Sự tiếp cận của Đạo Phật
Sự tiếp cận của Đạo Phật
Sự
tiếp
cận
của
Đạo
Phật
TN MInh Tâm biên dịch
Nhà
sử
học
và
văn
sĩ
người
Anh,
H.
G.
Wells,
có
viết:
“Khi
chúng
ta nghiên
cứu
học
hỏi
từ
những nguồn
tài liệu
Phật
giáo
Nguyên
thủy,
chúng
ta
trực
nhận
rằng
những
lời
dạy
cơ
bản
nòng
cốt
của
đức
Phật
Thích
Ca
thật
giản
dị,
súc
tích,
rõ ràng
và
kết
hợp
sít
sao
với
tư
tưởng
thời
đại.
Nền
giáo
lý
đó
siêu
việt
lên
trên
tất
cả
những
tranh
luận
để
đạt
tới
thành
một
trong
những
hệ
thống
tư
tưởng
giáo
lý minh
triết
nhất
mà
thế
giới
chưa
từng
biết
đến.”
Ngày
tôi
(tác
giả)
tham
dự
buổi
dạy
Phật
học
đầu
tiên,
vừa vào
đề
tài
học,
vị
giáo
sư
đã
nói
ngay:
“Đức
Phật
đã
dạy
chúng
đệ
tử
thế
này,
‘Các
ngươi
đừng
chấp
nhận
lời
dạy
của
Ta
chỉ
vì
tôn
kính
Ta,
mà
hãy
phân
tích,
suy
lường
với
trí
tuệ
như
người
thợ
kim
hoàn
phân
loại
chất
vàng
bằng
cách
mài
giũa,
cắt
xén,
sàng
sẩy
và
nấu
chảy
nó…’
Các
bạn
cũng
thế,
các
bạn
là
những
người
thông
minh.
Các
bạn
nên
lắng
nghe
và
suy
nghĩ
những
gì
các
bạn
sẽ
nghe
trong
khóa
học
này.
Đừng
chấp
nhận
điều
gì
một
cách
mù
quáng.”
Tôi
thoải
mái
thư
thái
hẳn
ra.
Tôi
nghĩ:
“Ồ,
khỏe
quá,
thật
tốt.
Không
một
ai
có
thể
ép
buộc
tôi
phải
tin
vào
cái
gì
hay
khai
trừ
tôi
khỏi
lớp
học
nếu
tôi
không
tin.
Tuyệt.”
Suốt
khóa
học,
chúng
tôi
được
giáo
sư
khuyến
khích
tranh
luận
góp
ý
về
nhiều
đề
tài
Phật
học.
Tôi
rất
hoan
nghênh
phương
pháp
giảng
dạy
này,
bởi
vì
nó
phù
hợp
với
khuynh
hướng
thích
phân
tích
và
khám
phá
những
vấn
đề
từ
những
góc
độ
khác
nhau
của
tôi.
Đó
chính
là
phương
pháp
của
đạo
Phật.
Trí
thông
minh
của
chúng
ta
được
khuyến
khích
và
tôn
trọng.
Không
có
bất
cứ
một
giáo
điều
nào
có
thể
o
ép
bắt
buộc
chúng
ta
phải
tin
theo
một
cách
mù
quáng
cả.
Tất
nhiên
bây
giờ
chúng
ta
có
thể
tự
do
chọn
lựa
bất
cứ
điều
gì
thích
hợp
với
chúng
ta
trong
nền
giáo
lý
này...
và
để
qua
một
bên
những
gì
chưa
phù
hợp
cho
thời
gian
sau
này
mà
không
cần
phải
phân
tích,
đắn
đo
hay
suy
tư
chọn
lựa
gì
cả.
Những
lời
dạy
của
Phật
giống
như
một
bữa
ăn
tối
tự
chọn
thật
thịnh
soạn
với
rất
nhiều
món
ăn.
Chúng
ta
có
thể
thích
món
này
và
những
người
khác
thì
chọn
món
kia,
v.v...
Không
có
ai
bắt
buộc
chúng
ta
phải
ăn
hết
mọi
thứ
và
chúng
ta
cũng
không
phải
chọn
cái
món
mà
bạn
chúng
ta
hay
người
khác
chọn.
Cũng
như
thế,
cái
đề
tài
này,
pháp
thiền
này…
trong
lời
dạy
của
đức
Phật
có
thể
phù
hợp
với
căn
cơ
trình
độ
của
chúng
ta,
trong
khi
phương
pháp
khác
lại
thích
hợp
với
bạn
chúng
ta
hơn.
Chúng
ta
nên
học
và
hành
trì
giáo
lý
phù
hợp
với
trình
độ,
khả
năng,
căn
cơ
của
chính
mình
ngay
trong
hiện
tại
này
để
phát
huy
phẩm
hạnh
bản
chất
đời
sống
chúng
ta.
Bằng
cách
đó,
chúng
ta
sẽ
dần
dần
đạt
tới
sự
hiểu
biết
và
thẩm
thấu
toàn
vẹn
những
lời
dạy
của
Ngài
mà
trước
kia
khi
mới
bắt
đầu
tu
học,
chúng
ta
cảm
thấy
không
quan
trọng
và
thật
khó
hiểu.
Phương
pháp
cởi
mở
này
có thể
thực hiện
được vì
đức Phật
đã miêu
tả,
giải
thích
kiếp nhân
sinh
nhiều
hệ
lụy
qua
chính
kinh
nghiệm
hành
trì
của
Ngài
và làm
cách
nào
để phát
triển
hoàn
thiện
phương
pháp
đó cốt
sao
để
rộng
mở tâm
hồn
và
khai
sáng
trí
tuệ.
Ngài
không
cấu tạo
ra hiện trạng
của
con
người;
Ngài
cũng
không
bày
đặt,
bịa
ra con
đường
đi đến
giác
ngộ,
giải
thoát
khổ
đau.
Ngài
đã
giảng
giải
kinh
nghiệm
hành
trì để
đạt
tới
giác
ngộ,
đã
chứng
minh biện
luận
thật thiện
xảo về
những
hoạt
động tư
tưởng
của
con
người
và đã
ứng
phó
hoán
chuyển
thế
nào
những vấn
nạn
đời thường
của
con
người
một
cách
thực tiễn
và xác
quyết.
Sự thực
chỉ
có thế
và đơn
giản
chỉ
có thế!
Giải
thích
và
miêu
tả
về
những
đau
khổ,
khó
khăn
của
đời
sống
con
người
và
nguyên
nhân
của
những
khổ
đau
đó,
đức
Phật
giảng
giải
luôn
phương
pháp
diệt
trừ
nguyên
nhân
của
khổ.
Ngài
cũng
dạy
về
tiềm
năng
lớn
mạnh
của
con
người
và
làm
cách
nào
để
phát
huy
sức
mạnh
của
tiềm
năng
đó.
Tất
cả
sẽ
tùy
thuộc
vào
chúng
ta
để
xác
minh
lời
dạy
của
Phật
qua
hệ
thống
giáo
lý
và
kinh
nghiệm
của
chính
bản
thân
chúng
ta.
Bằng
cách
đó,
niềm
tin
của
chúng
ta
mới
thành
lập
hoàn
hảo
và
ổn
định.
Đạo
Phật
không
đặt
trọng
tâm
nhiều
về
đức
Phật,
thần
thánh
hóa
Ngài
như
là
một
con
người
siêu
nhiên
hay
về
những
Thánh
đệ
tử
của
Ngài,
Tăng
đoàn
hay
giáo
pháp
và
những
thành
quả.
Đức
Phật
Thích
Ca
Mâu
Ni,
người
đã
sống
cách
đây
hơn
2.600
năm
tại
Nepal,
trước
khi
giác
ngộ
viên
mãn,
đã
từng
có
một
thời
Ngài
cũng
là
một
người
bình
thường
như
chúng
ta,
cũng
băn
khoăn
khắc
khoải
với
những
vấn
nạn
đời
thường
và
nghi
ngờ
như
chúng
ta.
Bằng
cách
thực
hành
miên
mật
phương
pháp
giải
thoát
giác
ngộ
tự
thân,
Ngài
đã
chiến
thắng
vọng
tâm,
đoạn
tận
nguyên
nhân
gây
ra
khổ
đau
và
giác
ngộ
thành
Phật,
một
đấng
Tỉnh
Thức
hoàn
toàn
viên
mãn.
Cũng
thế,
mọi
người,
mỗi
người
đều
có
khả
năng
đạt
tới
sự
giác
ngộ
trọn
vẹn,
từ
bi,
trí
tuệ
và
thiện
xảo.
Khoảng
cách
giữa
Phật
và
chúng
ta
không
phải
là
khác
biệt,
không
vói
tới
được,
không
thực
thi
được…
bởi
vì
chúng
ta
có
khả
năng
thành
Phật
cũng
như
Ngài.
Một
khi
chúng
ta
thực
hành
đúng
theo
những
gì
Phật
dạy
bằng
tất
cả
năng
lực
trí
tuệ,
ắt
nhiên
chúng
ta
sẽ
giác
ngộ,
giải
thoát
khỏi
khổ
đau.
Rất
nhiều
người
đã
đạt
tới
được
thành
tựu
đó.
Ngay
thời
Phật
còn
tại
thế,
cũng
đã
có
rất
nhiều
các
bậc
Thánh
đệ
tử
của
Ngài
đã
chứng
đạt
cụ
thể
và
lưu
dấu
lại
trong
thanh
sử
Phật
giáo.
Đức
Phật
Thích
Ca
là
đức
Phật
lịch
sử
trong
thế
giới
loài
người.
Ngài
được
quy
ngưỡng,
tôn
kính
vì
Ngài
đã
thanh
tịnh
hóa
tận
cùng
dòng
suối
vọng
tâm
đục
ngầu
tham
nhiễm
và
khai
triển
viên
mãn
phẩm
hạnh
tối
thượng.
Ngài
đã
làm
và
đã
thành
đạt
những
gì
chúng
ta
khao
khát
làm,
và
giáo
pháp
của
Ngài
đã
chỉ
cho
chúng
ta
con
đường
vượt
lên
trên
những
giới
hạn
định
mức
gây
chướng
ngại
bước
tiến
tâm
linh
và
phát
huy
toàn
bộ
khả
năng
giác
ngộ
của
mình.
Phật
đã
ban
tặng
cho
chúng
ta
trí
tuệ
siêu
việt
của
Ngài
và
tùy
vào
chúng
ta
có
đón
nhận
hay
không.
Phật
không
đòi
hỏi
chúng
ta
phải
tin
tưởng
hay
ủng
hộ,
nhưng
cũng
không
kết
án,
chỉ
trích
nếu
chúng
ta
có
quan
điểm
khác
Ngài.
Đức
Phật
khuyên
chúng
ta
phải
thực
tiễn,
xác
quyết,
kiên
định
tiến
tới
mục
tiêu
đã
vạch
ra
mà
không
bị
phân
tâm
bởi
những
tranh
luận
vô
ích.
Ngài
đã
dùng
một
ví dụ
rất
chính
xác
là
có
một
người
bị
tên
độc
bắn
trọng
thương.
Đáng
lý
phải
nhổ
mũi
tên
đó
ra
ngay
để
độc
không
ngấm
vào
cơ
thể
khiến
bị
tử
vong,
người
đàn
ông
đó
khăng
khăng
đòi
biết
danh
tính
kẻ
bắn
mình,
nghề
nghiệp
của
hắn,
tại
sao
hắn
bắn
mình,
rồi
mũi
tên
đó
làm
ở
đâu,
bằng
vật
liệu
gì,
v.v.
và
v.v...
thì
kẻ
ngu
xuẩn
đó
đã
chết
trước
khi
được
giải
đáp
hết
những
câu
hỏi
ngớ
ngẩn
đó.
Cũng
vậy,
khi
chúng
ta
bị
mắc
kẹt
vào
những
vấn
đề
tâm
sinh
lý
của
mình,
nếu
chúng
ta
cứ
đánh
lạc
đi
bằng
những
thể
hiện
tranh
luận
thông
minh
vô
ích
của
chúng
ta
về
những
đề
tài
không
chính
đáng,
không
thích
hợp…
thì
chúng
ta
thực
sự
rất
ngu
xuẩn,
vô
minh,
vì
chính
những
tranh
luận
mất
thì
giờ
đó
đã
khiến
chúng
ta
không
thể
nào
thấy
được
cái
gì
quan
trọng
để
làm
với
cuộc
đời
mình.
Để
vượt
qua
những
định
mức
hạn
hẹp
và
khai
phóng
nội
tâm,
có
một
tiến
trình
tu
tập
cơ
bản
từng
bước
từng
bước
mà
chúng
ta
nên
và
cần
học
theo.
Đầu
tiên
chúng
ta
nên
học
cách
lắng
nghe
và
đọc
kỹ
để
tìm
hiểu
một
đề
tài.
Tiếp
theo
chúng
ta
phải
biết
phản
ảnh,
tư
duy
về
đề
tài
đó.
Chúng
ta
sẽ
áp dụng
một
cách
có
hệ
thống
và
khoa
học
để
phân
tích
và
chiêm
nghiệm
đề
tài
đó
sao
cho
nó
hiệu
ứng
với
kinh
nghiệm
đời
sống
của
chúng
ta,
và
những
người
chung
quanh
chúng
ta.
Cuối
cùng,
chúng
ta
hợp
nhất
lại
sự
hiểu
biết
mới
đó
vào
trong
chúng
ta
và
biến
nó
trở
thành
một
phần
trong
con
người
chúng
ta.
Tinh
hoa
giáo
pháp
đạo
Phật
thật
giản
dị,
súc
tích
và
có
thể
áp dụng
ngay
trong
đời
sống
con
người.
Chúng
ta
nên
giúp
mọi
người
cùng
hiểu
biết
thực
hành
giáo
pháp
đó
càng
nhiều
càng
tốt,
và
nếu
không
có
ai
nghe
thì
chúng
ta
cũng
chẳng
buồn
phiền
trách
móc
gì
họ.
Đó
là
Từ
Bi
và
Trí
Tuệ.
Đó
là
tư
duy,
nhận
thức
chung,
không
có
gì
là huyền
bí
hay
ẩn
ý,
cũng
không
phi
lý
hay
có
một
giáo
điều
bắt
buộc
nào.
Tất
cả
những
lời
dạy
của
Phật
đều
rất
phù
hợp
với
chúng
ta
để
triển
khai
tâm
từ,
trí
tuệ
và
hòa
nhập
hai
đặc
tính
đó
vào
đời
sống
thường
nhật
của
chúng
ta
khi
tiếp
nhân
đãi
vật.
Sự
nhận
thức
chung
đó
không
phải
để
tranh
luận
bàn
cãi
thông
thái
suông
mà
nó
phải
‘sống’
(phải
thực
thi,
phải
áp dụng).
Giáo
lý
đạo
Phật
được
mệnh
danh
là
‘Trung
Đạo’
bởi
vì
nền
giáo
pháp
đó
đã
khai
phóng
con
người
khỏi
hai
trạng
thái
cực
đoan:
khổ
hạnh
quá
mức
và
phóng
túng
quá
mức.
Mục
đích
của
giáo
pháp
này
giúp
con
người
thư
thái,
an
hưởng
đời
sống
một
cách
minh
triết,
có
ý nghĩa…
nhưng
không
phải
là
ngủ
cho
đã
mắt,
ăn
cho
sướng
miệng,
hưởng
thụ
vật
dục,
thỏa
mãn
lòng
tham.
Chúng
ta
nên
hiểu
phải
sống
minh
triết
như
thế
nào
để
tự
giải
thoát
khỏi
những
tư
tưởng
yếm
thế,
tiêu
cực,
bi
quan…
Chúng
ta
cần
phải
hiểu
thế
nào
là
sống
tự
tại,
không
bị
ràng
buộc,
đắm
nhiễm,
tham
chấp
và
gây
khổ
đau
cho
mình,
cho
người.
Khi
tu
học
theo
đạo
Phật,
chúng
ta
nhận
định,
học
và
tự
thể
nghiệm
kết
quả
của
hạnh
phúc
an
lạc
qua
sự
hành
trì
của
bản
thân.
Chúng
ta
đã
học,
đã
áp dụng
nên
chúng
ta
cũng
đã
tự
chứng
thế
nào
là
Chân
Hạnh
Phúc,
một
hạnh
phúc
thực
sự
trọn
vẹn
ý
nghĩa.
Chúng
ta
cũng
nhận
thức
triệt
để
những
nỗ
lực
của
chính
mình
đã
làm
gì
để
đạt
tới
kết
quả
an
lạc
nội
tâm
đó.
Hạnh
phúc
hay
đau
khổ
không
đến
với
chúng
ta
một
cách
may
mắn
hay
tình
cờ,
ngẫu
nhiên
mà
cũng
không
phải
để
xoa
dịu
một
nhân
vật
siêu
nhiên
hay
thần
linh
nào
đó.
Giống
như
tất
cả
vạn
vật
trong
vũ
trụ,
hạnh
phúc
phát
sinh
từ
nhiều
nguyên
nhân
đặc
biệt.
Nếu
chúng
ta
tạo
nhân
hạnh
phúc,
kết
quả
hạnh
phúc
chắc
chắn
sẽ
đến;
ngược
lại
nếu
gây
nhân
đau
khổ
thì
hậu
quả
sẽ
là
khổ
đau.
Đó
là
hệ
thống
tiến
trình
quy
luật
Nhân
-
Quả
mà
chúng
ta
sẽ
bàn
luận
ở
những
chương
sau.
Đặc
tính
của
đạo
Phật
là
sự
giản
dị,
trong
sáng,
và
tự
nguyện.
Người
nào
sở
hữu
được
những
tính
cách
này
thì
thật
là
phi
thường.
Với
tính
giản
dị,
chúng
ta
gạt
bỏ
được
sự
đạo
đức
giả,
ích
kỷ,
và
khai
phát
được
tình
thương
vô
điều
kiện
và
lòng
từ
đó
sẽ
lớn
dần
mạnh
trong
ta.
Với
tâm
hồn
trong
sáng,
chúng
ta
đoạn
được
vô
minh
và
thay
thế
nó
bằng
cái
nhìn,
cái
biết
chân
chính,
đúng
đắn,
thực
tiễn1.
Với
lòng
tự
nguyện
tự
phát,
chúng
ta
không
còn
bị
chi
phối
ảnh
hưởng
bởi
những
ý
nghĩ,
cảm
quan
tùy
hứng
bốc
đồng
mà
thực
hành
rất
tự
nhiên
mọi
phương
cách
để
mang
đến
an
vui
hữu
ích
cho
mọi
người,
mọi
loài
trong
bất
cứ
tình
huống
nào
mà
chúng
ta
có
thể
làm
được.
Để
phát
triển
tâm
từ
và
trí
tuệ,
chúng
ta
càng
lúc
càng
tự
bằng
lòng
hơn
với
hiện
trạng
của
mình,
và
càng
nhận
chân
ra
cái
gì
thực
sự
quan
trọng
nhất
của
mình,
của
người; cho
nên
thay
vì
day
tay
mắm
miệng
chống
trả
lại
cuộc
đời
với
thái
độ
bất
mãn,
bức
xúc
vì
muốn
đòi
hỏi
nhiều
thêm,
sở
hữu
nhiều
thêm
về ngũ
dục:
tài,
sắc,
danh,
thực,
thùy
(tiền
tài,
sắc
đẹp,
danh
tiếng,
ăn
uống,
ngủ
nghỉ),
chúng
ta
sẽ
biết
chuyển
hóa
thái
độ,
tâm
tư
của
mình
để
biết
sống
tri
túc,
hỷ
lạc
ở
bất
cứ
hoàn
cảnh
nào,
trạng
huống
nào
và với
ai.
Chúng
ta
sẽ
hạnh
phúc
và
làm
cho
đời
thêm
phần ý nghĩa
hơn,
tích
cực
hơn,
vui
vẻ hơn.
Có
một
số
người
cho
rằng
đạo
Phật
bi
quan,
tiêu
cực và
sống
xa
rời
thế
tục.
Không
phải
thế
đâu,
các
bạn,
mà
hoàn
toàn
ngược
lại.
Mặc
dù
chúng
ta
biết
là
cần
phải
tránh
xa
những
nhân
duyên
khiến
chúng
ta
vướng
vào
vòng
đắm
nhiễm
uế
trược
của
trần
tục,
chúng
ta
cũng
không
chán
ngán,
yếu
đuối,
bi
lụy,
mất
định
hướng,
mà
còn
hơn
thế
nữa,
qua
sự
tư
duy
nhận
định
chuẩn
xác
của
trí
tuệ,
chúng
ta
càng
thông
thái,
tỉnh
thức
hơn
để
giúp
mình,
giúp
người
thoát
khỏi
tà
kiến
và
những
nhân
duyên
xấu
ác
khiến
con
người
bị
mê
đắm,
chấp
thủ
và
khổ
đau.
Chúng
ta
càng
quan
tâm
tới
mọi
người
hơn.
Chúng
ta
càng
thiết
thực
làm
nhiều
việc
hữu
ích,
tốt
đẹp
hơn
cho
mọi
người,
mọi
loài
chung
quanh
chúng
ta
hơn.
Ba
cái
nồi
Đức
Phật
đã
dùng
ví dụ
ba
cái
nồi
để
giải
thích
làm
sao
diệt
trừ
được
những
chướng
ngại
khi
tu
học.
Cái
nồi
thứ
nhất
là
cái
nồi
bị
úp
xuống
đất.
Chẳng
có
cái
gì
có
thể
chứa
đựng
được
bên
trong.
Đó
là
ví
dụ
như
chúng
ta
đang
đọc
kinh
sách
nhưng
đồng
thời
lại
coi
tivi.
Chúng
ta
bị
phân
tâm
đến
nỗi
không
có
gì
hoặc
có
rất
ít
những
gì
chúng
ta
đọc
được
lưu
giữ
lại
trong
tâm
trí.
Cái
nồi
thứ
hai
là
cái
nồi
bị lủng
lỗ ở
đáy.
Có
thể
có
cái
gì
bên
trong
nhưng
nó
không
cất
chứa
được
vì
nó
đã
bị
lủng
lỗ.
Chúng
ta
có
thể
đọc
kinh
sách
đó,
nhưng
khi
có
ai
hỏi
là
cái
chương
sách
đó,
chương
kinh
đó
nói
cái
gì...
chúng
ta
chẳng
thể
nhớ
nổi.
Cái
nồi
thứ
ba
thì
dơ
bẩn.
Ngay
cả
khi
chúng
ta
rót
sữa
sạch
tươi
vào
trong
nồi,
sữa
còn
đó
nhưng
đã
bị
dơ
bẩn,
không
uống
được.
Ví
dụ
này
cũng
giống
như
chúng
ta
có
thể
giữ
được
những
gì
chúng
ta
đọc,
nhưng
chúng
ta
chẳng
thể
hiểu
chuẩn
xác
đích
thực
được
ý
nghĩa
vì
chúng
đã
bị
nhiễm
bẩn
bởi
những
tư
tưởng,
định
kiến
sai
lệch
của
chúng
ta.
Thật
khó
gạt
bỏ
được
qua
một
bên
những
định
kiến
bởi
vì
có
đôi
khi
chúng
ta
cũng
không
nhận
rõ
được
tư
tưởng
của
mình.
Một
giả
thiết
nên
làm
là
chúng
ta
hãy
cố
gắng
suy
nghĩ
và
hiểu
từng
đề
mục
theo
nội
dung
của
nó,
và
không
lập
luận
lại
theo
cái
hệ
thống
tư
duy
nào
mà
chúng
ta
đã
học.
Bằng
cách
đó,
chúng
ta
sẽ
quán
sát
tiêu
đề
đó
vô
tư
hơn
với
một
tâm
trí
trong
sáng
tươi
mát.
Một
khi
chúng
ta
đã
học
hiểu
giáo
pháp
đúng
đắn,
chuẩn
mực,
rành
mạch
theo
đúng
tinh
thần
nội
dung,
ý
nghĩa
của
chân
lý,
chúng
ta
sẽ
thấy
rõ
làm
sao
giáo
lý
đạo
Phật
lại
khế
hợp
với
tâm
lý
học,
khoa
học
hay
bất
cứ
một
hệ
thống
triết
học,
tôn
giáo,
đạo
giáo
nào.
Quyển
sách
này
không
viết
bởi
một
học
giả
nào,
mà
chỉ
được
viết
bởi
một
người
muốn
chia
sẻ
suy
tư,
cảm
nhận,
kinh
nghiệm
của
mình
đến
người
khác.
Chúng
ta
không
những
chỉ
khai
triển
những
gì
Phật
dạy
mà
còn
áp dụng
thực
hành
ngay
trong
đời
sống
của
mình.
Chúng
ta
cũng
không
cần
phải
xưng
danh
là
‘đệ
tử
Phật’
trên
con
đường
tìm
chân
lý
và
hạnh
phúc,
bởi
vì
sống
hạnh
phúc
an
lạc
là
quan
điểm,
mục
tiêu
chung
của
chúng
sinh.
Mọi
người,
mọi
loài
đều
mong
cầu
được
sống
an
bình,
vui
vẻ
và
đầy
đủ.
Đó
chính
là
phương
pháp
của
đạo
Phật.