Cưu-ma-la-thập: Một cuộc đời – Một vì sao

CƯU MA LA THẬP

CƯU MA LA THẬP

MỘT CUỘC ĐỜI - MỘT VÌ SAO

 

Cưu-ma-la-thập (Kumarajiva) là một nhân vật kiệt xuất, nổi tiếng trong Phật giáo Trung Quốc và các nước Phật giáo Phát triển. Cũng chính vì sự kiệt xuất đó nên các nhà biên soạn khi biên tập cuộc đời của ngài đã đưa vào không ít điều với mục đích làm tăng thêm uy tín cho ngài. Tuy nhiên, điều đó chưa hẳn làm tăng thêm uy tín cho ngài, mà ở một khía cạnh nào đó đã vô tình làm giảm đi uy tín của ngài.

Tiểu sử chi tiết của ngài La Thập có thể tìm thấy trong Cao tăng truyện, một tác phẩm ghi lại tiểu sử của những vị danh tăng trong Phật giáo Trung Quốc, do nhà sư Huệ Kiểu (497-554) đời Lương biên soạn. Một điều không thể tránh khỏi là sự ghi chép về một nhân vật lịch sử kiệt xuất luôn đan xen một số yếu tố huyền thoại và lý tưởng hóa do các nhà biên tập đưa vào. Những sự kiện xung quanh cuộc đời của La Thập cũng có không ít những yếu tố đó.

Cha của La Thập, Kumarayana, xuất thân từ một gia đình quý tộc ở một vương quốc Ấn Độ. Khi lớn lên, ông trở thành một tu sĩ Phật giáo và bắt đầu chuyến Đông du vượt dãy núi Pamir đến vương quốc Kucha ở Trung Á. Thấy được tài năng và phẩm hạnh nổi bật của Kumarayana, nhà vua thuyết phục ông ở lại Kucha làm quốc sư, rất mực xem trọng đến mức ép ông hoàn tục lấy em gái Jiva của mình. Jiva lúc đó tuổi vừa đôi mươi, tài ngộ minh hối cũng có tình ý với Kumarayana. Kết quả của cuộc hôn nhân miễn cưỡng này là sự ra đời của La Thập. Tên của Kumarajiva là sự kết hợp giữa hai tiết tố kumara- và jiva- từ tên của cha, mẹ ngài. Điều kỳ lạ là, khi mang thai La Thập, bà Jiva bỗng nhiên thông minh thêm rất nhiều, thông thạo tiếng Phạn. Có một vị La-hán tên Dharmaghosa bảo bà sẽ sinh ra một người con thông minh và ví bà như mẹ của Sariputta khi mang thai Sariputta.

Thời niên thiếu, La Thập được mô tả như một thần đồng. Năm bảy tuổi, La Thập từ bỏ đời sống hoàng cung, xuất gia thọ Sa-di giới. Cùng năm đó, mẹ ngài cũng xuất gia làm Tỳ-kheo-ni. Trong vòng một ngày La Thập có thể thuộc lòng một ngàn câu kinh tương đương 32.000 từ. Đến khi đã thuộc lòng bộ Abhidharma, ngài có thể hiểu rõ những lời dạy của vị thầy hướng dẫn và thông đạt những ý nghĩa tiềm ẩn trong đó. Hai năm sau, La Thập cùng mẹ lên đường đến Kashmir, nơi cha ngài từng đến. Ở đó, La Thập tham học dưới sự hướng dẫn của Bandhudatta, một bậc thầy lỗi lạc nhất vùng và là em họ của vua nước này. Không bao lâu, La Thập tinh thông các kinh điển Nguyên thủy. Ngài đã tranh luận và chiến thắng các luận sư ngoại đạo trước sự chứng kiến của nhà vua vương quốc Kashmir.[1] Ấn tượng và xem trọng tài năng vượt trội của La Thập, nhà vua chỉ định năm vị tu sĩ cùng mười người khác làm đệ tử của ngài. Chính vào khoảng thời gian này, danh tiếng của La Thập bắt đầu lan rộng khắp Ấn Độ và các quốc gia Trung Á lân cận.

Năm 20 tuổi, La Thập cùng mẹ trở về Kucha. Trên đường trở về quê hương ngang qua các nước thuộc khu vực Trung Á, các vị vua hay tin đều muốn thỉnh La Thập ở lại nước mình và hứa ban cho những tước vị quan trọng, tuy nhiên ngài đều không đoái hoài đến. Cũng trong chuyến hồi hương này, khi đi qua lãnh thổ nước Nguyệt Chi, họ gặp một vị A-la-hán và vị này đưa ra lời tiên đoán với mẹ La Thập rằng: “Bà phải nên luôn trông chừng vị Sa-di này. Cho đến năm 30 tuổi vẫn không phá giới thì vị này sẽ đại hưng Phật pháp, độ vô số người không khác gì Upagupta. Nếu giới giữ không toàn vị này sẽ không làm gì lớn được, chỉ có thể là bậc pháp sư tài minh tuấn nghệ mà thôi.”[2]

Rời khỏi Nguyệt Chi, La Thập cùng mẹ đi đến Kashgar. Trong thời gian lưu trú ở đây, La Thập tiếp tục nghiên cứu Phát trí luận và các bộ luận của Hữu bộ, tất cả đều đạt trọn tinh diệu. Đồng thời, La Thập cũng dành thời gian tìm hiểu văn điển của các trường phái Ấn Độ cùng các lĩnh vực tri thức khác. Kiến thức nội điển và ngoại điển sâu rộng này hỗ trợ ngài rất nhiều trong hoạt động dịch thuật về sau. La Thập hẳn nhiên cũng thông thạo tiếng Sanskrit, Pāli và các ngôn ngữ của Trung Á trong giai đoạn này. Cảm phục trước tài năng của vị sư trẻ La Thập, nhà vua mở pháp hội thỉnh La Thập thăng tòa giảng kinh Chuyển pháp luân. Điều này cho thấy kiến thức Phật học và khả năng ngôn ngữ của La Thập uyên thâm như thế nào. Việc đứng trước nhân dân và hội chúng tu sĩ ở đây để giảng kinh quả thật là quá phi thường đối với một vị sư ở độ tuổi còn rất trẻ.

Một sự kiện trọng đại khác trong cuộc đời của La Thập diễn ra vào thời điểm này là cuộc gặp gỡ với Suryasoma. Suryasoma cùng người anh, Suryabhadra, cả hai là hoàng tử vương quốc Yarkand xuất gia tham học giáo lý Đại thừa ở Kashgar. Thông qua kinh Anavatapta, Surysoma nói về “tánh không” cho La Thập nghe. Tư tưởng huyên áo mới lạ này khơi mở tâm thức La Thập và ngài chuyển hướng nghiên tầm sang Đại thừa với nhận định rằng: “Trước đây, khi học tập giáo nghĩa Phật giáo Nguyên thủy, ta giống như người không biết vàng là gì và nhầm đồng thau là quý báu.”[3] La Thập dày công vào nghiên cứu, học thuộc các bộ luận quan trọng của Đại Thừa như Trung luận, Thập nhị môn luận và Bách luận.

Cuộc hội ngộ với Suryasoma đánh dấu một bước ngoặc quan trọng trong cuộc đời La Thập. Sau những năm ở Kashgar, La Thập cùng mẹ trở về Kucha. Trên đường trở về quê hương, tại vương quốc Turfan nằm ở phía Bắc biên giới Kucha, ngài có một cuộc tranh luận với Đạo Thế và chiến thắng vị này trước sự chứng kiến của các nhà sư.[4]  Hay tin đó, vua Pu-shuen nước Kucha đích thân đến Turfan và đưa La Thập về vương quốc của mình. La Thập thọ đại giới tại hoàng cung của nhà vua khi ngài 20 tuổi. Trong thời gian gần 20 năm ở Kucha, ngài tiếp tục nghiên cứu các kinh điển Đại thừa và nhận được cuốn Thập tụng luật của phái Hữu bộ từ một cư dân đến từ Kashmir.[5] Ngoài ra, ngài thuyết phục được vị thầy cũ của mình, Bandhudatta, chuyển hướng sang giáo nghĩa này. Cũng từ lúc đó, mẹ ngài từ biệt ngài trở về Thiên Trúc.

Vào thời điểm này, La Thập được xem là vị thầy bậc nhất ở Ấn Độ. Các vương quốc Trung Á và rất nhiều tu sĩ từ nhiều quốc gia khác nhau đã tìm đến ngài tham học. Danh tiếng của La Thập nhanh chóng lan truyền đến tận Trung Quốc thông qua lời tường thuật của Tăng Thuần sau chuyến du hành từ Kucha trở về vào năm 379.[6] Trước đó, hai hoàng tử vương quốc Kucha và Yarkhoto đã đến Trung Quốc vào năm 377 và mong muốn Phù Kiên gửi một đoàn thám hiểm đến Tây Vực để thỉnh La Thập về Trường An.

Thời điểm này, chính sự Trung Quốc ở trong tình trạng bất ổn, sử gọi là thời đại Ngũ Hồ Thập Lục Quốc. Phía Bắc là triều đại Tiền Tần dưới sự thống trị của Phù Kiên (338-385) người Tây Tạng. Là một tín đồ Phật giáo nhiệt thành, Phù Kiên ủng hộ nhiều cho công tác hoằng hóa, dịch thuật của Đại sư Đạo An (312-385). Về sau, khi đến Trường An, nhìn những thành quả sừng sững mà Đạo An đã cống hiến cho Phật giáo Trung Quốc, La Thập tôn xưng Đạo An là “Đông phương Thánh giả”. Công trình dịch thuật và đội ngũ Tăng tài mà Đạo An đào tạo đã giúp cho sự nghiệp hoằng bá về sau của La Thập rất nhiều. Chính Đạo An nhiều lần đề nghị Phù Kiên đến Kucha thỉnh La Thập về Trường An.[7] Đầu tiên, Phù Kiên gửi thử thỉnh La Thập về Trường An nhưng vua Po-shuen không cho phép La Thập chấp nhận. Sau đó, Phù Kiên gửi đến Po-shuen một danh sách triều cống gồm 16 thứ trong đó có La Thập, nhưng Po-shuen không tuân theo yêu cầu này. Tháng 9 năm 382, Phù Kiên sai Lã Quang tiến đánh Kucha để đưa La Thập về kinh đô Trường An. Khi bắt được La Thập, Lã Quang nghe tin Phù Kiên bị Diêu Trường giết chết nên quyết định xưng vương lập quốc tại vùng Lưỡng Châu mới chiếm được.

Là một võ tướng, lại không phải Phật tử, Lã Quang không mấy xem trọng La Thập, thậm chí buộc ngài phải sống chung với con gái của vua Po-shuen. Về sau, Lã Quang mới bắt đầu trọng dụng và xem La Thập như người thư ký của mình. Điều đáng buồn là cả Lã Quang và người kế vị ông không mấy quan tâm đến việc truyền bá Phật giáo. Gần hai thập kỷ bị giam hãm ở đây là một giai đoạn đầy thử thách và gian khổ đối với La Thập. Có lẽ vì thế, khi biên tập về cuộc đời của La Thập, các đệ tử của ngài ít nói về thời kỳ này.

Trong khoảng thời gian này, La Thập hẳn đã tranh thủ thời gian học hỏi và thông thạo tiếng Trung Quốc ở đây. Tăng Triệu theo ngài học tập, cùng ngài đi đến Lưỡng Châu và giới thiệu tình hình Phật học trong nước cho ngài biết. Điều đó giúp La Thập hiểu được một số vấn đề đang tồn tại và tiến hành nghiên cứu các thánh điển đã phiên dịch trong quá khứ, đặc biệt chú trọng những dịch phẩm của Trúc Pháp Hộ. Những tư liệu này làm nền tảng khá tốt cho việc phiên dịch và giảng dạy của ngài về sau. Chúng ta có thể cho rằng, tâm trí La Thập luôn hướng về phía Đông, khao khát được đến Trường An, nơi ngài có thể thực hiện được sứ mệnh hoằng hóa giáo nghĩa Đại thừa của mình mà mẹ ngài và vị thầy Suryasoma đã chỉ dẫn.

Diêu Hưng (336-410), vị vua thứ hai của triều đại Hậu Tần, sau nhiều nỗ lực đưa La Thập đến Trường An đã điều quân đến chinh phạt Lưỡng Châu rước La Thập về vào cuối năm 401. Sau khi đón được La Thập về kinh đô, Diêu Hưng tôn ngài làm quốc sư vào năm 402, ban tặng ngài ngôi vườn Tiêu Dao và thành lập đại dịch trường với hàng ngàn tu sĩ, nhà tri thức tham gia.[8] Chỉ trong vòng 12 năm (402-413), dưới sự chủ trì của La Thập, dịch trường đã cống hiến to lớn cho việc hoằng bá Phật giáo ở Trung Quốc cùng các lĩnh vực quan trọng khác. Tài năng, đức độ của La Thập làm vua Diêu Hưng vô cùng kính ngưỡng và nảy sinh ý tưởng rằng tài đức phi thường của ngài nên được lưu truyền, chuyển tiếp cho thế hệ con cháu. Thế là, Diêu Hưng truyển chọn mười thiếu nữ xinh đẹp, thông minh vào ở chung với ngài. Nhà vua không thể cải, buộc La Thập miễn cưỡng tuân theo. Tự thấy khuyết điểm về phạm hạnh của mình nên mỗi khi thuyết giảng cho đồ chúng, ngài thường trầm mặc nhắc nhở mọi người chỉ nên giữ lấy hoa sen lớn lên trong bùn và để bùn ở lại.[9] Đáng buồn là các hậu duệ của ngài không có ai đáp ứng được kỳ vọng của Diêu Hưng cả.

Trong bản phác thảo về cuộc đời của La Thập, Nirmala Sharma ghi rằng, từ khi phạm hạnh bị tổn hại, La Thập không đặt chân đến tu viện nữa và có một số tu sĩ khác muốn sống đời như ngài. Để gạt đi những ý muốn lầm lạc đó, trước sự chứng kiến của mọi người, La Thập nuốt một nắm kim và bảo, “Những ai sống sót sau khi nuốt nắm kim này mới có thể bắt chước ta.”[10] Nhưng không một ai dám thử cả.

Mặc dù phải đối diện với nhiều trắc ẩn thử thách, với nghị lực kiên cường và hoài bão hoằng hóa Phật giáo, La Thập đã vượt lên tất cả và đóng góp rất lớn cho sự hoằng bá Phật giáo ở Trung Quốc. Đóng góp nhiều nhất của La Thập là dịch thuật. Cho đến thế kỷ V, phần lớn kinh điển truyền từ Ấn Độ sang đều được các nhà sư ghi nhớ bằng ký ức, và không phải bản dịch nào cũng được hoàn thiện ngay lần đầu tiên, nhiều lúc được dịch từng phần trong nhiều lần từ nhiều người mang sang. Trong bài tựa kinh Duy Ma Cật, Tăng Duệ có kể lại quá trình biên dịch kỹ lưỡng của các phân ban trong dịch trường. Đầu tiên, La Thập cầm bản tiếng Phạn trên tay và nói lên nội dung của nó bằng tiếng Trung Quốc, mỗi câu đọc lại hai đến ba lần. Tiếp theo, ngài giải thích chi tiết ý nghĩa của bản tiếng Phạn hai lần, vất vả chọn ra những từ ngữ thích hợp nhất để chuyển tải nội dung trong nguyên bản. Đồng thời các đồng sự trong dịch trường sẽ thảo luận về nội dung, nghiên cứu làm rõ nghĩa lý, nghiền ngẫm văn kinh rồi mới chép thành sách. Nếu phát hiện bất kỳ điểm nghi ngờ nào trong cách đọc ngài sẽ đối chiếu, kiểm tra lại với nguyên bản cho đến khi hoàn chỉnh. Cuối cùng, sau khi ngài hiệu đính bản dịch sẽ có thêm một bộ phận kiểm tra, trau chuốt lại văn phong. Có thể thấy trong dịch trường của La Thập đã có sự phân ban làm việc rất cụ thể và hiệu quả. Trong các triều đại Tùy, Đường, người ta tìm thấy các bộ phận phiên dịch tương tự như thời đại của La Thập.

Dưới sự chỉ đạo của La Thập, dịch trường làm việc rất tích cực. Nhiều bộ kinh được dịch ra, trong đó A Di Đà được xem là bản kinh đầu tiên được ngài dịch vào năm 402. Năm tiếp theo, ngài bắt đầu dịch Trung phẩm Bát-nhã gồm 25 ngàn bài tụng và hoàn thành vào năm 404. Trong năm này, bản dịch Bách luận cũng được hoàn thành. Tiếp theo là các bản dịch đồ sộ khác như Đại trí độ luận 100 quyển, kinh Pháp hoa, kinh Duy Ma Cật, Trung quán luận, Thập nhị môn luận, kinh Thập trụ, Thành thật luận...

Nếu trước đó Đạo An đưa ra chủ trương Ngũ thất bản, tam bất dị, thì đến La Thập chủ trương phong cách dịch ý và được giới học giả coi là Tân dịch mặc dù Huyền Trang sau La Thập hai thế kỷ vẫn cho là Cựu dịch. La Thập cho rằng các bản dịch không bao giờ có thể chuyển tải hết hương vị của bản gốc, nó giống như việc ăn thức ăn đã được nhai bởi một người khác.[11] Do đó, ngài không ủng hộ cách dịch trung thành với nguyên bản như các dịch giả trước; thay vào đó, ngài chỉ quan tâm đến ý nghĩa của nguyên bản. Chủ trương ý dịch của ngài không câu nệ vào văn cú của tiếng Phạn mà chuyển hoàn toàn sang văn chương của Trung Quốc. Ngài cắt bỏ những đoạn lập lại, gom ý những đoạn văn rườm rà miễn sao đủ ý và hợp với văn chương Trung Quốc. Như các bài kệ ở kinh Kim cương, bản tiếng Phạn có đến tám câu nhưng bản dịch của La Thập chỉ còn bốn câu. Kinh Kim cương có ba bản dịch, của Chân Đế, Huyền Trang và La Thập, nhưng bản của La Thập tinh gọn, phổ biến hơn.

La Thập chẳng những tóm tắc lại bản dịch mà còn mạnh dạn nhập nhiều chương có cùng nội dung hay tách các chương có nội dung khác biệt ra. Như kinh Pháp hoa, ở Phạn bản có 23 phẩm, nhưng bản dịch của La Thập có đến 24 phẩm. Ngài đã tách phẩm thứ 23 của Phạn bản thành hai phẩm Đề Bà Đạt Đa và Hiện bảo tháp. Các bản dịch của La Thập mang phong cách văn chương nội bật, văn phong nhẹ nhàng, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ đi vào lòng người. Học giả người Nhật, Enichi Ocho, đã chỉ ra bốn yếu tố quan trọng giúp La Thập có thể tạo ra những dịch phẩm tuyệt vời.[12] Một là La Thập có tài năng ngôn ngữ xuất chúng, thông thạo tiếng Phạn, các ngôn ngữ Trung Á và tiếng Trung Quốc; hai là ngài không những thông đạt các giáo lý Phật giáo ở mỗi thời kỳ từ Nguyên thủy đến Đại Thừa mà còn nắm rõ giới luật; ba là sự hộ pháp đắc lực của vua Diêu Hưng đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động phiên dịch của ngài; bốn là La Thập có nhiều đệ tử và đồng sự trẻ tài năng để hỗ trợ ngài trong công tác phiên dịch.

Theo Xuất Tam bảo ký tập, công trình phiên dịch của La Thập bao gồm 32 bộ, tổng cộng hơn 300 quyển. Lịch đại Tam bảo ký lại cho rằng 425 quyển bao gồm 97 bộ. Theo Khai Nguyên thích giáo lục, số lượng văn điển mà ngài phiên dịch là 74 bộ, bao gồm 384 quyển. Hoàng đế Diêu Hưng phong cho ngài danh hiệu Tam tạng (Tripitakacarya). Trong Xuất Tam tạng ký tập, ngài Tăng Hựu đánh giá rất cao sự nghiệp phiên dịch của ngài. Tăng Hựu viết: “Pháp sư La Thập thần trí sáng suốt, lại có đệ tử nước Tần là Đạo Dung, Tăng Triệu trí tuệ sáng ngời. Cho nên ngài có thể phát huy những điểm cốt yếu, làm rõ nghĩa uyên áo của kinh, khiến cho ngôn ngữ sâu xa của Đại thừa trở nên sáng sủa.”

Thông qua công tác phiên dịch, La Thập đã đặt nền tảng hình thành một số tông phái ở Trung Quốc như Tịnh Độ tông, Tam Luận tông... Bản dịch kinh A Di Đà của La Thập đã đặt nền tảng giáo lý cho Tịnh Độ tông ở Trung Quốc về sau. Kinh A Di Đà là một trong những bản dịch sớm nhất của ngài, được hoàn thành vào năm 402. Ở Lô Sơn, Huệ Viễn, một trong những cao đồ của Đạo An và được xem là người khai sáng Tịnh Độ tông, khi nghe danh tiếng của La Thập đã chủ động trao đổi thư từ với ngài. Trong một bức thư, La Thập gọi Huệ Viễn là Đông phương Hộ pháp Bồ-tát.[13] Vua Diêu Hưng đã thỉnh Huệ Viễn viết lời tựa cho dịch phẩm Đại trí độ luận của La Thập.

La Thập cũng đóng góp cơ bản cho việc hình thành Tam Luận tông ở Trung Quốc thông qua ba bản dịch Trung luận, Bách luậnThập nhị môn luận. Người khai sáng Trung Quán tông, tiền thân của Tam Luận tông, là Đại luận sư Long Thọ (Nāgārjuna), tác giả của Trung quán luận; và đệ tử của ngài là Thánh Thiên (Aryadeva), tác giả của Bách luậnThập nhị môn luận.

Ngoài ra, bản kinh Duy Ma Cật sở thuyết do La Thập dịch vào năm 406 đã trở thành cơ sở cho giới cư sĩ Phật giáo Trung Quốc trong việc truyền bá Phật pháp.

Bên cạnh công tác phiên dịch kinh điển, La Thập còn chú trọng tổ chức các pháp hội diễn giảng kinh luận. Do đó, môn đồ đến theo học với ngài rất đông, hơn 3.000 đệ tử. Trong đó có bốn vị đệ tử nổi bật được xưng tụng là “Tứ Thần Tăng”, đó là Tăng Triệu, Tăng Duệ, Đạo Sinh và Đạo Dung.

Tăng Triệu (384-414) thời niên thiếu rất thông thạo kinh sử, ưa thích tư tưởng Lão Trang. Sau khi xuất gia, ngài tìm đường đến Lưỡng Châu theo học với La Thập cho đến lúc La Thập viên tịch; trong khoảng thời gian ấy ngài chưa từng rời xa thầy. Tăng Triệu trở thành một trong những đệ tử xuất sắc nhất, hỗ trợ đắc lực cho công tác phiên dịch của La Thập. Văn học Bát-nhã đến thời La Thập được truyền bá sâu rộng, đặc biệt là Trung luận. Tăng Triệu học giáo lý Bát-nhã từ La Thập và viết ra bốn bộ luận nổi tiếng, bao gồm Bát-nhã vô tri luận, Bất chân không luận, Vật bất thiên luận,Niết-bàn vô danh luận. Gộp lại gọi là Triệu Luận. Các bộ luận này giải thích về giáo lý Bát-nhã. Về sau Tăng Triệu bị vua chém đầu. Nguyên nhân dẫn đến sự việc này cho đến nay vẫn còn là một bí ẩn.

Đạo Sinh xuất thân là môn hạ của Trúc Pháp Thái, sau đến Lư Sơn tham học với Huệ Viễn bảy năm rồi tìm đến Trường An đầu sư cầu học với La Thập. Năm 409, Đạo Sinh về lại Giang Nam viết nghĩa sớ, trước thuật. Bấy giờ kinh Đại bát Niết-bàn mới dịch được phần đầu với tư tưởng “Nhất xiển đề không có Phật tánh”. Nhưng trong thiền quán, ngài thấy nhất xiển đề có Phật tánh, có khả năng thành Phật. Giáo nghĩa này dấy lên làn sóng tranh cãi trong giới học giả Phật giáo đến nỗi Đạo Sinh chất đá lên để hỏi. Đạo Sinh bị trục xuất khỏi Giang Nam, đày về Lư Sơn. Mãi cho đến khi phần sau của kinh Đại bát Niết-bàn truyền sang và được ngài Dharmaraksa dịch sang Hán ngữ, giới học giả Phật giáo mới nhận ra chủ trương của ngài Đạo Sinh là chính xác.

Riêng Đạo Dung và Tăng Duệ thì không có nhiều điểm nổi bật.

Ngoài việc dịch kinh luận, La Thập còn dịch truyện ký của Thánh Thiên, Long Thọ và Mã Minh (Aśvaghoșa). Những bản dịch truyện ký đó đã đặt nền móng cho công tác biên tập Cao tăng truyện về sau.

Cuộc đời của La Thập còn nhiều trắc ẩn. Ngài từng tâm sự rằng: Vì nghiệp chướng cũ quá nặng nên tôi chưa bao giờ nhận sự tôn kính làm bậc thầy của đồ chúng.[14] Về sau, việc dịch ý của La Thập có lẽ làm giới học giả nghi ngờ. Chính vì thế, trước khi thị tịch, La Thập phát nguyện rằng: Những gì tôi phiên dịch mà không sai lầm, sau khi hỏa táng thân này, lưỡi tôi vẫn còn nguyên vẹn.[15] La Thập qua đời, đồ chúng làm chòi cư tang bên mộ 3 năm. Điều kỳ lạ là, sau khi cải táng, lưỡi của ngài vẫn còn nguyên.

Cuộc đời của La Thập đầy những thăng trầm trắc ẩn, nhưng đó cũng là chất liệu tôi luyện nên một La Thập với nghị lực phi thường, vượt qua những gian nan, thử thách của số phận, để rồi cống hiến hết mình cho sự nghiệp hoằng bá Phật giáo. Sự thành công đó thể hiện ở bốn phương diện quan trọng. 1) Dưới sự lãnh đạo của La Thập, dịch trường đã cho ra đời một số lượng bản dịch văn điển đồ sộ; 2) Một số trong những dịch phẩm đó trở thành nền tảng tư tưởng, giáo lý hình thành nên các tông phái Phật giáo Trung Quốc; 3) Các bản dịch của La Thập không đơn thuần truyền tải giáo lý mà còn mang nhiều giá trị nổi bật khác như phong cách dịch thuật, nghệ thuật văn chương...; 4) La Thập đã đào tạo nên những vị đệ tử tài năng, điển hình nhất là Tứ Thần Tăng. Sự xuất hiện của La Thập như một ngôi sao sáng ngời không chỉ lấp đầy những thiếu sót trong quá khứ mà còn soi rọi cho con đường định hình và phát triển Phật giáo ở Trung Quốc về sau.

 

Trung Thiện

Ghi chú:

Ảnh 1: Tượng Kumārajīva trước hang động Kizil ở huyện Kuqa, Tân Cương, Trung Quốc.

Ảnh 2: Một đoạn kinh kim Cương, bản viết tay của Trương Tức Chi, dựa trên bản dịch của Kumarajiva từ tiếng Phạn sang Hán ngữ.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trí Quang biên tập (1961), Ngài La Thập, Phật Học viện Thành Phố ấn hành.

2. Nirmala Sharma (2011), Kumarajiva, Published by Niyogi Books, New Delhi, India.

3. Kenneth K.S. Ch’en (1973), Buddhism in China, Princeton University Press, USA.

4. Lữ Trừng, Lịch sử tư tưởng Phật học Trung Quốc, Thích Hạnh Bình dịch (2018), NXB.Hồng Đức, TP.HCM.

 

 

 


 

[1] Nirmala Sharma, Kumarajiva, tr.30.

[2] Trí Quang biên tập, Ngài La Thập, tr.17.

[3] Nirmala Sharma, Kumarajiva, tr.30.

[4] Nirmala Sharma, Kumarajiva, tr.30.

[5] Nirmala Sharma, Kumarajiva, tr.32.

[6] Kenneth K.S. Ch’en, Buddhism in China, tr.82.

[7] Nirmala Sharma, Kumarajiva, tr.45.

[8] Nirmala Sharma, Kumarajiva, tr.35-36.

[9] Trí Quang biên tập, Ngài La Thập, tr.38.

[10] Nirmala Sharma, Kumarajiva, tr.38.

[11] Nirmala Sharma, Kumarajiva, tr.37.

[12] Nirmala Sharma, Kumarajiva, tr.97-98.

[13] Kenneth K.S. Ch’en, Buddhism in China, tr.105.

[14] Trí Quang biên tập, Ngài La Thập, tr.39.

[15] Nirmala Sharma, Kumarajiva, tr.38.

Chia sẻ: facebooktwittergoogle
Các bài viết khác