Kinh Việt Nam (1938-1963), NXB.Hồng 
Đức, Hà Nội.
8.     
Thích Thiện Hoa (1970), 50 năm chấn hưng Phật giáo-Tập I, Viện Hóa Đạo, 
Sài Gòn.
9.     
Hội Phật học Kiêm Tế (1937), “Điều lệ”, chùa Tam Bảo, Rạch Giá: 10.
10. 
Phạm Bích Hợp (2007), Người Nam Bộ và tôn giáo bản địa (Bửu Sơn Kỳ Hương, Cao 
Đài, Hòa Hảo), NXB.Tôn
Giáo, 
Hà Nội.
11. 
Thích Giác Minh Hữu (2019), “Thái Hư 
Đại 
sư với sự phục hưng Phật giáo Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, 
số tháng 11/2019, trang 25-32.
12. 
Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo 
sử
luận 
toàn tập, 
NXB.Văn 
Học, Hà Nội.
13. 
Trần Hồng Liên (1996), Phật giáo Nam Bộ từ thế kỷ XVII đến 1975, NXB.Thành 
phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM. 
14. 
Nguyễn Hồng Lương (2018). Ảnh hưởng của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương đến đời sống 
tinh thần của người dân Nam Bộ. Tham khảo tại http://btgcp.gov.vn/
15. 
Dương Thanh Mừng (2015), “Các tổ chức Phật giáo trong phong trào chấn hưng Phật 
giáo Việt Nam trước năm 1945”, Tạp 
chí 
Nghiên Cứu Tôn Giáo, 
số 143, tr.43-59.
16. 
Đào Nguyên (2013), Từ phong trào chấn hưng (1928-1945) đến phong trào tranh 
đấu của Phật giáo miền Nam. Tham khảo tại 
https://giacngo.vn/nguyetsan/2013/07/04/16D00A/
17. 
Nguyễn Minh Nguyên & Trần Thị Thúy Ngọc (2015), “Một số biến động của Phật giáo 
Nhật Bản Từ Minh Trị Duy Tân (1868-1912)”, Tạp 
chí 
Nghiên Cứu Tôn Giáo, 
số 143, tr.60-69.
18. 
Pascal Bourdeaux (2015), Đặng Thế Đại (dịch), Về nguồn gốc lịch sử của Phật 
giáo Hòa Hảo. Tham khảo tại http://nghiencuuquocte.org/
19. 
Pascal, B (2005). Croyances populaires et rétorsion coloniale dans le delta 
du Mékongn           Commentaires sur la découverte d'une secte religieuse au 
village Hoa Hao mars - mai        1940, In: Aséanie, No 16: 124.
20. 
Trần Thị Hòa Phương (2012), “Tổ chức quản lý giáo dục ở Việt Nam trong bộ máy 
chính quyền thời Pháp thuộc trước năm 1945”, Tạp 
chí 
Nghiên Cứu Lịch Sử, 
số 10, tr.42-47.
21. 
Vũ Ngọc Ruẩn (2013). Minh Trị Thiên hoàng & những yếu tố canh tân thành công. 
Tham khảo tại       https://baoquocte.vn/ 
22. 
Tôi Có Thể Viết (2018). Bộ máy nhà nước Nhật Bản thời Duy Tân Minh Trị. 
Tham khảo tại       https://medium.com/
23. 
Thích Nhật Từ (2019), Phật học Việt Nam thời hiện đại: Bản chất, hội nhập và 
phát triển, Học 
viện 
Phật 
giáo 
Việt Nam tại 
thành phố 
Hồ Chí Minh 
ấn
hành.
24. 
Thích Nữ Tuệ Thanh (2018), Thái Hư 
Đại 
sư trong phong trào phục hưng của Phật giáo Trung Hoa. 
Tham khảo tại https://budsas.net/sach/vn48huethanh_thaihu.pdf
25. 
Thích Mật Thể (2004), Việt Nam Phật giáo sử lược, NXB.Tôn 
Giáo, Hà Nội. 
26. 
Nguyễn Tài Thư chủ biên (1988) và 
các 
tác giả khác, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, NXB.Khoa
Học 
Xã 
Hội, 
Hà Nội.
27. 
Khánh Vân (1937), “Phật giáo ở nước ta vì đâu phải chịu cái hiện trạng suy 
đồi?”, Duy Tâm Phật học, 
số 
18, tr.301-307.
28. 
Thanh Quang (1942), “Hiện trạng Phật giáo ở xứ ta”, Đuốc Tuệ, số 178, 
tr.3-5.