Vài nét về khái niệm tự lực và tha lực trong Phật giáo
VÀI NÉT VỀ KHÁI NIỆM TỰ LỰC VÀ T
VÀI NÉT VỀ KHÁI NIỆM TỰ LỰC VÀ THA LỰC TRONG PHẬT GIÁO
Thích Thiện Đức
Khái niệm tự lực và tha lực
Tự lực là chỉ cho sự nỗ lực của chính bản thân mình nhằm đạt được mục đích hay
điều gì đó. Ví dụ trong học tập, nếu ta cố gắng chăm chỉ thì có thể đạt được
thành tích tốt trong thi cử. Tha lực là chỉ cho sự tác động của yếu tố bên ngoài
đến tự thân, và tùy theo mức độ của sự tác động mà bản thân ta chịu sự ảnh hưởng
nặng hay nhẹ. Ví dụ nếu ở trong một môi trường giáo dục tốt thì tri thức, nhân
cách đạo đức… của chúng ta dễ phát triển theo chiều hướng tích cực.
Trong Phật giáo, tự lực và tha lực thường được nhắc đến. Thoạt đầu ta cứ nghĩ
đây là hai khái niệm hoàn toàn đối lập và không liên quan gì với nhau, nhưng sự
thật chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Phật giáo Nguyên thủy đề cao vai trò tự lực
Trong Phật giáo Nguyên thủy, tinh thần tự lực được thể hiện qua câu “Hãy tự mình
thắp đuốc lên mà đi”. Lời dạy này nhằm khuyến khích hàng đệ tử phải nỗ lực tu
tập, tự chuyển hóa chính mình, nương theo Chánh pháp để đạt giải thoát: “Vậy
này
Ᾱnanda,
hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ
nương tựa một điều gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm
chỗ nương tựa, chớ nương tựa một điều gì khác”.
Lời di huấn này của Đức Thế Tôn khẳng định tinh thần tự nỗ lực và tự giác ngộ.
Hàng đệ tử Phật cần phải tự mình soi sáng cho chính mình bằng cách nương tựa
Chánh pháp. Chỉ bằng việc dùng Chánh pháp để tu tập mới có thể đạt được tuệ giác,
thấy được nguyên nhân của khổ đau, đó là do nghiệp: “Này các Tỷ-kheo, các
chúng sinh là chủ của nghiệp, là những kẻ thừa tự của nghiệp, là sinh căn của
nghiệp, là bà con của nghiệp, là chỗ nương tựa của nghiệp. Phàm làm nghiệp gì,
thiện hay ác, họ là những kẻ thừa tự của nghiệp ấy”.
Tự lực và tha lực trong Phật giáo Đại thừa
Nếu Phật giáo Nguyên thủy đề cao tinh thần tự lực thì đến giai đoạn Phật giáo
Đại Thừa lại xuất hiện thêm yếu tố tha lực, tức phải nhờ sức mạnh bên ngoài trợ
duyên mới có thể đạt được giải thoát. Tịnh độ tông
là tông phái nhấn mạnh tinh thần tha lực, tức nương tựa vào hạnh nguyện độ sinh
của Đức Phật A Di Đà để được vãng sinh về quốc độ của Ngài. Trong Kinh
A Di Đà, Đức Phật dạy:
“Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đến Đức Phật A Di
Đà, rồi chấp trì danh hiệu của Đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày,
hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một
lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung, Đức Phật A Di Đà cùng hàng
Thánh chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên
đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực lạc của Đức Phật A Di Đà”.
Theo Tịnh độ tông, một người cho dù thiện hay ác, tốt hay xấu, nếu đặt niềm tin
tuyệt đối và hết lòng trì niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà thì có thể sinh về
thế giới Cực lạc. Trong kinh Diệu pháp liên hoa, phẩm Phổ môn, yếu tố tha
lực cũng được nói đến:
“Phật bảo ngài Vô Tận Ý Bồ-tát. Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức
chúng sinh chịu các sự khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ-tát này một lòng xưng danh.
Quán Thế Âm Bồ-tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát”.
Tương tự như vậy, những bản kinh Đại thừa khác như kinh Dược Sư (Mười hai
lời nguyện của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương), kinh Địa Tạng
(Nguyện lực cứu khổ địa ngục của Địa Tạng Vương Bồ-tát), kinh Phổ Hiền hạnh
nguyện (Mười hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ-tát) v.v. cũng cập đến yếu tố tha
lực.
Dung hòa yếu tố tự lực và tha lực
Về mặt tu tập giải thoát, Phật giáo Nguyên thủy nhấn mạnh yếu tố tự lực, còn
Phật giáo Đại thừa bổ sung thêm yếu tố tha lực. Tuy nhiên nếu cho rằng Phật giáo
Nguyên thủy chỉ dựa vào tự lực để đạt giải thoát còn Phật giáo Đại thừa dựa
nhiều vào tha lực thì điều này có thể không chính xác. Chúng ta biết rằng, nếu
không có bậc Đạo sư chỉ dạy thì chúng ta không thể có được phương pháp tu tập
đúng đắn. Và việc nương tựa vào những lợi dạy của Đức Phật có thể được xem là
một hình thức của nương tựa vào tha lực. Hẳn nhiên ở đây việc nương tựa vào lời
dạy của Đức Phật chỉ là phương tiện, còn việc đạt được giải thoát hay không là
do sự tu tập của mỗi người.
Cũng vậy, nếu xem việc đạt được giải thoát trong Tịnh độ tông là hoàn toàn dựa
vào tha lực thì cũng là sai lầm. Trong kinh A Di Đà có nói rằng, nếu
chúng sinh nào có lòng lành, nghe đến danh hiệu và hết lòng thọ trì danh hiệu
Ngài từ một ngày đến bảy ngày thì khi mạng chung sẽ được Đức Phật A Di Đà tiếp
dẫn về thế giới Cực lạc. Ở đây ta thấy để vãng sinh về thế giới Cực lạc, một
người phải cần đến cả yếu tố tự lực và tha lực. Bản nguyện độ tất cả chúng sinh
của Phật đó là tha lực, nhưng chúng sinh đó muốn được sinh về cõi Tịnh Độ thì
trước tiên phải có đầy đủ thiện căn
và hết lòng trì niệm danh hiệu Phật đến “Nhất tâm bất loạn”.
Tinh thần này cũng được thể hiện nơi hạnh nguyện đại bi cứu khổ của Bồ-tát Quán
Thế Âm. Nếu có vô lượng chúng sinh chịu trăm điều khổ não nghe được danh hiệu
Quán Thế Âm và hết lòng trì niệm danh hiệu thì Ngài sẽ quán sát âm thanh đó,
liền đến cứu khổ khiến cho họ được an lạc, giải thoát. Tha lực là đại nguyện của
Bồ-tát còn tự lực là sự “nhất tâm xưng danh” của chúng sinh, tức tha lực chỉ
phát sinh khi có yếu tố tự lực.
Trong Phật giáo Đại thừa, có một số tông phái chú trọng vào tự lực, chẳng hạn
như Thiền tông. Về mặt này, Thiền tông và Phật giáo Nguyên thủy khá giống nhau,
tức không ỷ lại vào yếu tố bên ngoài mà dựa vào nỗ lực tu tập của chính bản thân
để được chứng ngộ.
Nếu Đức Phật là bậc Đạo sư tự tìm thấy con đường giải thoát và tự giác ngộ cho
mình: “Như Lai, Ứng cúng, Đẳng Chánh giác chưa từng nghe pháp nhưng có thể tự
mình giác ngộ Pháp, tự thông đạt Vô thượng Bồ-đề, rồi để giác ngộ cho hàng Thanh
văn trong đời vị lai mà thuyết pháp”,
thì còn lại tất cả chúng ta đều phải nhờ vào yếu tố tha lực trong bước đường tu
tập, như phải nương vào Phật pháp, vào thầy tổ, bằng hữu v.v. Những điều đó còn
được gọi là yếu tố trợ duyên.
Sự tu tập cũng như đời sống hàng ngày của chúng ta đều không ra ngoài quy luật
nhân duyên, đều có sự ảnh hưởng và chi phối lẫn nhau. Cho nên việc tự nỗ lực tu
tập có khi chưa đủ mà còn phải cần đến những nhân duyên hỗ trợ mới có thể đạt
được mục đích.
Như vậy,
tự lực và tha lực tuy là hai khái niệm khác nhau nhưng không đối nghịch nhau, và
hai yếu tố này không thể thiếu trong tiến trình tu tập của một người con Phật.
Dù cho đặt nặng yếu tố nỗ lực tự thân thì trong bước đường tu tập ta không hẳn
hoàn toàn không nương vào tha lực. Còn nếu chỉ dựa dẫm vào tha lực mà không chịu
tu tập thì đó là mê tín, tà kiến, không đúng với tinh thần Phật pháp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam (2018), kinh Tiểu bộ, tập I, Thích Minh
Châu (dịch), NXB.Tôn Giáo, Hà Nội.
Thích Minh Châu (dịch) (2016), Kinh Pháp cú, Phẩm Phật-đà, kệ 183,
NXB.Phương Đông, Hồ Chí Minh.
Tiểu Tạng Kinh (2019), Tạp A-hàm, cuốn I, Thích Đức Thắng (dịch), Tuệ Sỹ
(hiệu chỉnh và chú thích), NXB.Hồng Đức, Hà Nội.
Tiểu tạng kinh (2019), Trung A-hàm, cuốn I, phẩm 2, kinh Tư, Tuệ
Sỹ (dịch và chú), NXB.Hồng Đức, Hà Nội.
Thích Trí Tịnh (dịch) (2012), kinh Nhật tụng, kinh A Di Đà,
NXB.Tôn Giáo, Hà Nội.
Thích Trí Tịnh (dịch) (2011), kinh Diệu pháp liên hoa, NXB.Tôn Giáo, Hà
Nội.
Kimura Taiken (2012), Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận, Thích Quảng Độ
(dịch), NXB.Tôn Giáo, Hà Nội.