Bồ tát kinh Kim cang
bo tat kinh kim cang
BỒ-TÁT KINH KIM CANG
(tt)
Chân Hiền Tâm
Phần trước đã nói về việc hàng phục tâm. Phần này nói tiếp, nói thêm về việc an
trụ tâm.
Tống Thị Lương là con một nhà giàu ở Hà Liên.
Giàu nữ hạnh. Giỏi nữ công.
Khi được mười sáu tuổi, nhiều nhà nhờ mai mối nhưng cô một mực từ chối với lý do
“Nhân duyên của con phải nhờ Đức Phật chỉ giáo”.
Ngày nọ có một vị sư lạ vào nhà cô thuyết pháp. Người nhà cho gì sư cũng không
lấy, chỉ nằng nặc đòi xin chiếc áo lót đang phơi ngoài sân. Áo ấy của Tống Thị
Lương. Cha mẹ cho đó là việc bất nhã nên lớn tiếng đuổi đi. Cô chạy ra can ngăn,
còn vị sư thì cười rồi đi thẳng.
Sau đó cô lúc nào cũng thấy như có Đức Phật hiện bên mình, bèn xin cha mẹ cho đi
tu. Dù không muốn ông bà cũng phải chấp thuận, xây am Quan Âm bên trái núi Đại
Kim cho cô tụng niệm tu hành.
Thánh nhân độ người bằng nhiều cách mà cái nhìn của người đời khó thấu.
Hiện các tướng thuận với sở tri của người thì được người ca tụng. Hiện các tướng
không thuận với sở tri của người thì lập tức có sự phản kháng. Nhưng tâm chúng
sinh đa dạng, tướng thuận có khi không độ được mà tướng nghịch mới độ được, nên
phải dùng tướng nghịch mà độ.
Cậu bạn nhỏ của tôi, chưa vợ con, tâm nguyện của cậu là đi tu, cũng thích thiền,
nhưng dứt bỏ để vào chùa thì không có tâm dứt khoát. Bẵng một thời gian nghe tin
cậu có vợ. Rồi cậu xuất hiện… để giải bầu tâm sự.
Người phụ nữ cậu thương không được bình thường như bao người. Muốn lấy được cô,
cậu phải trả một khoản nợ khá lớn để chuộc cô ra. Lấy về, cô viện đủ lý do không
cho cậu gần, cũng không thích gặp mặt cậu. Suốt ngày cứ nhắn tin cho ai đó, hình
như người cô yêu mà không có tiền chuộc cô ra. Bỗng dưng, bỏ tiền ra rước một
cây cột về nhà mà còn chuốc phiền não vào thân. Khổ quá, cậu hỏi giờ phải làm gì
cho hết khổ. Đi tu! Ra đời đâu phải để lấy vợ mà để đi tu, không chịu tu mà cứ
lấy vợ thì có Bồ-tát xuất hiện giúp mình vào chùa còn gì! Thế là cậu đi tu. Bởi
trước, có nhà mà không ở thì có thể lang thang vui chơi từ chỗ này đến chỗ khác.
Giờ, chỉ có chốn thanh tịnh mới có thể giải nổi cái mớ lòng tong đầy ắp trong
người, nên chỉ còn cách vào chùa. Hóa thân, có khi phải phàm tục như thế mới
khiến chúng sinh quay đầu. Hình tượng nhà sư xin áo lót vẫn chưa phải là lớn
trong vấn đề độ sinh.
Luận Đại thừa khởi tín nói: “Người ấy, trong khoảng thời gian từ khi
mới phát tâm cầu đạo cho đến khi thành Phật, đều nương nơi chư Phật và các vị
Bồ-tát. Khoảng ấy, hoặc thấy, hoặc niệm, hoặc làm quyến thuộc, hoặc làm cha mẹ,
hoặc làm người thân, hoặc làm người giúp việc, hoặc làm bạn hữu, hoặc làm oan
gia, hoặc khởi tứ nhiếp…, cho đến tất cả việc làm với vô lượng duyên hạnh. Bởi
do lực huân tập đại bi phát khởi nên hay khiến chúng sinh tăng trưởng thiện căn,
nếu thấy, nếu nghe đều được lợi ích”.
Từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật là khoảng thời gian từ Thập tín đến
Thập địa rồi lên Đẳng giác và Diệu giác, năm mươi mấy giai vị nói trong kinh
Lăng nghiêm. Chưa vào Thập địa, tức chưa chứng được pháp thân, để có thể tùy
cơ ứng hiện báo hóa thân, thì sẽ được chư Phật và Bồ-tát hỗ trợ theo cách hóa
làm người thân hay oan gia v.v. giúp mình tiến tu, như trường hợp cậu bạn tôi.
Chứng nhập được pháp thân, có ý sinh thân rồi, cũng nương cách đó mà làm lợi ích
cho chúng sinh, như ba mươi hai ứng hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm.
Trong kinh Địa Tạng Bồ-tát bổn nguyện, Phẩm
Phân thân tập hội, đầu phẩm ghi: Hóa thân cùng quyến thuộc. Và được giải
thích như sau: Phân thân của Bồ-tát Địa Tạng đến từ địa ngục và các thế giới, số
phân thân này có đến trăm nghìn muôn ức chẳng thể suy, chẳng thể bàn, chẳng thể
nói, chẳng thể lường. Nhờ thần lực của Như Lai, các phân thân này hiệp với những
chúng đã được giải thoát, đồng cầm hương hoa đến cúng Phật. Chúng này thảy đều
nhờ Bồ-tát Địa Tạng giáo hóa khiến trụ nơi đạo Vô thượng Chánh giác, số cũng đến
muôn ngàn ức na-do-tha. Như vậy, phân thân chính là các hóa thân của Bồ-tát Địa
Tạng, còn chúng được giáo hóa chính là quyến thuộc của Bồ-tát.
Phân thân hay báo hóa thân là phần đặc trưng của giáo lý Đại và Nhất thừa. Chỉ
khi sống lại được với tánh Phật của mình, mới có thể sử dụng được phần báo hóa
này. Thân phàm phu cũng là hóa thân mà là hóa thân từ nghiệp hữu lậu và phiền
não chướng, sản phẩm của vô minh, không phải là diệu dụng của pháp thân. Vì bị
trói buộc bởi nghiệp phàm phu nên không thể một lúc hóa hiện ra nhiều thân làm
lợi ích chúng sinh, chỉ y thân đó mà chịu khổ vui không mấy tự tại.
Chư Phật và các Đại Bồ-tát đều nhờ vào phần báo hóa thân này mới có thể độ rộng
chúng sinh ở mười phương pháp giới. Cho nên, hàng Bồ-tát hậu sinh cũng y đây mà
học và tu để độ tận chúng sinh và thành tựu quả Phật.
Trong phần trụ tâm và hàng phục tâm này, đã phân tích để hiểu vì sao chư Bồ-tát
phải hàng phục tâm, phải điều phục chúng sinh tâm của mình. Giờ phân tích đến
phần trụ tâm.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Bồ-tát đối với pháp, nên không chỗ trụ mà hành bố thí. Đó
là không trụ sắc mà bố thí, không trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp mà bố thí. Này
Tu-bồ-đề! Bồ-tát nên như thế mà bố thí, chẳng trụ nơi tướng. Vì sao? Nếu Bồ-tát
không trụ tướng mà bố thí thì phước đức ấy không thể suy lường.
Hỏi trụ tâm thế nào? Trả lời nên không chỗ trụ mà hành bố thí.
Trụ tâm,
hiểu nôm na là đặt tâm vào đó. Làm bất cứ việc gì nếu không đặt tâm vào đó thì
việc khó thành tựu. Học mà không thể tập trung thì không học được. Viết bài mà
không đặt tâm vào đó, cũng không viết được. Trụ tâm rất cần thiết cho mọi việc
làm. Tuy vậy, tâm có tính huân tập. Tính huân tập có cả mặt lợi và hại. Lợi là
nương vào sư huân tập này, Bồ-tát có thể dùng thói quen tốt phá bỏ một thói quen
xấu. Hại vì nó đưa đến thói quen, hình thành nên tập nghiệp và tập khí, tạo ra
sự dính mắc. Dính mắc là một cách hiểu khác của chấp trước. Thứ gì thuộc tập
nghiệp thứ đó sẽ sinh chấp trước. Có chấp trước vì có tập nghiệp. Chấp trước tạo
ra dính mắc. Và vì thế, một khi nói đến chấp trước hay dính mắc là nói đến thói
quen, đến tập nghiệp và tập khí. Chính là phần Tập nói trong Tứ đế. Tập là nhân
đưa đến khổ, là Khổ nói trong Tứ đế. Nhị thừa còn phải dứt Tập mới có Niết-bàn
huống là Bồ-tát, không thể không dứt Tập mà được quả vị Vô thượng Chánh đẳng
giác. Vì thế, Bồ-tát trụ tâm mà nên không chỗ trụ. Làm việc hết mình mà không
được chấp trước hay dính mắc vào đó.
Lý do thứ hai trong việc “Trụ tâm mà nên không chỗ trụ” là tự tánh chân như vốn
vô trụ. Còn trụ vào bất cứ gì thì còn chưa thể nhập được tánh vô trụ. Tuệ
Trung Thượng Sĩ ngữ lục
ghi:
Trần Nhân Tông hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ:
- Chỉ như giữ gìn giới hạnh trong sạch không chút xao lãng thì thế nào?
Tuệ Trung cười không đáp. Trần Nhân Tông lại thỉnh cầu. Tuệ Trung nói kệ:
Giữ giới cùng nhẫn nhục
Chiêu tội chẳng chiêu phước
Muốn biết không tội phước
Chẳng giữ giới nhẫn nhục.
Nói rồi dặn nhỏ Trần Nhân Tông: “Chớ bảo cho người không ra gì biết”.
Không tội phước là chỗ không tội cũng không phước, là một dạng của Bát bất nói
trong Trung luận. Kinh Lăng-già dùng bốn từ vô, bất, phi, ly để
trả lời 108 câu hỏi của ngài Đại Huệ để diễn tả chỗ này. Như vậy, “Muốn biết
không tội phước” là muốn thấu được tánh thể vô trụ, cội nguồn chân thật nhất tâm
của tất cả pháp thì “Chẳng giữ giới cùng nhẫn nhục”. Không chấp vào tướng của
pháp thì mới có thể thấu được tánh không của vạn pháp. Không phải giữ giới cùng
nhẫn nhục là không đúng mà nói “Chẳng giữ giới cùng nhẫn nhục”. Kinh luận đều
dạy người giữ giới và nhẫn nhục. Nhưng giữ giới và nhẫn nhục mà chấp vào đó, nói
cách khác là an trụ luôn đó thì không khác kẻ đã đến bờ mà ngồi luôn ở thuyền,
hoặc muốn lên bờ mà không chịu bỏ thuyền. Vì thế, Tuệ Trung trả lời Trần Nhân
Tông: “Chẳng giữ giới cùng nhẫn nhục”, như cách Đức Phật dùng bốn từ vô, bất,
phi, ly trả lời các câu hỏi của ngài Đại Huệ. Đó là nói trong cái duyên của Trần
Nhân Tông, người đã giữ giới và nhẫn nhục không còn xao lãng, không phải là pháp
phổ quát cho toàn thể chúng sinh, nên nói “Chớ bảo cho người không ra gì biết”.
Người không ra gì là chỉ cho hạng phàm phu còn đầy tham, sân, si.
Bố thí là độ đầu trong Lục độ Ba-la-mật, cũng là chi đầu trong Tứ nhiếp pháp.
Lục độ và Tứ nhiếp pháp là hai pháp không thể thiếu trong hành trang của một vị
Bồ-tát.
Trong kinh Phật dạy bố-thí mà nên không chỗ trụ là không trụ nơi sắc mà bố thí,
không trụ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp mà bố thí.
Không trụ nơi sắc mà bố thí là khi bố thí đừng để tướng ngã, tướng nhân, tướng
chúng sinh chi phối. Không nói đến tướng thọ mạng, vì khi đã có thân tâm, thế
giới và chúng hữu tình thì tướng thọ mạng đã có tác dụng. Tướng này không tổn
hại việc lợi ích chúng sinh nếu ba tướng kia đã điều phục. Chỉ trong trường hợp
muốn kiến tánh hay thể nhập Phật quả thì tướng thọ mạng cũng phải dứt mới ngộ
nhập được.
Bố thí mà nên không chỗ trụ, không có nghĩa là không thấy tất cả tướng khi bố
thí mà là không chấp trước hay dính mắc vào các tướng có liên quan. Bởi bố thí
cho ai, bố thí cái gì thảy đều có nhân duyên. Việc bố thí này tùy thuộc khá lớn
vào phước báu của người được bố thí. Người không đủ duyên, muốn cho cũng không
cho được. Cho nên, bố thí không trụ tướng là bố thí rồi thì đừng có dính mắc vào
đó. Không dính mắc được biểu hiện qua các dạng: Không thấy hối tiếc khi đã bố
thí, lỡ khởi tâm hối tiếc thì sám hối buông bỏ. Hoặc bố thí rồi thì không nghĩ
ngợi loay hoay tới nó nữa, lỡ khởi tâm thì buông bỏ v.v.
Dạng dính mắc thô hơn là bố thí vì danh lợi, do mục đích danh lợi mà bố thí.
Hoặc bố thí để tìm cầu quả báo cõi trời người. Hoặc do thích hay thương mà bố
thí, không thích thương thì không bố thí. Hoặc do sợ hãi mà bố thí. Hoặc do ăn
ngon mà bố thí. Hoặc do được ca tụng mà bố thí. Hoặc do đắm sắc mà bố thí. Hoặc
do thân được xúc chạm thỏa mãn mà bố thí. Bố thí như thế là trụ vào tướng lục
trần mà bố thí. Bồ-tát khi hành bố thí không trụ vào các tướng như thế mà bố
thí.
Tới đây vẫn chưa xong, vì còn một câu để chúng ta chú ý là hỏi “Vì sao?”, tức vì
sao bố thí mà không nên trụ tướng? Vì “Nếu
Bồ-tát không trụ tướng mà bố thí thì phước đức ấy không thể suy lường”.
Đó là câu trả lời. Bồ-tát đã không trụ tướng bố thí mà còn nói đến việc phước
đức không thể suy lường? Vậy là còn trụ vào tướng phước đức? Không.
Kinh Kim cang nói:
- Này Tu-bồ-đề, ý ông thế nào? Có thể dùng thân tướng để thấy Như Lai chăng?
- Thưa không, bạch Thế Tôn! Không thể dùng thân tướng mà thấy được Như Lai. Vì
sao? Vì Như Lai đã nói thân tướng tức không phải thân tướng.
Phật nói với Tu-bồ-đề:
- Phàm những gì có tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng là
thấy Như Lai.
Đây là lý do chính để chư Bồ-tát bố thí, nhẫn nhục v.v. mà không trụ tướng.
Không trụ tướng vì các tướng vốn hư vọng. Hư vọng nhưng do chấp trước (trụ
tướng) mà tất cả trở thành thật như hiện nay. Không trụ tướng mà hành Bồ-tát đạo
thì dần dà sẽ nhận ra được cái hư vọng của vạn pháp. Nói chính xác, một khi tâm
không còn chấp trước hay dính mắc vào vạn pháp thì vạn pháp sẽ hiện đúng bản
chất hư vọng của chúng. Điều đó cũng có nghĩa, Bồ-tát đã trụ được chỗ vô trụ của
mình.
Nói phước đức không thể suy lường chính là nói đến loại phước đức mà kinh
Pháp bảo đàn gọi là công đức. Tổ Đạ Ma dạy: “Võ
Đế tâm tà, không biết Chánh pháp, cất chùa, độ Tăng, bố thí, thiết trai, gọi là
cầu phước. Không thể mang phước đổi thành công đức. Công đức ở trong pháp thân,
không ở tại tu phước. Kiến tánh là công, bình đẳng là đức. Niệm niệm không kẹt,
thường thấy bản tánh, diệu dụng chân thật, gọi là công đức. Trong, tâm khiêm hạ
là công. Ngoài, hạnh lễ phép là đức. Tự tánh kiến lập vạn pháp là công, tâm thể
ly niệm là đức. Không lìa tánh mình là công, ứng dụng không nhiễm là đức. Nếu
tìm công đức pháp thân, chỉ y đó mà làm là chân công đức. Nếu người tu công đức,
tâm chẳng khinh khi, thường hành cung kính khắp cả. Tâm thường khinh người, ngô
ngã không dứt thì tự mình không công. Tự tánh hư vọng không thật, là tự mình
không đức. Vì ngô ngã tự đại thường khinh tất cả…”.
Đó là lý do Như Lai nói đến phước đức không thể suy lường.
TỔNG KẾT
Xin mượn đoạn kinh Kim cang sau làm đoạn kết cho toàn bài.
Tu-bồ-đề bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Có chúng sinh nào nghe được ngôn thuyết chương cú này mà sinh
lòng tin chân thật chăng?
Phật nói với Tu-bồ-đề:
- Chớ nói như thế! Sau khi Như Lai diệt độ, khoảng 500 năm sau, có người trì
giới tu phước, đối với chương cú này có thể sinh tín tâm cho là thật. Phải biết,
người này chẳng phải ở nơi một Đức Phật, hai Đức Phật, ba bốn năm Đức Phật mà
gieo thiện căn, đã từ vô lượng ngàn vạn Phật gieo các thiện căn, nghe chương cú
này… cho đến sinh một niệm tịnh tín. Này Tu-bồ-đề, Như Lai tất biết, tất thấy
các chúng sinh đó được vô lượng phước đức như vậy. Vì sao? Vì các chúng sinh đó
không có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả, không pháp
tướng cũng không phải không có pháp tướng.
Chỉ có hiện tướng là trì giới và tu phước, nhưng nếu đối với chỗ nói này của Như
Lai có thể sinh niềm tin thì biết quá khứ đã có quá trính tu hành sâu dày. Đều
là hạng Bồ-tát nói trong kinh Kim cang.
Nguyện đem công đức này, xin chúc nguyện cho tất cả chúng sinh đều nhớ lại con
đường vô thượng của mình.