Niệm, Vô Niệm, Thoại Đầu và Huệ Khả
Niệm
Niệm, Vô Niệm, Thoại Đầu và Huệ Khả
Nguyên Giác
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy
của Đức Phật và chư Tổ sư. Bản thân người viết không hề có một thẩm quyền nào;
do vậy, ở đây chỉ là một cố gắng trong khả năng hạn hẹp để đọc lại và ghi chép
lại một số lời dạy từ kinh luận, hy vọng sẽ giúp làm sáng tỏ một số thắc mắc.
Các chữ viết tắt trong bài này có thể đọc ở Đại tạng kinh(1)
với các kinh: DN là Trường bộ kinh, MN là Trung bộ kinh,
SN là Tương ưng bộ kinh, AN là Tăng chi bộ kinh,
Sn là Kinh Tập trong Tiểu bộ, Ud là Kinh Phật tự
thuyết, SA là Tạp A-hàm.
Có một chữ thường gặp trong kinh luận được dịch sang tiếng Việt là “hý luận” và
cũng thường dịch là “tâm phan duyên” - chữ này gốc tiếng Pāli là “Papanca” với
nghĩa đơn giản là “trải rộng ra” (to spread out), hiểu đơn giản là “suy nghĩ lan
man, nghĩ ngợi lung tung.” Nghĩa là các niệm sinh khởi như khỉ vượn chuyền cành
và cho chúng ta nhìn ra thế giới như một thế giới của mạng lưới các niệm chồng
thêm lên thế giới của thấy nghe nhận biết, lúc đó thực tại được chúng ta nhìn
được phóng chiếu qua lăng kính của mạng lưới niệm chập chùng, tức là chúng ta
khái niệm hóa thế giới qua ngôn ngữ và khái niệm. Chữ “vô niệm” trong Thiền tông
có nghĩa là gỡ bỏ mạng lưới khái niệm phủ chụp lên thế giới, chứ không đơn giản
là “không niệm” hay “ngưng niệm,” vì niệm cũng là một công cụ an tâm và giải
thoát.
Lộ trình nào của tâm đã dẫn tới hý luận (papañca)? Theo nhà sư học giả
Thanissaro Bhikkhu, Đức Phật giải thích trong ba bài kinh về diễn tiến dẫn tới
hý luận, trích dịch như sau:
“Ba đoạn trong các bài kinh - DN 21, MN 18 và Sn 4.11 - vẽ ra tiến trình
duyên khởi gây ra hý luận và dẫn lối từ hý luận tới xung đột [trong tâm]. Vì các
phân tích trong nhà Phật về duyên khởi thường khong phải đường thẳng, với nhiều
chỗ để vòng quanh hồi đáp lại, các bản đồ dị biệt nhau trong các chi tiết của
chúng. Trong kinh DN 21, bản đồ như thế này:
- các tưởng & các loại hý luận > suy nghĩ > tham ái > ưa & ghét > ganh tỵ & kẹo
kiệt > đối kháng & xung khắc.
Trong kinh Sn 4:11, bản đồ không thẳng một đường và có thể vẽ lộ trình như sau:
- tưởng > các loại hý luận;
- tưởng > danh & sắc > xúc > hấp dẫn & kém hấp dẫn > tham ái > ưa & ghét > keo
kiệt/chia rẽ (bất hòa)/tranh cãi/gây gỗ.
Trong kinh MN 18, bản đồ này như sau:
- Xúc > thọ > tưởng > suy nghĩ > các tưởng (khởi lên) & các loại hý luận.”(2)
Như thế, chúng ta thấy lộ trình dẫn tới hý luận bất định. Có khi hý luận tới
ngay sau tưởng và dẫn tới niệm (suy nghĩ) và tham, như trong kinh DN 21.
Có khi ngay sau tưởng là một loạt hý luận, như kinh trong Sn 4:11. Có khi
từ tưởng dẫn tới niệm rồi lại tới tưởng và dẫn ra hý luận, như kinh MN 18.
Trong tất cả các trường hợp như thế, mạng lưới hý luận là cặp kính màu chúng ta
mang để nhìn về thế giới.
Khi chúng ta tu tập các pháp, thí dụ như Niệm hơi thở, Tứ niệm xứ, Lục niệm,
Niệm Phật, Niệm thí, Niệm thiên, v.v., ban đầu khi hướng tâm để niệm, thì hý
luận chưa khởi lên. Như thế, hý luận là một phản ứng khi chúng ta đối diện với
thế giới, khi bắt đầu khởi tâm lựa chọn - lúc đó dục tham khởi động ra tâm phân
biệt, dẫn tới ưa & ghét, nắm giữ & đối kháng… Nghĩa là, trong sự chú tâm, hay sự
hướng tâm về, lúc đó chưa hề vướng gì tới “ta, của ta” để mà phải chấp giữ lấy.
Tức là, lúc mới chú tâm về bất kỳ một pháp nào, chưa hề có “sắc/thanh gì để
trụ”… Khoảnh khắc ban đầu đó, còn là “tâm vô sở trụ”… Còn gọi là “sơ tâm” (tâm
ban đầu, hay tâm hài nhi).
Bạn không thể nào “suy tưởng” với tâm ban đầu, vì lúc đó không có ký ức, không
có kỷ niệm (thí dụ, khi tình cờ gặp lại kẻ thù cũ hay người tình cũ, thì kỷ niệm
ghét/ưa sẽ gợi lên) - và do vậy, khi suy tưởng luôn luôn là suy tưởng với những
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp của quá khứ, hoặc là suy tưởng mơ mộng về
danh-sắc nào đó ở tương lai. Đức Phật dạy trong kinh SN 22.64 rằng suy
tưởng là rơi vào lưới Ác ma. Kinh này trích, bản dịch của Thầy Minh Châu:
“- Ai suy tưởng, này Tỷ-kheo, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng,
người ấy được giải thoát khỏi Ác ma.
- Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.
- Như thế nào, này Tỷ-kheo, Ông hiểu một cách rộng rãi ý nghĩa lời Ta nói một
cách vắn tắt?
- Ai suy tưởng sắc, bạch Thế Tôn, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng,
người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Ai suy tưởng thọ… tưởng… hành… thức, người
ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma.
Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng
rãi như vậy.”
Bởi vì suy tưởng, tức là suy niệm, là ngẫm nghĩ, là đo lường, là cân nhắc, là
đánh giá, là lựa chọn, là tự thấy có cái mình ưa hay ghét, và do đó là hý luận.
Trong bản dịch tiếng Anh, có hai cách dịch. Bhikkhu Bodhi dịch: “Bhikkhu, in
conceiving one is bound by Mara; by not conceiving one is freed from the
Evil One.” Và Bhikkhu Sujato dịch: “When you identify, mendicant,
you’re bound by Māra. Not identifying, you’re free from the Wicked One.” Cả
hai chữ đều có nghĩa là “suy tưởng” tức là “nhận ra có cái tôi trong sắc,
thanh…”
Tiếng Việt gọi đơn giản “không suy tưởng” là “vô niệm.” Khái niệm này có thể dẫn
ra trong kinh, nói là chớ để bị dính mắc vào quá khứ, vị lai hay hiện tại, hiểu
là chớ để bị lôi kéo hay xô đẩy vì ký ức trong quá khứ, chớ mơ tưởng về một vị
lai chưa tới và cũng chớ bị dính vào hiện tại (trong các lựa chọn sắc thanh
hương vị xúc pháp mà chúng ta đang kinh nghiệm). Chỗ này dễ hiểu, thí dụ như
trong mùa bầu cử Hoa Kỳ, chúng ta có thể nổi giận hay ưa thích quá khứ của một
ứng cử viên nào đó, hay chúng ta có thể lo ngại hay vui mừng về viễn ảnh tương
lai nếu một ứng cử viên nào đó sẽ thắng cử, và hiện tại mắt và tai chúng ta có
thể bị màn hình các đài TV kích thích vui buồn sôi nổi. Hiển nhiên, nếu thấu lý
nhân quả, lòng chúng ta sẽ dịu hẳn đi.
Tương tự, trong kinh SN 12.38, Đức Phật sử dụng nhiều chữ tương đương để
giải thích về “không suy tưởng” - và lần này nói về một “thức không an trú” và
do vậy thức này sẽ “không tăng trưởng” và là giải thoát. Bản dịch của Thầy Minh
Châu viết:
“Này các Tỷ-kheo, nếu chúng ta không có tư niệm, không có tư lường, không có
thầm ý, thời không có sở duyên cho thức an trú. Khi nào sở duyên không có mặt
thời thức không an trú. Do thức ấy không an trú và không tăng trưởng, nên trong
tương lai tái hữu không sinh khởi. Do sinh khởi tái hữu không có mặt trong tương
lai, nên sinh, già chết, sầu, bi, ưu, não được đoạn diệt. Như vậy là sự đoạn
diệt của toàn bộ khổ uẩn này.”
Bản Anh dịch của Bhikkhu Bodhi dịch là: “...bhikkhus, when one does not
intend, and one does not plan, and one does not have a tendency
towards anything, no basis exists for the maintenance of consciousness...”
Bhikkhu Sujato dịch là: “If you don’t intend or plan or have underlying
tendencies, this doesn’t become a support for the continuation of
consciousness. With no support, consciousness is not established. When
consciousness is not established and doesn’t grow, there’s no rebirth...”
Như vậy, chữ “không có tư niệm” chỉ có nghĩa là “ngay nơi niệm sẽ không
để thức an trú” vào đâu cả. Tức là, không ý định mưu tính, không lên kế
hoạch, không xuôi theo khuynh hướng thầm kín nào. Đó là giải thoát.
Trong Tạp A-hàm, ba kinh SA 359, 360, 361 đều có đoạn sau, theo
bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ và Đức Thắng:
“Nếu không suy lường, không vọng tưởng thì sẽ không bị sai sử khiến thức
duyên níu mà tồn tại. Vì không có chỗ duyên níu cho thức tồn tại nên nó không
nhập vào danh sắc. Vì không nhập vào danh sắc nên không qua lại. Vì không qua
lại nên không sinh tử. Vì không sinh tử nên sinh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ,
não ở đời vị lai đều bị diệt và thuần một khối khổ lớn như vậy cũng bị diệt.”
Ngài Trần Nhân Tông còn gọi đó là “đối cảnh vô tâm” - và đó là một
tông chỉ của Thiền Trúc Lâm.
Tương tự, thấy nghe hay biết sẽ chỉ là thấy nghe hay biết, là hoàn toàn không
rơi vào hý luận. Trong kinh Bahiya (tức là kinh Ud 1.10), Đức Phật
dạy cụ thể về cách xa lìa suy tưởng khi thấy nghe hay biết. Bản dịch của Thầy
Minh Châu:
“...này Bāhiya, nếu với ông, trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy; trong cái
nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng; trong
cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri. Do vậy, này Bāhiva, ông không là chỗ ấy.
Vì rằng, này Bāhiya, ông không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng
giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau.”
Hành, tức là lựa chọn. Kinh SN 12.51 ghi rằng khi tâm lựa chọn thiện,
thức sẽ vào cảnh giới thiện; khi lựa chọn ác, thức sẽ vào cảnh giới ác; khi lựa
chọn bất động, thức sẽ vào cảnh giới bất động. Nhưng khi trí tuệ đã khai phát,
người tu sẽ không lựa chọn thiện, ác hay bất động. Và do vậy, không nắm giữ gì.
Như thế là giải thoát.
Bản Anh văn kinh SN 12.51 của Bhikkhu Sujato, trích: “If an ignorant
individual makes a good choice, their consciousness enters a good realm. If they
make a bad choice, their consciousness enters a bad realm. If they make an
imperturbable choice, their consciousness enters an imperturbable realm. When a
mendicant has given up ignorance and given rise to knowledge, they don’t make a
good choice, a bad choice, or an imperturbable choice. Not choosing or
intending, they don’t grasp at anything in the world. Not grasping, they’re
not anxious. Not being anxious, they personally become extinguished.”
Bản dịch của Thầy Minh Châu, trích: “Này các Tỷ-kheo, nếu người nào bị vô
minh chi phối, dự tính làm phước hành, thức (của người ấy) đi đến phước. Nếu
người ấy dự tính làm phi phước hành, thức (của người ấy) đi đến phi phước. Nếu
người ấy dự tính làm bất động hành, thức (của người ấy) đi đến bất động. Này các
Tỷ-kheo, khi nào vị Tỷ-kheo đoạn tận vô minh, minh được sinh khởi. Vị ấy do vô
minh đoạn tận, minh sinh khởi, không dự tính làm phước hành, không dự tính làm
phi phước hành, không dự tính làm bất động hành. Không có dự tính, không có
dụng ý, vị ấy không chấp thủ một sự gì ở đời. Không chấp thủ, vị ấy không sợ
hãi. Không sợ hãi, vị ấy hoàn toàn tịch tịnh.”
*
Tới đây, chúng ta có thể thắc mắc, khi gặp một số kinh, trong đó Đức Phật dạy
rằng chỉ tu một pháp thôi, là đủ để giải thoát. Thí dụ, Niệm thiên, tức là niệm
chư thiên. Tại sao niệm tới các vị thiên, trong đó hầu hết là những chúng sinh
còn tham sân si, lại có thể giải thoát, lại có thể chứng nhập Niết-bàn?
Điển hình như kinh AN 1.296-305, bản dịch của Thầy Minh Châu, trích:
“Có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến
nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ,
Niết-bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Phật. Chính một pháp này, này các
Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly
tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
Có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đế nhứt
hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Pháp... niệm Tăng... niệm giới... niệm
thí... niệm thiên... niệm hơi thở vô, hơi thở ra... niệm chết... niệm
thân... niệm an tịnh. Chính một pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm
cho sung mãn, đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng
trí, giác ngộ, Niết-bàn.”
Tương tự, trong Tạp A-hàm có kinh SA 550, bản dịch của hai thầy
Tuệ Sỹ và Đức Thắng, cũng nói về một pháp và một pháp đó là niệm chư thiên,
trích:
“…khi Thánh đệ tử niệm công đức chư thiên, không khởi giác tưởng tham
dục, sân nhuế, não hại, thì như vậy, Thánh đệ tử ra khỏi tâm nhiễm trước. Tâm
nhiễm trước là gì? Đó là năm phẩm chất của dục. Nếu đối với năm phẩm chất của
dục này mà lìa tham, nhuế, si và an trụ chánh niệm, chánh trí, nương theo trực
đạo, tu tập niệm Phật, chân chánh hướng thẳng đến Niết-bàn. Đó gọi là Như Lai,
Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, là bậc Tri giả, Kiến giả, nói nhất thừa đạo thứ năm
ra khỏi khổ, đạt đến chỗ thù thắng, khiến chúng sinh được thanh tịnh, lìa khỏi
mọi khổ não, diệt hết mọi lo buồn, được pháp như thật.”
Như thế, chúng ta có thể hiểu rằng, không phải là cái được niệm
(nơi đây là chư thiên), mà chính là ở hành vi niệm với tâm lìa tham sân si
(tâm ra khỏi nhiễm trước). Bởi vì chư thiên là các chúng sinh còn tham sân si,
nhưng ngay khi chú tâm vào hành vi niệm, tức là chú tâm vào cái đang tương tác
với thế giới (dù là ngoại xứ và nội xứ), thì sự chú tâm đó, tức hành vi niệm đó
đã siêu vượt tham sân si. Bởi vì cái được niệm là vô lượng vô biên (chư thiên
các cõi trời) nhưng khi chú tâm vào hành vi niệm là đã siêu vượt ba cõi vì chỉ
còn cái đương niệm hiện tiền (một cái trừu tượng, bất khả nghe thấy, vì chúng ta
không thể thấy nghe vô lượng chư thiên). Có lẽ sẽ rất nhiều người dễ dàng kinh
nghiệm: chú tâm tỉnh giác đương niệm cũng là đang vượt qua ba thời quá
hiện vị lai. Vì trong cái chú tâm đương niệm hoàn toàn không có cái được niệm
(thí dụ, hình ảnh chư thiên nào) và cũng không có ai đang niệm.
Chỉ như thế, chúng ta mới hiểu được tại sao nhiều vị Thiền sư dạy học trò
tham thoại đầu, hay tham công án, trong đó phần lớn dẫn tới chỗ ra
ngoài lý luận, nơi tâm không thể suy tưởng, nơi tiếp cận chỗ có thể gọi là “niệm
vô niệm” hay “niệm vô tâm” và cũng có thể gọi là tư lường cái không thể tư
lường. Thí dụ, như thoại đầu, “Khi chưa có trời đất, ta là cái gì?” Câu trả lời
Đức Phật cho sẵn là “vô ngã” rồi, nhưng ngay cái “đương niệm là cái rất trừu
tượng, cái chưa từng hình dung nổi” chính là khi kinh nghiệm cái vô ngã, nơi đó
có kinh nghiệm vô ngã nhưng không hề có ai kinh nghiệm. Tương tự, như với thoại
đầu, “Trước khi cha mẹ chưa sinh, mặt mũi bổn lai của ta ra sao?”
Chính cái “chú tâm đương niệm” đó là Phật tánh, hay Tự tánh, do vậy mới nói rằng
bổn lai chúng sinh đã là Phật. Và do vậy, cũng nói rằng phiền não tức bồ-đề, và
ngược lại, tất cả đều không lìa cái đương niệm đó, bất kể là niệm chư thiên,
những chúng sinh còn tham sân si. Chính ngay nơi đương niệm đó, hễ tỉnh tức thân
là Phật, hễ mê tức thân là chúng sinh. Chính vì cái “đương niệm” có sẵn hai bờ
tỉnh/mê như thế, thoại đầu hay công án chỉ giữ chức năng như cây gậy dò đường.
Chính nơi đương niệm, Chân đế không lìa Tục đế, tức là nước không lìa sóng, vàng
không lìa nhẫn, và gương không lìa ảnh. Thiền tông nói rằng, thấy bản tánh nơi
đương niệm như thế, tức là đốn ngộ trước (mức độ thâm sâu còn tùy), để rồi sẽ
tiệm tu sau, vì cần nhiều thời gian để gỡ bỏ tập khí tham sân si.
Có thể dẫn lời ngài Huệ Năng nói trong kinh Pháp bảo đàn, nơi phẩm
Bát-nhã, bản dịch của Thầy Duy Lực, rằng, “Bản tánh là Phật, lìa tánh chẳng
có Phật... Sao gọi Ba-la-mật? Ba-la-mật là tiếng Ấn Độ, dịch là đến bờ bên kia,
nghiã là lìa sinh diệt. Chấp cảnh thì sinh diệt dấy lên như nước nổi làn sóng,
tức gọi bờ bên này, lìa cảnh thì chẳng sinh diệt như nước chảy im lìm, tức là bờ
bên kia, nên gọi Ba-la-mật... Thiện tri thức, phàm phu tức Phật, phiền não tức
bồ-đề; niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật. Niệm trước chấp cảnh
tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức bồ-đề." (3)
Tới đây, chúng ta có thể kể lại một truyền thuyết nổi tiếng, ghi trong nhiều
sách về ngài Bồ Đề Đạt Ma. Nơi đây, sẽ ghi theo Wikipedia. Sau một thời
gian truyền dạy Thiền tông ở Trung Hoa, ngài Bồ Đề Đạt Ma có ý định hồi hương,
mới gọi đệ tử trình bày sở đắc: “Giờ ta ra đi sắp tới, vậy mỗi đệ tử hãy nói cho
ta nghe sở đắc của mình”.
Đạo Phó bạch: “Theo chỗ thấy của tôi, muốn thấy đạo phải chẳng chấp văn tự, mà
cũng chẳng lìa văn tự.”
Bồ Đề Đạt Ma đáp: “Ông được lớp da của tôi rồi.”
Ni Tổng Trì nói: “Chỗ giải của tôi như cái mừng vui thấy nước Phật (tâm) bất
động, thấy được một lần, sau không thấy lại nữa.”
Bồ Đề Đạt Ma nói: “Bà được phần thịt của tôi rồi.”
Đạo Dục, một đệ tử khác, bạch: “Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải thật có,
vậy chỗ thấy của tôi là không một pháp nào khả được.”
Bồ Đề Đạt Ma đáp: “Ông được bộ xương của tôi rồi.”
Cuối cùng, đến phiên Huệ Khả. Huệ Khả lễ bái sư rồi đứng ngay một chỗ, không
bạch không nói gì cả. sư bảo: “Ngươi đã được phần tuỷ của ta.”
Trong trình độ tu học hạn hẹp, người viết xin lạm bàn như sau. Như thế, giải
thoát có nhiều mức độ thâm sâu. Văn tự có thể hiểu là chữ nghĩa, lời nói, kể cả
lời Đức Phật dạy, cũng là một bức màn sương khói của ý thức. Lời ngài Đạo Phó
nói không chấp, không lìa văn tự có thể hiểu là không vin vào và cũng không lìa
bức màn sương khói của ý thức. Lời Thiền sư Ni Tổng Trì nói thấy nước Phật bất
động, tức là thấy cái [đương niệm] bất động trong vô số cái thấy nghe hay biết;
không thấy lại nữa bởi vì toàn thân và tất cả những gì thấy nghe hay biết không
còn lìa cái bất động này, nhưng vẫn bất toàn vì còn thấy có động với tịnh. Lời
ngài Đạo Dục nói rằng thấy thân tâm ngài đều rỗng rang, đều là không, đều không
thực có, và tất cả đều bất khả đắc (Đức Phật từng dạy rằng y như tiếng đàn vốn
là rỗng không, không thể nắm bắt vì từ duyên khởi mà tới và đi). Nhưng tới ngài
Huệ Khả, chỉ tịch lặng không lời.
Chúng ta suy nghĩ thế nào về cách trả lời bằng sự tịch lặng? Nơi đây, hiển nhiên
là tịch lặng của người hiểu đạo và đã theo học ngài Bồ Đề Đạt Ma nhiều năm,
không phải sự im lặng của người không biết gì. Có phải đây cũng là sự tịch lặng
khi Đức Phật cầm bông hoa lên, và ngài Ca Diếp lặng lẽ mỉm cười, theo truyền
thuyết của Thiền tông? Nơi đây [xin sám hối để] mượn lời giải thích theo Đại
thừa rằng ba ngài Đạo Phó, Tổng Trì, Đạo Dục vẫn còn trong vòng nhìn thấy “ngã
không” (nhân không) và chưa thấy “pháp không”, trong khi ngài Huệ Khả nhìn ngay
từ đương niệm là cả ngã không và pháp không. Dựa vào pháp duyên khởi, sẽ thấy
“ngã không” và còn trong vòng đối trị; nhưng khi thấy ngay cả pháp duyên khởi
cũng vốn tịch lặng, thì sẽ thấu được “pháp không” và thấy không có gì để làm, vì
không có gì tham sân si nào để đối trị, và không thấy có pháp nào [kể cả Tứ diệu
đế] để tu học hay truyền dạy, lúc đó là tịch lặng. Trong bốn vị học trò của ngài
Bồ Đề Đạt Ma, chỉ duy ngài Huệ Khả là nhìn thấu suốt Vô tác Tứ đế.
Có thể dẫn lời Thầy Thích Thiện Siêu trong bài “Bốn loại Tứ đế trong kinh” đã
giải thích về Vô tác Tứ đế, trích:
“Thường thường chúng ta cắt nghĩa lý duyên sinh là vật nọ vật kia, pháp nọ
pháp kia, ít khi áp lý duyên sinh vào Khổ Tập Đạo trừ Diệt là vô vi, không nói.
Bây giờ áp lại lý duyên sinh vào nơi Khổ Tập Đạo, như vậy các pháp khác là duyên
sinh vô tự tính, thì Khổ Tập Đạo đế cũng là duyên sinh nên vô tự tính. Vô tự
tính là vô sinh - nên gọi là Vô sinh Tứ đế. Cũng đều là Tứ đế nhưng giáo lý mỗi
tầng bậc có khác nhau, có sâu cạn như vậy. Rồi đến Viên giáo nói Vô tác Tứ đế,
vô sinh thì có tác gì, đã vô sinh thì vô tác. Vô sinh thì Tập đế, Đạo đế không
tác, nó đi dần tới, đưa tới pháp tính bổn vô sinh diệt, bất cấu, bất tịnh, bất
tăng, bất giảm. Như vậy nó là vô tác (vì không sinh không diệt), bất cấu bất
tịnh thì đâu có Khổ có Tập. Bất tăng bất giảm dứng vào trong tự tính thực tính
các pháp vốn bình đẳng, vốn là yên lặng, vốn là vô sinh, vốn là như tính
Niết-bàn, là bất sinh bất diệt, bất tăng bất giảm, bất cấu bất tịnh, rồi đến Vô
tác Tứ đế.”(4)
Khi thấy cái đương niệm là vô sanh Niết-bàn, đó là tịch lặng. Bậc Thánh chứng
ngộ “ngã không” sẽ nhìn thấy có Niết-bàn để vào. Nhưng bậc Thánh chứng ngộ cả
“ngã không” và “pháp không” sẽ thấy ngay cả không Niết-bàn Phật và không cả Phật
Niết-bàn. Đó là chỗ kinh Lăng-già, một kinh được ngài Bồ Đề Đạt Ma đưa
vào làm tông chỉ cho Thiền tông, nói rằng ngay cả Niết-bàn cũng chỉ là giấc mộng
đêm qua, như lời ngài Đại Huệ Bồ-tát quỳ gối thưa với Đức Phật, qua bản dịch của
Thầy Duy Lực, trích (bài kệ nơi đây sẽ viết theo văn xuôi do dễ đọc):
“Thế gian lìa sanh diệt / Như hoa đốm trên không/ Trí chẳng trụ hữu, vô/ Mà
khởi tâm đại bi/ Tất cả pháp như huyễn/ Xa lìa nơi tâm thức/ Trí chẳng trụ hữu,
vô/ Mà khởi tâm đại bi/ Xa lìa chấp đoạn thường/ Pháp thế gian như mộng/ Trí
chẳng trụ hữu, v / Mà khởi tâm đại bi/ Biết nhơn pháp Vô ngã/ Phiền não và nhĩ
diệm/ Thường trong sạch vô tướng/ Mà khởi tâm đại bi/ Niết-bàn chẳng thể lập/
Chẳng có Niết-bàn Phật/ Chẳng có Phật Niết-bàn/ Lìa năng giác, sở giác/ Hoặc có
hoặc không có/ Cả hai thảy đều lìa/ Pháp thiền quán tịch tịnh/ Vốn lìa sự sanh
khởi/ Chẳng đời này đời sau/ Gọi là chẳng thủ xả.”(5)
Sự tịch lặng của ngài Huệ Khả là một cách trả lời bằng cách hiện thân như thực
tướng, nơi đó là núi cao ngàn trượng không lời nào để bấu víu nữa, cũng hệt như
khi Đức Phật im lặng đưa cành hoa lên và ngài Ca Diếp mỉm cười. Ngài Long Thọ
gọi đó là Đệ nhất nghĩa đế. Trong tác phẩm Trung luận (Madhyamaka Sastra)
của ngài Long Thọ, bản dịch của Thầy Thiện Siêu, phẩm XVIII Quán về pháp, trích
như sau:
“6. Chư Phật hoặc dạy về ngã, hoặc dạy về vô ngã, trong thật tướng các pháp,
không có ngã, không có phi ngã.
7. Thật tướng của các pháp thì tuyệt dứt đường ngôn ngữ và tâm duyên, không sinh
cũng không diệt, tịch diệt như Niết-bàn.
8. Hết thảy pháp đều thật, đều phi thật, cũng thật cũng phi thật, chẳng phải
thật chẳng phải phi thật. Đó chính là giáo pháp của chư Phật.
9. Tự mình chứng biết, không theo cái biết của người khác, tịch diệt không có hý
luận, không sai khác không phân biệt. Đó chính là thật tướng.”(6)
Thực ra, các tư tưởng Tánh không, Phật tánh của ngài Long Thọ và các luận sư Đại
thừa cũng bắt nguồn từ lời Đức Phật dạy.
Trong nhóm kinh Nhật tụng sơ thời, Đức Phật dạy trong kinh Sn 5.6
(Upasiva-manava-puccha/ Các câu hỏi của Upasiva), bản dịch của Nguyên Giác, đúng
là ngôn phong Thiền tông, dạy rằng hãy tỉnh thức nhìn về không một pháp nào,
rằng chớ nương tựa một pháp nào, nơi đó các pháp và ngôn ngữ cũng sẽ tịch lặng,
trích như sau:
“1070. [Đức Phật] Hỡi Upasiva, hãy tỉnh thức, nhìn về không một pháp nào,
nương tựa “không một pháp nào” mà vượt qua dòng nước lũ. Rời dục lạc, bỏ nói
năng, ngày đêm liên tục nhìn cho cạn kiệt tham ái...
1076. [Đức Phật] Hỡi Upasiva. Không thể đo lường nào đối với người đã tới nơi an
nghỉ giải thoát, không có gì người ta có thể mô tả về người đó, nơi tất cả các
pháp đều hoàn toàn được gỡ bỏ, nơi tất cả mọi đường ngôn ngữ cũng hoàn toàn được
gỡ bỏ.”
(7)
Tương tự, trong Tạp A-hàm, kinh SA 335, Đức Phật dạy rằng thực
tướng các pháp không hề có gì đến hay đi, cũng không hề có gì sinh hay diệt
(ngài Long Thọ trong Trung luận, phẩm 2, Quán về đi lại, cũng nói rằng
không hề có cái gì gọi là tướng đi và lại, không hề có cái gì gọi là tướng sinh
diệt), và Đức Phật gọi đây là kinh Đệ nhất nghĩa không. Bản dịch kinh SA 335
của hai thầy Tuệ Sỹ và Đức Thắng trích như sau:
“Thế nào là kinh Đệ nhất nghĩa không? Này các Tỷ-kheo, khi mắt sanh thì nó
không có chỗ đến; lúc diệt thì nó không có chỗ đi. Như vậy mắt chẳng thật sinh,
sinh rồi diệt mất; có nghiệp báo mà không tác giả. Ấm này diệt rồi, ấm khác
tương tục, trừ pháp tục số. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng nói như vậy,
trừ pháp tục số. Pháp tục số, tức là nói, cái này có thì cái kia có, cái này
khởi thì cái kia khởi, như vô minh duyên hành, hành duyên thức, nói chi tiết đầy
đủ cho đến thuần một khối khổ lớn tập khởi. Lại nữa, cái này không thì cái kia
không, cái này diệt thì cái kia diệt, vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên
thức diệt. Như vậy, nói rộng cho đến thuần một khối khổ lớn tụ diệt. Này các
Tỷ-kheo, đó gọi là kinh Đệ nhất nghĩa không.”
Tương tự, trong kinh Sn 1.1 với 17 bài kệ, Đức Phật dạy pháp như huyễn,
rằng các pháp không thật cũng không hư, lập đi lập lại câu “tất cả thế giới
này là không thật” tới 5 lần trong 5 bài kệ mang số từ 9 tới 13. Điểm đặc
biệt, để nhấn mạnh tính như huyễn của các pháp, Đức Phật lập lại 17 lần nhóm chữ
“rời bỏ được cả bờ này và bờ kia” trong 17 bài kệ đó. Đó là diệu lý Pháp
không của Bắc tông, chứ không chỉ ngừng ở lý Ngã không của một số vị sư thời bộ
phái.
Chúng ta có thể kinh nghiệm một phần nào cái bất sinh bất diệt trong tất cả
những cái sinh diệt chảy xiết hay không? Có thể thế này: khi bạn đang đứng nơi
một góc rừng và chợt thấy mưa lớn ào tới, gió thổi nghiêng cây lá, hơi lạnh theo
nước mưa hắt vào mặt và ngấm vào toàn thân, có thể lúc đó bạn sẽ chợt thấy tâm
mình qua thấy nghe hay biết thực sự kinh nghiệm được cái không hề có gì gọi là
sinh diệt, thời gian như dường ngưng đọng và tâm vắng bặt, kể cả tham sân si, kể
cả các tâm thiện và bất thiện đều vắng bặt.
Và cũng có thể thí dụ thế này: bạn lấy tờ giấy lớn và một cây bút chì ra, vẽ
hình một cái bình (tức là, bạn thấy có bình, qua nét bút chì) và rồi bạn
lấy gôm tẩy xóa nét bút chì (tức là, bạn thấy không bình, qua lằn nét vừa
tẩy xóa) nhưng khi nhìn tờ giấy bao trùm cả có và không đó, bạn sẽ thấy rằng bản
lai vốn tịch lặng, rằng bản lai vốn xa lìa cả có và không, nơi đó không hề có gì
sinh hay diệt. Tức là, bản lai vốn là Phật, chứ không hề có Phật nào được thành,
vì nước chẳng khác băng, vì phiền não với bồ-đề chẳng hề xa lìa nhau chút nào.
Như thế, chúng ta đã khảo sát về niệm, về vô niệm, về đương niệm, về thoại đầu,
và kết luận rằng khi nhìn các pháp trong Đệ nhất nghĩa đế, sẽ thấy sinh tử với
Niết-bàn hệt như hoa đốm hư không. Có lẽ, đó cũng là sự tịch lặng của ngài Huệ
Khả.
GHI CHÚ:
(1) Đại tạng kinh Tiếng Việt - Nam truyền và Bắc truyền:
https://thuvienhoasen.org/a31409/dai-tang-kinh-tieng-viet-nam-truyen-va-bac-truyen
(2) Thanissaro Bhikkhu:
https://www.dhammatalks.org/suttas/MN/MN18.html
(3) Kinh Pháp bảo đàn:
https://thuvienhoasen.org/a682/pham-bat-nha-thu-hai
(4) Bốn loại Tứ đế:
http://www.diendan.daitangkinhvietnam.org/viewtopic.php?f=35&t=6150
(5) Kinh Lăng-già:
https://thuvienhoasen.org/p16a995/quyen-thu-nhat
(6) Trung luận:
https://thuvienhoasen.org/p19a15713/pham-18-quan-ve-phap
(7) Kinh Nhật tụng sơ thời:
https://thuvienhoasen.org/p15a30617/sn-5-6-upasiva-manava-puccha-cac-cau-hoi-cua-upasiva