TÌM HIỂU
“LỜI
TỰA”
TRONG DỊ BỘ TÔNG LUÂN LUẬN
Nhật Hướng
Sau khi Đức Phật diệt độ hơn 100
năm, Tăng đoàn bị phân chia thành 18 đến 20 bộ phái. Các bộ phái chủ trương
những quan điểm bất đồng, có lúc chống đối lẫn nhau.
Dị bộ tông luân luận của luận sư phái Thuyết nhất thiết hữu bộ là
tác phẩm trình bày tường tận quá trình phân chia và diễn tiến của Phật giáo
trong thời kỳ phân chia này. “Lời tựa”
mở đầu của Dị bộ tông luân luận
dù nội dung rất ngắn và mang tính chất
tổng quát, song mang nhiều ý nghĩa ẩn tàng, thúc đẩy người viết bắt tay vào
việc tìm hiểu nội dung “Lời tựa” đó thông bản Hán dịch của ngài Huyền
Trang.
Tác giả trước tác Dị bộ tông
luân luận được cho là Thế Hữu.
Nguyên bản Phạn văn của tác phẩm này vẫn chưa tìm thấy, chỉ có thể tìm hiểu
thông qua nguồn tư liệu Hán tạng từ ba dịch bản hiện có:
1. Thập bát bộ luận, tác
giả được ghi nhận là Chân Đế (Paramārtha, 499-569), nhưng qua tiến trình
truy nguồn, đối chiếu hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng Cưu-ma-la-thập
(Kumārajīva, 344-413) là tác giả của bản dịch này. Hơn thế, đó còn là tác
phẩm được xác định dịch trước hết trong ba dịch bản.
2. Bộ chấp dị luận của
Chân Đế vào thời nhà Trần.
3. Dị bộ tông luân luận
được Huyền Trang (602-664) dịch vào thời nhà Đường.
Nội dung của ba bản dịch này phần
lớn giống nhau, lấy giáo nghĩa Hữu bộ làm cơ sở để trình bày về quá trình
hình thành và phát triển cũng như những điểm dị đồng của 18 đến 20 bộ phái
Phật giáo trong khoảng thời gian từ 100 đến 300 năm sau Phật nhập diệt. Vẫn
tồn tại nhiều điểm dị biệt giữa các tác phẩm này. Tuy nhiên, giới hạn phạm
vi đề tài không đi sâu vào nội dung của bộ luận mà chỉ khảo sát phân tích
những thông tin được đề cập trong phần “Lời tựa”.
Toàn bộ nội dung “Lời tựa” như
sau:
“Sau Phật nhập
Niết-bàn,
Tròn hơn một trăm năm,
Kiến giải khác thánh
giáo,
Phát sinh điều không
lợi
Càng lúc chấp không
đồng
Bộ phái theo đó tăng.
Căn cứ kinh A-hàm,
Chỉ rõ sự cố chấp,
Để chúng tự tiêu diệt.
Đại Bồ-tát Thế Hữu,
Bậc đại giác, đại tuệ, |
Đúng là chân Tỷ-kheo
Là người theo họ Thích.
Quán sát và nghĩ suy,
Thấy rõ khắp thế gian,
Các kiến chấp phân
tranh,
Tổn hại lời Phật dạy,
Do lý thuyết các tông,
Cần xem lại lời Phật,
Lấy thánh đế nương
tựa.
Như đãi cát tìm vàng,
Lựa lấy sự chân thật.” |
Tác giả lời tựa
Điều đầu tiên cần xác định là
“Lời tựa” của Dị bộ tông luân luận trên không phải do Thế Hữu viết
vì lẽ Thế Hữu không thể tự
xưng mình là “Đại
Bồ-tát Thế Hữu”. Trong
bản dịch của ngài La Thập, tức Thập bát bộ luận, không thấy xuất hiện
câu này. Câu này chắc chắn không phải Thế Hữu tự xướng mà có nhiều khả năng
được đưa vào khi ngài
Huyền Trang dịch sang Hán văn hoặc giả
người đời sau thêm vào khi biên tập.
Thời gian Tăng-già bất đồng về
kiến giải
Thời gian phát sinh sự bất đồng
tư tưởng, “kiến giải khác thánh giáo” dẫn đến phân chia bộ phái được
Dị bộ ghi nhận là “sau Phật nhập Niết-bàn, tròn hơn một trăm năm”.
Điều này cũng được nhiều nguồn tài liệu đề cập.
Ai kiến giải khác thánh giáo? Chủ
ngữ tất nhiên chỉ cho các vị Tỷ-kheo trong Tăng đoàn của Đức Phật. Cho nên,
phải nói đầy đủ là các thành phần của Tăng-già kiến giải bất đồng về thánh
giáo, lý giải lời Phật dạy khác nhau, từ đó dẫn đến “phát sanh điều không
lợi”.
Ở đây cần làm rõ hai vấn đề.
Một là, có phải đợi đến sau Đức Phật nhập diệt hơn 100 năm Tăng đoàn mới
bắt đầu phát sinh những kiến giải bất đồng hay trước đó đã xảy ra? Hai
là, “phát sinh điều không lợi” mang ý nghĩa như thế nào?
Đa số các nhà nghiên cứu đều đồng
ý rằng năm bộ kinh Nikāya và A-hàm được xem là nguồn tư liệu tiêu biểu phản
ảnh giai đoạn Tăng-già sống trong sự hòa hợp của Phật giáo thời kỳ nguyên
thủy. Tuy nhiên, trong nguồn tư liệu này có không ít bản kinh mô tả khi Đức
Phật còn tại thế đã ẩn chứa sự bất hòa trong Tăng-già.
Trước hết có thể nói đến là
trường hợp Đề-bà-đạt-đa muốn lãnh đạo Tăng đoàn sau khi Đức Phật nhập diệt.
Yêu cầu này dĩ nhiên bị Đức Phật từ chối bởi không thể lấy quan điểm của một
cá nhân để thay thế Chánh pháp, cho nên Đề-bà-đạt-đa bất mãn và tìm cách phá
hoại Tăng đoàn. Hay kinh Kosambiya có đề cập đến các Tỷ-kheo sống bất
hòa: “Các Tỷ-kheo ở Kosambī sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh nhau,
đả thương nhau bằng những binh khí miệng lưỡi. Họ không tự thông cảm nhau,
không chấp nhận thông cảm; họ không tự hòa giải, không chấp nhận hòa giải”.
Theo kinh này, sự bất hòa giữa các Tỷ-kheo đã xuất hiện ngay khi Đức Phật
còn tại thế. Mặc dù Đức Phật khuyên can nhưng vẫn không có hiệu quả.
Một sự kiện quan trọng khác, đó
là sự phủ bác của Ca Diếp đối với quan điểm giới nhỏ không quan trọng có thể
bỏ của Đức Phật, được A Nan thuật lại trước đại hội kết tập kinh điển lần
thứ nhất. Sự phủ quyết này rõ ràng không phù hợp với tinh thần giáo dục của
Đức Phật, bởi vì Đức Phật chế giới tùy vào hoàn cảnh và đem lại sự giải
thoát khi trì giới. Khi môi trường tu tập thay đổi, đồng nghĩa một số giới
luật không còn phù hợp, không liên hệ đến đời sống phạm hạnh, không đem lại
sự an lạc giải thoát khi hành trì, nếu cố chấp giữ giới đó hẳn nhiên đi
ngược lại tinh thần trì giới của Đức Phật. Thậm chí, thái độ khư khư chấp
chặt một giới điều không đưa đến sự giải thoát còn rơi vào một trong năm
kiết sử, giới cấm thủ, mà Đức Phật dạy cần phải đoạn trừ: “Này các
Kalama, khi nào tự mình biết rõ như sau: Các pháp này là bất thiện... Các
pháp này nếu thực hiện và chấp nhận sẽ đưa đến bất hạnh khổ đau, thời này
Kalama, hãy từ bỏ chúng.”
Sự phủ quyết quan điểm “tiểu tiểu
giới khả xả” rồi đưa đến kết luận “Phật không chế không được thêm vào những
quy định mới, Phật đã chế không được bỏ” của Ca Diếp hướng Phật pháp phát
triển theo khuynh hướng trọng luật của Ca Diếp. Quan điểm đó không được đại
đa số Tăng-già chấp nhận và trở thành nguyên nhân sâu xa nảy sinh sự tranh
cải về “10 việc” của nhóm Tỷ-kheo Bạt-kỳ trong lần kết tập kinh điển lần thứ
hai.
Từ những
dẫn chứng trên cho thấy, không phải đợi đến 100 năm sau Đức Phật nhập diệt
Tăng-già mới bắt đầu phát sinh những bất đồng, kiến giải lời Phật dạy khác
nhau mà trước đó, ngay trong khi Phật còn tại thế, cũng đã xuất hiện.
“Phát sinh điều không lợi”
mang ý nghĩa gì?
Từ bất
đồng quan điểm đó dẫn đến phát sinh điều bất lợi. Điều không lợi ở đây có
thể được hiểu theo hai nghĩa.
Một là,
phát sinh điều không lợi thể hiện một Tăng-già đang ôn hòa thống nhất, sau
Phật nhập diệt hơn 100 năm phát sinh những kiến giả bất đồng, tạo nên những
lý giải khác biệt về lời Phật dạy. Từ đó, Tăng-già bị phân chia thành các bộ
phái, đây là một điều không tốt. Điều đáng nói ở đây, nếu như các luận sư
Hữu bộ xem sự phân chia bộ phái là một điều không nên xảy ra và cực lực lên
án những đối tượng có hành vi chia rẽ Tăng-già, đáng lẽ ra họ phải chung
sống hòa hợp mới đúng. Song, tình hình lại không phải như vậy. Thực tế cho
thấy, phái Hữu bộ của hệ Thượng tọa bộ liên tục trải qua 7 đến 8 lần phân
chia và phân thành 11 bộ phái hơn hẳn sự phân chia của Đại chúng bộ.
Phải chăng, ở phái Hữu bộ tồn tại những quan điểm độc đoán, cho nên sự phân
chia mới diễn ra mạnh như thế.
Hai là,
phát sinh điều không lợi mang ý nghĩa tích cực đối với sự tồn tại và phát
triển của Phật giáo. Mỗi giáo đoàn của Tăng-già sống ở mỗi địa phương khác
nhau, chứ không phải tập trung ở một trú xứ, co cụm tại một chỗ, cho nên
từng giáo đoàn chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán khác nhau. Mỗi giáo
đoàn có một cách thực hành, cách lý giải lời Phật dạy theo hoàn cảnh của
mình sao cho phù hợp với môi trường tập quán nơi mình cư trú, giáo hóa. Đây
cũng là một minh chứng biểu hiện thời kỳ Phật giáo đã phát triển, chuyển
hướng sinh hoạt, hoằng hóa phù hợp với thời đại, sống theo từng nhóm, từng
giáo đoàn, từ đó bắt đầu hình thành những quan điểm lý giải khác nhau.
Nguyên nhân phân chia bộ phái
Cuối cùng, hệ quả của việc kiến
giải khác thánh giáo đó làm cho Tăng đoàn “càng lúc chấp không đồng, bộ
phái theo đó tăng”. Bàn về nguyên nhân phân chia bộ phái, các học giả
thường đưa ra hai quan điểm liên quan đến giới luật và tư tưởng. Quan điểm
đặt trên phương diện giới luật, cho rằng sự tranh cãi về “10 việc” giới luật
xảy ra một thế kỷ sau Đức Phật diệt độ phải được xem là nguyên nhân của “căn
bản phân ly”, chia Tăng đoàn thành hai bộ phái Thượng tọa bộ và Đại chúng
bộ. Đồng thời, xem sự tranh luận về 5 việc của Đại Thiên chỉ là sự phân hóa
về sau thuộc phương diện tư tưởng.
Trong
nhiều tác phẩm và bài viết nghiên cứu Phật học chuyên sâu, thầy Thích Hạnh
Bình cho rằng nguyên nhân chính dẫn đến sự phân chia bộ phái Phật giáo là sự
tranh cãi về 5 việc của Đại Thiên không phải là 10 việc. HT.Ấn Thuận cũng
nhấn mạnh tính quan trọng của tư tưởng trong nguyên nhân phân chia bộ phái
hơn là liên quan đến giới luật.
Một điều đáng chú ý, nếu như 10
việc liên quan đến giới luật là nguyên nhân dẫn đến phân chia bộ phái thì
hẳn nhiên giới luật phải là trung tâm tranh luận của các bộ phái. Song,
trong các tác phẩm ghi chép lại sự phân phái Phật giáo hiện có như Dị bộ
tông luân luận, Đại Tỳ-bà-sa luận hay Kathavatthu, nội dung tranh
luận giữa các bộ phái chỉ là sự tranh luận về quan điểm tư tưởng mà không
thấy đề cập gì đến giới luật. Ngay cả khi đối chiếu nội dung của các bộ luật
của Bắc truyền vẫn không có nhiều sự khác biệt cho lắm.
Như vậy,
sự tranh cãi về 10 việc liên quan đến giới luật chẳng phải nguyên nhân dẫn
đến phân chia bộ phái, nhưng cũng không thể kết luận là không có sự liên
quan nào ở đây. Có nhiều khả năng chính sự bất đồng về giới luật này mà
Tăng-già Phật giáo bắt đầu rạn nứt, ngấm ngầm ẩn chứa khuynh hướng phân chia
thành hai hệ tư tưởng:
hệ phía đông thuộc Đại chúng bộ, những vị Tỷ-kheo trẻ có khuynh hướng tự do
tư tưởng và điều chỉnh để phù hợp với nếp sinh hoạt thực tế của xã hội nhân
sinh; và, hệ phía tây thuộc Thượng tọa bộ, những vị Trưởng lão bảo thủ kinh
nghĩa nguyên thủy, ủng hộ một cách hiểu nghiêm khắc hơn về giới luật. Tuy
nhiên, Tăng-già vẫn chưa chính thức công khai phân chia bộ phái cho đến khi
Đại Thiên đưa ra “5 việc”.
Phân tích câu “Căn cứ kinh
A Hàm”
Nội dung cần làm rõ kế tiếp là
nguồn tư liệu được sử dụng để xác định, loại trừ những tư tưởng, quan điểm
sai lệch được Dị bộ đề cập là “Căn cứ kinh A-hàm, chỉ rõ sự cố
chấp, để chúng tự tiêu diệt.”
A-hàm hay A-cấp-ma dịch âm của từ
Agama, tức là chỉ cho bốn bộ A-hàm của Phật giáo Bắc truyền, tương đương bốn
bộ Nikāya của Phật giáo Nam truyền. Nguyên văn câu “Căn cứ kinh A Hàm”
trong Hán dịch là “依自阿笈摩”
(Y tự A-cấp-ma). Chữ “tự”
trong câu này, một số nhà nghiên cứu giải thích là “tự mình”, “của mình”, có
nghĩa là căn cứ vào bộ A-hàm của mình làm điểm căn cứ, từ đó đả phá những
quan điểm không phù hợp. Nói cách khác, vào thời điểm này mỗi bộ phái đều có
bộ A-hàm riêng và chỉ căn cứ vào bộ A-hàm của mình chứ không căn cứ vào bộ
A-hàm của bộ phái khác. Cách lý giải này không mấy thuyết phục, bởi vì không
thể lấy kiến giải của mình làm tiêu chuẩn để giải quyết vấn đề bất đồng ý
kiến. Ở đây, nguyên tắc đúng để giải quyết bất đồng quan điểm giữa các bộ
phái là phải căn cứ cái gì đó thuộc của chung, các bên cùng chấp nhận, xem
đó là cái tiêu chuẩn để giải quyết vấn đề ý kiến bất đồng.
Theo thầy Thích Hạnh Bình, chữ
“tự” này mang ý nghĩa là “từ” chứ không phải là “của mình”, có nghĩa là căn
cứ từ A-hàm, kinh này là kinh chung của các bộ phái, lấy đó làm điểm căn cứ
chung để đả phá quan điểm không đúng. Cách giải thích này mang ý nghĩa, lúc
đầu các bộ phái còn sử dụng chung bộ A-hàm hay Nikāya, chưa kết tập thành
các bộ kinh riêng của mình. Quan điểm này được nhiều sự hậu thuẩn và phù hợp
với sự thật lịch sử. Theo kết quả nghiên cứu của học giả Charles Eliot, Tam
tạng kinh điển được truyền đến Tích Lan bằng hình thức khẩu truyền, và hơn
150 năm sau, tức vào khoảng năm 20 tr.TL, tại Tích Lan lần đầu tiên biên tập
kinh điển thành chữ viết. Walpola Rahula cũng cho rằng kinh Phật được kết
tập bằng chữ viết vào khoảng từ năm 29 đến năm 17 tr.TL dưới triều vua
Vattagamani tại Sri Lanka.
Như vậy, ở
thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, 5 bộ Nikāya và 4 bộ A-hàm được lưu truyền
dưới hình thức khẩu truyền, không phải bằng chữ viết. Sự xác định này, tác
phẩm “Nghiên cứu về 5 việc của Đại Thiên” xem đây là chứng cứ để giải
thích tại sao 100 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, Đại Thiên đưa ra năm việc
trong đó việc thứ năm, “Đạo nhân thanh cố khởi”, được giải thích
“Đạo lý này nhờ âm thanh mà có”.
Chữ “âm thanh” ám chỉ cho kinh điển được ghi nhớ bằng ký ức, truyền trao cho
nhau bằng miệng, vì thời này kinh điển vẫn chưa kết tập thành chữ viết. Đại
Thiên đưa ra vấn đề thứ năm này, bởi vì khi các vị Thượng tọa trưởng lão
chất vấn bốn việc trước, được Đại Thiên trả lời một cách thông suốt, cho nên
họ mới tiếp tục chất vấn về xuất xứ của bốn quan điểm này. Câu trả lời Đại
Thiên hẳn là: Đạo lý mà bốn việc tôi đưa ra đều dựa vào kinh A-hàm, tức kinh
điển được lưu truyền bằng cách thầy nói trò nghe, dùng ký ức để ghi nhớ.
Kết luận
Quá trình
phát triển Phật giáo là một dòng chảy tương tục, mỗi thời kỳ đều mang một sứ
mệnh quan trọng. Phật giáo muốn tồn tại bắt buộc phải thay đổi để thích nghi
với hoàn cảnh xã hội. Sau khi Đức Thế Tôn nhập diệt, đại bộ phận Tăng-già có
khuynh hướng phát triển Phật pháp ở xã hội để duy trì và xiển dương Chánh
pháp. Sự chuyển biến về đời sống du cư trong rừng núi sang định cư ở các tự
viện đòi hỏi chư Tăng phải có một số thay đổi về hình thức cũng như tư
tưởng, giới luật sao cho thích ứng với hoàn cảnh tự nhiên, xã hội, phong tục
ở từng khu vực. Từ đó tạo nên những bất đồng về tư tưởng và cách lý giải lời
Phật dạy giữa các giáo đoàn Phật giáo.
Công tác
nghiên cứu Phật học giúp chúng ta nhìn nhận, đánh giá lại các tư tưởng, sự
kiện hay nhân vật liên quan. Tuy nhiên, để công tác nghiên cứu đó có kết
quả, tư liệu và cách xử lý tư liệu đóng vai trò hết sức quan trọng. Chỉ một
lời tựa vỏn vẹn 22 câu nhưng qua quá trình phân tích cho chúng ta nhiều
thông tin quan trọng. Điều này cho thấy, công việc tiếp cận và xử lý tư liệu
luôn giữ vị trí then chốt trong công tác nghiên cứu Phật học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thích Hạnh Bình
(2016), Dịch chú và đối chiếu các bản khác nhau về Dị
bộ
tông
luân
luận,
NXB.Phương
Đông, TP.HCM.
2. Thích Hạnh Bình (2014),
Nghiên cứu về 5 việc của Đại Thiên, NXB.Phương Đông, TP.HCM.
3. Thích Hạnh Bình dịch (2020),
Nghiên cứu về các luận sư và các tác phẩm của phái Nhất thuyết hữu bộ,
NXB.Hồng Đức, TP.HCM.
4. Thích Hạnh Bình và Thích Huệ
Hải dịch (2019), Bộ phái Phật giáo và A-tỳ-đạt-ma, NXB.Hồng Đức,
TP.HCM.
5. Hirrakawa Akira, Thích Nguyên
Hiệp dịch (2018), Lịch sử Phật giáo Ấn Độ - Từ Đức Phật Thích Ca đến Đại
thừa sơ kỳ, NXB.Văn Hóa - Văn Nghệ, TP.HCM.
6. HT.Ấn
Thuận, Thích Quảng Đại dịch (2018), Lịch sử tư tưởng Phật giáo Ấn Độ,
NXB.Hồng
Đức, TP.HCM.
7. Pháp sư Thánh Nghiêm, Thích
Tâm Trí dịch (2013), Lịch sử Phật giáo Ấn Độ, NXB.Phương Đông, TP.HCM.