Sự du nhập đầu tiên của Phật giáo vào Trung Hoa
su du nhap
SỰ DU NHẬP ĐẦU TIÊN CỦA PHẬT GIÁO VÀO TRUNG QUỐC 
 
Phật giáo truyền đến Trung Quốc từ rất sớm. Trước khi Phật giáo du nhập, Trung 
Quốc đã có nền chính trị ổn định và hệ tư tưởng, tôn giáo phát triển, chi phối 
mạnh mẽ đời sống tinh thần mọi giai tầng xã hội. Bức tường cao lớn này tác động 
rất lớn đến sự du nhập và phát triển của Phật giáo. Câu hỏi về
niên đại và con đường Phật giáo du nhập vào 
Trung Quốc thời kỳ đầu khơi dậy nhiều quan tâm, tranh cãi trong các nhà
nghiên cứu.
Trong khoảng 200 năm sau Đức Phật 
diệt độ, phạm vi 
hoạt động của Phật giáo giới hạn bên trong đất nước Ấn Độ. Từ thế kỷ 
thứ III tr.TL 
trở đi, nhờ chính sách truyền bá của vua Asoka 
(A Dục) thuộc 
triều đại Maurya, Phật giáo đã
bắt đầu có những bước 
chuyển mình vượt khỏi lãnh thổ xứ Ấn 
để du nhập vào dòng chảy 
tâm linh, văn hóa của nhiều quốc gia trên thế giới. Sau đó, dưới sự bảo trợ của 
vua Kanishka thuộc 
triều đại Kushan (Quý Sương), Phật 
giáo nhanh chóng lớn mạnh và bắt đầu xâm nhập vào một nền văn 
minh cổ xưa khác, Trung Quốc.
Trung Quốc được xem là cái nôi của văn minh nhân loại bởi sức 
ảnh hưởng văn hóa của xứ sở này đến sự hình thành và phát triển nền văn hóa của 
nhiều quốc gia khác nhau. Bắt đầu từ thế kỷ
II tr.TL, hệ thống chính trị và tôn giáo 
của vương triều nhà Hán (206 tr.TL) được xác lập ổn định. 
Nhà Hán đóng đô ở đồng bằng phía bắc Trung Hoa, nơi có nền văn 
minh đã định hình hơn 1.500 năm trước đó. Kinh tế thời 
kỳ này có sự phát 
triển vượt trội. Hoạt 
động thương mại được thiết lập với nhiều trung tâm buôn bán, là nơi giao 
thương giữa người Hán với các thương nhân ngoại quốc. Theo Henri Maspero, vào 
cuối thế kỷ thứ I tr.TL, sự giao lưu kinh tế, văn hóa 
giữa Trung Quốc với Ấn Độ cũng như các nước ở khu vực Tây bắc 
Ấn, Trung Á và Afghanistan đã được diễn ra [1]. Đây chính là tiền đề cho các nền 
văn hóa ngoại quốc giao lưu với Trung Quốc, trong đó có 
Phật giáo. 
Khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, 
nơi đây đã có một hệ thống tư tưởng tôn giáo ổn định, chi phối đời sống mọi giai 
tầng xã hội. Đó là Nho giáo với hệ tư 
tưởng chính trị, đạo đức do Khổng Tử khởi 
xướng; và Lão giáo bao 
gồm triết học huyền bí,
khổ hạnh gắn liền với nhân vật truyền thuyết là Lão 
Tử. 
Có sự khác nhau giữa các sử ký khi bàn về 
niên đại du nhập của Phật giáo vào Trung Quốc. Đề cập đến vấn đề này, chung quy 
có bảy thuyết phổ thông.
Thứ nhất, thuyết Tây phương thánh 
giả của Khổng Tử. Thiên “Trọng Ni” trong “Liệt Tử” có dẫn lời của 
Khổng Tử rằng: “Phương Tây có bậc Thánh, 
không trị mà không loạn, không nói mà tự tin, không giáo hóa mà tự làm.”[2] 
Theo thuyết này, Khổng Tử đã biết đến Phật giáo. Tuy nhiên, dữ kiện này không có 
sức thuyết phục, bởi đến tận thế kỷ thứ III tr.TL 
Phật giáo mới bắt đầu rời khỏi đất nước Ấn Độ, thì làm 
sao Khổng Tử (551-479 tr.TL) có thể nghe đến Phật giáo. 
Hơn nữa, cụm từ “Tây phương Thánh 
giả” có thể chỉ cho bất cứ thánh nhân nào, chưa chắc 
là ám chỉ Phật giáo. 
Thứ hai, 
thuyết Thích Lợi Phòng đem Phật giáo truyền vào Trung Quốc. Đời vua Tần Thủy 
Hoàng năm 243 tr.TL, 
có Thích Lợi Phòng cùng mười tám vị hiền giả đem kinh Phật truyền vào Trung Hoa[3]. 
Lương Khải Siêu là một trong rất ít học giả chấp nhận thuyết này. 
Ông lập luận rằng Lợi Phòng 
có thể là một trong những người
truyền giáo được vua Asoka gửi đi.
Trong khi đó, với chính sách kiềm tỏa biên giới 
ở phía Tây 
và phía Đông 
của Tần Thủy Hoàng ít nhiều tạo nên bức tường thành kiên cố, gây sức ép rất lớn 
đối với những nỗ 
lực tiến vào nước này. Kenneth K.S. Ch’en, trong công trình nghiên cứu của mình, 
cũng chứng minh rằng những bia 
ký của vua 
Asoka hay biên 
niên sử Tích Lan không hề để lại bất cứ
dấu tích nào về việc truyền 
bá Phật giáo của 
vua 
Asoka ở Trung 
Hoa cả[4]. 
Một điều đáng chú ý ở đây là sự xuất hiện họ “Thích” trong cái tên “Thích Lợi 
Phòng”. Theo những ghi chép lịch sử để lại, mãi cho đến đời Ngụy Tần,
ngài Đạo An (314-385) mới chủ trương lấy chữ “Thích” làm họ 
người xuất gia [5]. 
Như vậy, cái tên “Thích Lợi Phòng” hoàn toàn do người đời sau gán ghép vào. 
Chính vì thế, thuyết này cũng không đáng tin cậy. 
Thứ ba, 
thuyết Trương Khiên nghe đến đạo Phật trong hai chuyến đi sứ sang tộc Nguyệt Chi 
và Tây Vực để liên minh chống lại Hung Nô dưới thời
Hán Vũ Đế[6]. 
Những năm đầu thời Tây Hán, Hung Nô, một tộc du mục cường thịnh ở miền 
Bắc 
Trung Quốc, không ngừng phát động chiến tranh xâm lấn ra bên ngoài, gây sức ép 
rất lớn đối với biên cương của triều Hán cũng như các nước khu vực Tây Vực. Hán 
Vũ Đế (140-86 
tr.TL) 
phái Trương Khiên đi sứ sang Nguyệt Chi và các quốc gia ở Tây 
Vực 
để liên minh nhằm kiềm hãm và bình định tộc Hung Nô. Tuy nhiên, những sử liệu về 
sự kiện này chỉ tìm thấy ở một số văn bản thời Đường, còn trước đó hiện chưa tìm 
thấy tài liệu nào nhắc đến. Cho nên, giả thuyết này không đủ cơ sở để chứng minh 
về sự xuất hiện của Phật giáo ở Trung Quốc, chỉ có thể xem đây là truyền thuyết 
về một nhân vật được xem là người đặt viên gạch đầu khai thông “Con 
đường 
Tơ 
lụa” 
trên bộ.
Thứ tư, 
thuyết lễ bái hình người vàng được tìm thấy trong “Phật 
tổ
thống
kỷ”. 
Tướng Hắc Khứ Bệnh (霍去病) 
nhà Tiền Hán trong cuộc chinh phạt quân Hung Nô (120-121 
tr.TL)
“tìm thấy một tượng người bằng vàng đem về 
dâng Hán Vũ Đế, nhà vua cho là bậc 
Thánh 
đem thờ trong cung Cam Tuyền, sớm tối đốt hương lễ kính.”[7]
Bức tượng vàng này từng được xem là 
hình ảnh của Đức Phật và là chứng cứ đánh dấu sự khởi đầu của sự truyền bá Phật 
giáo ở Trung Quốc. Tuy nhiên, hiện tại đã xác định rõ những bức tượng vàng này 
là biểu tượng của một vị thần tộc Hung Nô. Cho nên, thuyết này cũng không đủ cơ 
sở để chứng minh niên đại du nhập của Phật giáo vào Trung Quốc.
Thứ năm, 
thuyết Lưu Hướng thời vua Thành Đế phát hiện kinh Phật trong khi chỉnh đốn lại 
sách vở của triều đình tại Các Thiên Lộc. Sự kiện này được “Phật 
tổ
thống
kỷ” 
trích dẫn từ bài tựa của Liệt 
tiên
truyện[8], 
một tác phẩm thu thập tiểu sử các bậc tiên nhân của Đạo giáo mà tác giả được 
người đời sau gán cho Lưu Hướng (劉向
80-8 
TL). 
Nhiều học giả nghi ngờ về tác giả và niên đại của 
Liệt 
tiên
truyện. 
Họ cho rằng tác phẩm này được viết vào thế kỷ 
III-IV và chỉ chấp nhận phần trích dẫn mở đầu như một chứng cứ cho sự xuất hiện 
của Phật giáo tại Trung Quốc trong thế kỷ 
đầu trước TL[9]. 
Giả thuyết này cùng với năm giả thuyết được nêu ra ở trên hoàn toàn không đủ cơ 
sở dữ liệu để đưa đến kết luận chính thức. 
K.S. Ch’en không đồng ý với các giả thuyết 
này và chỉ xem đây là huyền sử không xác thực[10]. 
Như vậy, những giả thuyết được đưa ra ở trên chỉ có thể là sự thêu dệt, ngụy tạo, 
muốn chứng minh sự hiện hữu của Phật giáo trên đất nước Trung Quốc mà thôi.
Thứ sáu, 
thuyết khẩu truyền Phật giáo của Y Tồn. Niên hiệu 
Nguyên Thọ năm thứ nhất (2 tr.TL) 
đời vua Ai Đế nhà Tiền Hán có sứ giả nước Đại Nguyệt Chi là Y Tồn tới Trung Quốc 
và đem Phật giáo truyền miệng cho Cảnh Lư[11]. 
Sử liệu gốc nói dữ kiện này đến nay vẫn chưa tìm thấy. 
Học 
giả người Nhật Shiratori Kuraichi trong công trình nghiên cứu về lịch sử Tây Vực 
cho biết rằng hai triều đại trước vương triều Quý Sương trong đó có Đại Nguyệt 
Thị không tin Phật giáo[12]. 
Giả thuyết này không đủ sức thuyết phục để chứng minh rằng Phật giáo xuất hiện 
vào thời gian này.
Thứ bảy, 
thuyết Minh Đế cầu pháp được tìm thấy trong 
Hậu Hán 
thư. 
Sách này chép rằng niên hiệu Vĩnh Bình thứ tám (65 
TL), 
vua Minh Đế ra chiếu chỉ người phạm tội lẫn trốn phải dâng một số tơ lụa tốt để 
chuộc tội. Sở Vương Anh, huynh đệ của Minh Đế, đóng đô ở Bành Thành, tự xét rằng 
trong nhà có người phạm tội nên dâng ba mươi bốn xấp lụa để chuộc tội cho người 
thân. Minh Đế xem trường hợp này không đáng xử tội với lý 
do Vương biết “sùng thượng giáo lý cao siêu 
của Hoàng Lão và đức nhân từ bao la của Phật” (楚王誦黃老之微言尚浮屠之仁祠)
nên 
hẳn nhiên là 
người tốt, cho nên vua đem tơ lụa hoàn trả lại cho Vương. Sau đó, Vương làm lễ 
sám hối, ăn chay ba tháng và tổ chức thịnh soạn cúng dường 
Tăng 
sĩ (桑門)
và cư sĩ (伊蒲塞)[13]. 
Chiếu văn của Minh Đế hiện nay vẫn còn. Nhưng câu hỏi về thầy của Vương Anh là 
ai vẫn còn là một nghi vấn. Văn kiện lịch sử này là một chứng cứ xác thực chứng 
minh sự có mặt của Phật giáo 
vào 
thời Hậu Hán. 
Bên cạnh đó, 
đây còn là lý 
do để người đời sau dựng nên tình tiết vua Minh Đế cầu pháp thỉnh kinh. Thuyết 
này nói rằng Hán Minh Đế 
mộng thấy người vàng (金人) 
từ phương Tây. 
Qua lời xác nhận của viên quan Phó Nghị, vua sai sứ qua Tây Vực cầu pháp. Thành 
quả của chuyến Tây 
du này là thỉnh được Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan. Vua Minh Đế cho xây chùa 
Bạch Mã ở ngoại ô thành Lạc Dương làm nơi thờ Phật, phiên dịch kinh điển[14]. 
Câu chuyện này hoàn toàn do người đời sau gán ghép vào. Tuy nhiên, sau khi loại 
bỏ những tình tiết hư cấu thì 
những sự thật lịch sử được hiện ra. Hình tượng “kim nhân” được nêu ra ở 
đây cho thấy rằng 
Phật giáo đầu tiên được 
truyền đến Trung Quốc không phải 
là kinh Phật mà là tượng Phật, bởi 
lúc bấy giờ vương triều Quý Sương đã chịu ảnh hưởng 
nghệ thuật tạc 
tượng của người Hy Lạp[15]. 
Như vậy, sự việc phụng 
thờ Phật của Sở Vương Anh là hoàn 
toàn có sơ sở. Không những thế, qua đây còn cho thấy vào thời điểm này đã xuất 
hiện hình thức một đạo tràng tu tập mà người dẫn đầu là Sở Vương Anh. Song, đạo 
tràng này chưa thực sự được công nhận và chỉ dừng lại ở mặt tín ngưỡng thờ 
phụng. 
 Ngoài ra, việc nỗ lực chứng minh sự có 
mặt của Phật giáo ở trung tâm Lạc Dương cho thấy vào thời 
nhà Hán, Phật giáo đã có mặt ở một số khu vực khác trước cả Lạc Dương. Những sử 
liệu về việc Mâu Tử học Phật ở đất Giao Châu được tìm thấy trong bài tựa “Lý
hoặc luận”, 
hay sử kiện Khương Tăng Hội xuất gia ở Giao Chỉ và sự khai hóa truyền bá Phật 
giáo ở đất Kiến Nghiệp đời Ngô Tôn Quyền là những bằng chứng về một trung tâm 
Phật giáo Luy Lâu phồn thịnh với hệ thống giáo dục phát triển ở phía Nam 
Trung Quốc (tức miền Bắc Việt Nam đang bị nhà Hán đô hộ lúc bấy giờ). 
Như vậy, đến 
đây đủ cơ sở để kết luận rằng có một cộng đồng Phật giáo 
đã hiện diện 
tại Trung Hoa 
trước năm 65. Điều đáng chú ý là trong cộng đồng đó 
có 
cả tu sĩ lẫn cư sĩ tại gia. Tu sĩ được nhắc đến chắc chắn là những vị 
Tăng 
ngoại quốc bởi trong thời kỳ 
này người Hán chưa được phép xuất gia[16]. 
Song, con đường Phật giáo du nhập vào Trung Quốc 
như thế nào vào 
thời kỳ 
đầu là một 
vấn đề được giới học thuật chú ý đến.
Như đã nói ở trên, Trương Khiên 
được xem là người đặt viên gạch đầu tiên khai thông con đường giao lưu quân sự, 
kinh tế, văn hóa giữa Trung Quốc với các nước phía 
Tây.
Con đường này được nhà 
địa lý học danh tiếng người Đức Ferdinand von Richthofen (1833-1905) lần đầu 
tiên gọi là 
Con
đường 
Tơ 
lụa
(Seidenstranssen, 
Silk Road) thay cho các tên 
gọi từng dùng trước đó. Sau chuyến 
Tây 
du trở về, Trương Khiên kể lại những vùng đất mới lạ mà mình đã đặt chân tới. 
Điều đó đã thôi thúc giới thương nhân Trung Quốc lên đường tìm thị trường tiêu 
thụ mới. Mặt hàng được chọn để giao thương lúc bấy giờ là tơ lụa. Từ rất sớm, tơ 
tằm cùng các sản phẩm dệt thượng hạng độc quyền nổi tiếng của Trung Quốc được ưa 
chuộng ở các nước phương 
Tây. 
Ngay cả những bậc đế vương hay những nhà quý tộc của đế chế La Mã cũng rất thích 
tơ lụa Trung Hoa, 
đến mức lụa được đổi bằng vàng với cân nặng tương đương. 
Các sản phẩm 
tơ lụa được tập kết ở Lạc Dương, sau đó chuyển đến Trường An rồi đưa đến cửa 
khẩu Đôn Hoàng, tiếp giáp với sa mạc Kashgas. Vì sự rộng lớn và nguy hiểm ở sa 
mạc, các đoàn thương buôn chia ra hai hướng đi theo rìa của sa mạc rồi gặp nhau 
ở Tân Cương. Sau khi tiến vào Tân Cương, 
Con 
đường Tơ 
lụa lại được chia làm nhiều con đường nhỏ tiếp tục 
qua 
Mông 
Cổ, Ấn 
Độ, 
Afghanistan, 
Kazakh-stan, 
Iran,
Iraq,
Thổ 
Nhĩ Kỳ, Hy 
Lạp rồi tiếp cận vùng Địa 
Trung Hải và đến tận châu Âu. Tổng 
chiều dài ước tính khoảng 7.000 
km với phương tiện chủ yếu là lạc đà. Thông qua Con 
đường Tơ lụa này, vàng bạc của châu Âu không ngừng chảy 
vào Trung Nguyên, triều đình nhà Hán cũng vì thế mà đón nhận thời kỳ 
hoàng kim nhất trong lịch sử dân tộc Trung Hoa. 
Lúc mới du nhập, Phật giáo được truyền vào Trung Quốc thông qua
Con đường Tơ lụa trên bộ. Các đoàn 
thương nhân từ Ấn Độ, Tây Vực và các nước Trung Á không ngừng vào Trung Quốc để 
thông thương. Trong những chuyến đi xa này, các đoàn thương nhân thường dẫn theo 
các tu sĩ Phật giáo để cầu nguyện và làm chỗ dựa tinh thần. Đây chính là tiền đề 
để Phật giáo truyền vào Trung Quốc. Lộ trình du nhập của Phật giáo từ Ấn Độ
vào Trung Quốc vào thế kỷ thứ II và I tr.TL khởi 
hành từ phía Bắc Ấn Độ[17]. Đầu tiên, họ 
bắt đầu cuộc hành trình đến Bamiyan thuộc 
Afghanistan, sau đó vượt dãy Hindukush đến Balkh, 
và từ Balkh băng qua vùng Pamirs để đến 
Kashgar. Từ Kashgar rẻ sang hai hướng Nam, Bắc 
vòng quanh sa mạc rồi gặp nhau tại Đôn Hoàng, 
một tỉnh phía Tây Trung Quốc. 
Tuy nhiên, theo nhiều nguồn sử ghi 
chép lại, những năm đầu của thế kỷ 
thứ nhất, cửa khẩu Đôn Hoàng có một thời gian dài đóng cửa, làm gián đoạn mọi sự 
liên lạc giữa nhà Hán với các nước phía 
Tây. 
Điều đó gây trở ngại rất lớn đến sự truyền bá của Phật giáo 
vào 
giai đoạn này. Bên cạnh đó, điều kiện tự nhiên và xã hội của 
Con 
đường Tơ 
lụa trên bộ cũng tác động lớn trong việc đi lại. 
Con đường 
Tơ 
lụa trên bộ chỉ thông tới những nước tiếp giáp với Trung Quốc như Nguyệt Chi, 
Khương Cư, An Tức... Khi muốn mở rộng con đường đến phía Tây, các đoàn thương 
buôn thường phải đi qua những vùng đất vô cùng khắt nghiệt, đối diện với những 
ngọn núi cao hiểm trở, hẻo lánh hay sa mạc rộng lớn. 
Hơn nữa, sự 
gián đoạn bởi chiến tranh hay mưu đồ thao túng hoạt động thương mại trên tuyến 
đường này của một số nước cũng là một nhân tố tác động trực tiếp đến sự giao 
thương này. Điều đó được Hậu Hán 
thư 
ghi chép rất rõ. Vào triều đại vua Hoàn Đế (89-105), Ấn Độ và Trung Quốc đã 
thiết lập mối quan hệ hữu nghị.[18] 
Không lâu sau, do Tây Vực làm phản nên mối giao bang này bị trì hoãn. Đến đời 
Hoàn Đế, Ấn Độ chuyển hướng đi theo đường biển từ Nhật Nam đến Trung Quốc triều 
cống. 
Như vậy, có thể thấy rằng, Phật giáo 
truyền vào Trung Quốc đầu tiên thông qua tuyến đường bộ. Song, những điều kiện 
tự nhiên và xã hội đã tạo ra nhiều khó khăn trong sự truyền bá này. Chính vì 
những điều kiện bất lợi đó đã thúc đẩy các đoàn thương nhân, các đoàn giao bang 
phải chuyển hướng sang tuyến đường biển. Từ đây mở ra một con đường mới với 
nhiều thuận lợi trong việc vận chuyển giao thương, kết nối các mối quan hệ hữu 
nghị. Từ đó, Phật giáo cùng theo các tuyến đường biển truyền vào Trung Quốc. Lộ 
trình đi Trung Quốc được khởi 
hành từ Bharukaccha nằm ở bờ Tây Ấn Độ. 
Sau khi rời các cảng ở vịnh Bengal, tàu có thể xuôi buồm thẳng đến Java, hoặc đi 
theo bờ biển dọc quanh bán đảo Malay cho đến khi 
đến Giao Chỉ hoặc Quảng Châu thuộc phía Nam Trung Quốc.[19]
Hậu Hán thư 
còn nhắc đến sự giao thương qua đường biển giữa nhà Hán với đế chế La Mã. Dưới 
thời Hoàn Đế, năm Diên Hy thứ chín (166),
quốc vương La Mã 
Marcus Aurelius Antonious phái đoàn sứ giả mang ngà voi, sừng tê giác... đi theo 
đường biển từ Nhật Nam đến Trung Quốc 
để 
triều cống
[20].
Bên cạnh 
những ghi chép trong thư tịch cổ, còn rất nhiều khảo cổ vật được tìm thấy dọc 
tuyến đường trên biển này. Di chỉ sớm nhất là dấu tích về xưởng đóng thuyền 
(được xác định thuộc thời Tây Hán 221-111
tr.TL) 
tại đường Trung Sơn Tứ, Quảng Châu 
được phát hiện vào 
năm 1974. Cùng với đó còn 
có 
những mô 
hình thuyền bằng gốm và bằng gỗ có niên đại Đông Hán (năm 
25-220 CN) 
được 
phát hiện 
tại thành phố Quảng Châu 
vào 
năm 1980; 
và như vậy 
cũng phản ánh rất rõ trình độ chế tạo thuyền thời Hán. 
Hơn nữa, các 
di cổ để lại ở di chỉ Óc Eo (được xem là thủ phủ của vương quốc Phù Nam xưa)
cũng 
là một minh 
chứng cho những hoạt động tuyến đường biển. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy ở Óc 
Eo hai đồng tiền vàng có chạm 
hình hoàng đế La Mã Antoninus Pius (86-161) và Marcus Aurelius (121-180). Bên 
cạnh đó, các nhà khảo cổ học còn tìm thấy tượng đồng và một số đồ gốm Ấn Độ, 
gương đồng thời Hậu Hán, tượng Phật bằng đồng thời Bắc Ngụy... Tất cả những dấu 
tích đó 
cho thấy từ 
rất sớm cư dân Óc Eo đã xác lập mối quan hệ với các thương nhân La Mã, Ấn Độ và 
Trung Quốc, 
và nghiễm nhiên trở thành một minh chứng rõ nét về hoạt động của 
Con 
đường Tơ 
lụa trên biển.
Như vậy, qua 
những ghi chép trong thư tịch cổ kết hợp với nhiều hiện vật thu được từ các cuộc 
khai quật khảo cổ học, 
có thể kết luận rằng Phật giáo được truyền đến Trung Quốc qua 
Con 
đường Tơ 
lụa trên biển từ rất sớm, 
không thua gì Con 
đường Tơ 
lụa trên bộ, nếu không nói là sớm hơn.
Để có thể xác định chính xác niên 
đại và con đường du nhập của Phật giáo vào Trung Quốc 
vào 
thời kỳ đầu dựa trên các ghi chép của thư cổ hay khảo cổ học là một điều hết sức 
khó khăn. Tuy nhiên, qua những gì đã phân tích có thể kết luận rằng, 
Phật giáo du nhập vào Trung Quốc ngay từ những năm đầu của thế kỷ 
thứ II tr.TL 
nhưng chưa thể định hình mà chỉ hiện hữu dưới dạng tín ngưỡng 
dân 
gian hoặc là qua hình thức của Đạo giáo. Mãi đến đầu thế kỷ 
thứ I TL, 
Phật giáo mới dần dần xâm nhập và bám rễ với dấu ấn điển hình là sự thực tập 
trai giới và thờ Phật của Sở Vương Anh. Con đường 
Tơ 
lụa trên bộ và trên biển là nhân tố quan trọng trong công cuộc truyền bá Phật 
giáo. Các nhà truyền giáo đi theo các đoàn thương buôn qua hai con đường này vào 
Trung Quốc. Tuy nhiên, 
sự truyền bá trên tuyến đường bộ gặp nhiều khó khăn và hạn chế, 
trong khi đó những ghi chép 
về sự hoạt động nhộn nhịp của Con 
đường Tơ 
lụa trên biển khiến ta gạt bỏ đi những nghi vấn ban đầu mà chấp nhận rằng thời 
gian và hoạt động truyền bá Phật giáo qua tuyến đường biển không thua gì đường 
bộ. Ngày nay, Con 
đường Tơ 
lụa với những chuyến hàng đầy ắp 
hối hả tìm đến miền đất hứa đã trở thành dĩ vãng. Song, từ lúc ban sơ khai 
thông, Con 
đường Tơ 
lụa đã xác định nội hàm cơ bản và kiên cố của nó, mở ra một kỷ 
nguyên mới trong công cuộc giao lưu văn hóa, tôn giáo giữa Trung Quốc với các 
nước phương Tây, đặc biệt là sự du nhập của Phật giáo vào đất nước này.
 
2. 
沙門志磐撰《佛祖統紀》卷34:「西方之人有聖者焉,不治而不亂,不言而自信,不化而自行。」 
CBETA, T49, no.2035, p328.
3. 費長房撰《歷代三寶紀》卷1:「又始皇時。有諸沙門釋利防等十八賢者。齎經來化。」
CBETA, T49, 
no.2034, p.23.
5. 
釋慧皎撰《高僧傳》卷5〈釋道安〉:「初魏晉沙門依師為姓故姓各不同。安以為大師之本莫尊釋迦。乃以釋命氏。」CBETA,  
T50, No.2059, 
p.352-353.
7. 
《佛祖統紀》卷54:「漢武帝元狩四年。霍去病討匈奴。得祭天金人長丈餘。帝列於甘泉宮。焚香禮敬。」CBETA,
T49, no. 
2035, p.470.
9. Xem Zenryu Tsukamoto (1959), 
The buddhist conquest of China, p.21. 
11. 
《正史選輯》卷4〈魏書卷114.
釋老志10第20〉:「哀帝元壽元年,博士弟子秦景憲受大月氏使臣伊存口授浮屠經。」 
CBETA, B17, no.0091.
13. Xem  
沙門志磐撰《佛祖統紀》卷35, 
CBETA, T49, no.2035, p.330.
14. 
沙門志磐撰《佛祖統紀》卷35
〈
明帝〉:
「帝夢金人丈六項佩日光飛行殿庭。旦問群臣莫能對。太史傅毅進曰。臣聞周昭之時。西方有聖人者出。其名曰佛。帝乃遣中郎將蔡愔秦景博士王遵十八人。使西域訪求佛道。十年。蔡愔等於中天竺大月氏。遇迦葉摩騰竺法蘭。得佛倚像梵本經六十萬言載以白馬。達雒陽騰蘭以沙門服謁見。館於鴻臚寺。十一年。勅雒陽城西雍門外立白馬寺。摩騰始譯四十二章經藏梵本於蘭臺石室。」CBETA,
T49, no.2035, 
p.329.
16. Xem《正史選輯》卷1〈晉書.
卷95
〉:「佛,外國之神,非諸華所應祠奉。漢代初傳其道,惟聽西域人得立寺都邑,以奉其神,漢人皆不出家。魏承漢制,亦循前軌。」CBETA,
B17, no.0091.
18.《正史佛教資料類編》卷1 
:「和帝時,數遣使貢獻,後西域反叛,乃絕。至桓帝延熹二年、四年,頻從日南徼外來獻。
」CBETA,
ZS01, no.0001.
20. 
《正史選輯》卷3 
:「桓帝延熹九年,大秦王安敦遣使自日南徼外獻象牙,犀角,瑇瑁,始乃一通焉。」CBETA,
B17, no.0091.
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO