Lộ trình tu tập của một vị Bồ-tát theo Phật giáo Đại thừa
lo trinh
LỘ TRÌNH TU TẬP CỦA MỘT
VỊ BỒ TÁT THEO
PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA
Trong Phật giáo, giữa các bộ phái, ngoài những tương đồng thì vẫn có những khác
nhau về giáo thuyết
cũng như phương pháp
và lộ trình
tu tập.
Trong
khi Thượng
tọa bộ chấp nhận có bốn giai đoạn chứng đắc
Thánh
quả,
đó là
Dự
lưu
(sotapatti),
Nhất
lai
(sakadagami),
Bất
lai
(anagami),
A-la-hán
(arahantta),
thì
Phật giáo Đại
thừa
quan niệm có mười cấp độ tu chứng (Thập
địa
Bồ-tát,
Bodhisattvabhumi)
trong lộ trình
phát triển tâm linh.
Một vị Bồ-tát
cần phải lấy “Thập
độ
ba-la-mật”
để
diệt trừ “thập
chướng”,
qua đó có thể đạt
được
giải
thoát như Phật.
Bài viết này
trình bày chi tiết về lộ trình tu chứng của một vị hành giả theo Bồ-tát
thừa (Phật thừa).
1. Giai đoạn tiền
Thập địa (Bhumi)
Tiền Thập địa là giai đoạn trước khi hành giả bước vào cảnh giới Bồ-tát
sơ địa.
Nó
rất cần thiết và cũng là điều kiện để hành giả từ địa vị “phàm
phu”
bước đến địa vị của bậc
Thánh.
Điều đầu tiên là phát khởi niền tin kiên cố,
và
nhờ niền tin kiên cố ấy mà hành giả phát nguyện thọ giữ giới pháp,
nhờ
giới thanh tịnh nên hành giả ấy phát
tâm
Bồ-đề,
sau đó bước vào thực hành các
“địa”.
“Một chúng sinh
phát tín nguyện (adhimukti ) trải qua nhiều kiếp, làm rất nhiều công đức tràn
đầy như nước biển đại dương, đã được thanh
tịnh nhờ giữ Bồ-tát
giới”.
Trước địa thứ nhất gọi là “Niệm
hành
địa”
(adhimukticarya bhumi), khi lời nguyện
của
hành giả an trú vĩnh viễn trong nội tâm, vị ấy được xem có Bồ-đề
tâm,
trở thành một vị
Thánh
(sơ
Bồ-tát),
danh từ chuyên môn gọi là Bổn
tánh
hành,
được chia làm hai loại: Tánh trú và Niệm hành trú.
1.1.
Tánh trú (gotravihara)
Tự tánh thuộc về một quý tộc chúng sinh,
đầy đủ đức tính và mục đính cao đẹp.
Vị
này làm những hạnh lành một cách tự nhiên, không cần ai khuyên nhủ, với lòng từ
ái sáng suốt, đầy đủ chủng tử về Phật pháp, và không làm bất kỳ điều ác nào. Khi
ở giai đoạn này, vị ấy thường làm những việc sáng suốt, xa rời các pháp bất
thiện. Theo Thượng toạ bộ,
giai đoạn này tương đồng với tiền Dự
lưu;
vị hành giả
tập hợp
các
thiện căn
cần thiết để từ địa vị
phàm
phu
bước lên bậc
Thánh.
1.2.
Niệm hành trú (adhimukticaryavihara)
Niệm hành trú là những sự cố gắng
đầu tiên của một vị Bồ-tát phát tâm Bồ-đề. Hành giả khi làm xong bổn phận này
thì
chuẩn bị bước lên địa thứ nhất là Hoan
hỷ
địa. Hành giả ở Niệm hành trú còn hạn chế rất nhiều, như chưa vượt qua
được
nỗi sợ hãi
bị
phỉ báng,
chết, ác thú, đại chúng chỉ trích, v.v.
Với Trạch lực, cố gắng làm nhiều thiện sự lợi ích cho hữu tình chúng sinh
bằng
phát khởi lòng từ
bi.
Kinh
nói về Tiền thập địa như sau:
“…Nếu chúng sinh huân tập đầy căn lành, tu
tập các hạnh thiện, giỏi tập hợp pháp trợ đạo, cúng dường các Đức Phật, tu tập
các pháp Bạch tịnh thì được sự hộ trì của Thiện tri thức, vào được tâm sâu rộng,
tin ưa đại pháp, lòng luôn hướng về
đại
bi,
thích cầu trí tuệ của chư Phật. Chúng sinh như vậy thì mới có thể phát tâm Vô
thượng Bồ-đề, được Nhất thiết chủng trí…”
Kinh
Hoa
nghiêm
đề cập đến 50 giai vị tu tập mà hành giả cần đạt đến, bao gồm: Thập
tín,
Thập
trụ,
Thập
hạnh,
Thập
hồi
hướng
và Thập
địa.
Tất cả đều theo thứ lớp, trong đó phân chia Thập
tín
thuộc về thứ bậc Nhập
môn;
còn
Thập
trụ,
Thập
hạnh
và Thập
hồi
hướng
thuộc về thứ bậc Tam
hiền,
và Thập
địa
thuộc về thứ bậc của Bồ-tát
Thánh
nhân.
Ở
đây xin được trình bày vắn tắt
về Thập địa.
2. Những
giai đoạn tu chứng Thập
địa
Bồ-tát
2.1.
Hoan hỷ địa (pramudita
Bhumi)
Hành giả do hoàn hoàn thiện 40 giai vị đầu nên ở quả vị này Bồ-tát
đạt được sự an lạc thanh tịnh,
sau khi đã đoạn trừ kiến hoặc và đã chứng đắc
nhân
không,
pháp
không. Bồ-tát
trải qua con đường tu tập phần lớn thông qua thực hành pháp
bố
thí
ba-la-mật
để đưa tâm thoát khỏi sự sợ hãi, khiếp nhược ngay cả nếu phải hy sinh đầu, mắt,
chân, tay hay những bộ phận thân thể khác của mình, mục đích vì lợi ích
của
chúng sinh hữu tình.
Kinh dạy:
“Tâm đó lấy đại
bi
làm đầu, trí tuệ tăng lên, làm phương tiện giúp đỡ, trực tâm và thâm tâm hoàn
hảo, lượng đồng với Phật lực, quyết định trọn vẹn chúng sinh lực và Phật lực.
Hướng đến trí vô ngại, thuận theo trí tự nhiên, có thể nhận lấy tất cả Phật
pháp, dùng trí tuệ giáo hóa rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không đến tận
đời vị lai. Bồ-tát phát tâm như vậy tức thời vượt qua khỏi địa vị phàm phu, nhập
vào quả vị Bồ-tát, sinh ra trong nhà của Đức Phật, dòng họ tôn quý, không thể
chê trách hiềm nghi, vượt qua tất cả đạo thế gian, vào đạo xuất thế gian, ở
trong pháp Bồ-tát, thuộc hàng những Bồ-tát, bình đẳng vào trong chủng tánh Như
Lai ba đời, nhất định rốt ráo Vô thượng Bồ-đề. Bồ-tát trụ ở pháp như vậy thì gọi
là trụ ở địa Hoan hỷ bằng pháp bất động”.
Tâm ấy lấy đại bi làm đầu, ở đây có 9 thứ: 1)
Lớn
về tăng thượng (khổ càng vi tế thì trí càng sinh khởi phát triển), 2)
Lớn
về thâu tóm rộng khắp (cứu khổ chúng sinh theo phương tiện thiện xảo), 3)
Lớn
về sự tinh thần (luôn tạo lợi ích cho muôn loài chúng sinh với tâm từ bi phát
triển), 4)
Lớn
về vô lượng (thâu giữ vô lượng diệu lực của Như Lai), 5)
Lớn
về quyết định (quyết định thượng diệu tin nơi trí sâu xa nơi sự đối trị thù
thắng), 6)
Lớn
về tùy thuận (tùy thuận nơi chánh giác Bồ-đề),
7)
Lớn
về chánh thọ (có khả năng nhận lấy
Chánh
pháp thù thắng để chỉ dạy cho chúng sanh), 8)
Lớn
về chỗ vi diệu tột bậc (tức là thâu nhận các công đức thù thắng vi diệu), 9)
Lớn
về sự an trú cùng tận (tức là đạt được vô lượng quả yêu thích là nhân đạt đến
cảnh giới Niết-bàn).
Khi
tâm vượt qua hạng phàm phu thì bước vào quả vị Bồ-tát.
Trong
kinh nói có tám thứ để vượt qua:
“Vượt
qua nơi nhập vị, nơi nhà, nơi chủng tánh, nơi đạo, nơi thể của pháp, nơi chốn,
nơi nghiệp, nơi tất định”.
Người đạt được địa Hoan hỷ sẽ phát vô lượng Đại
nguyện,
có thể bỏ cả của cải, vợ con, những vật thế gian và xuất thế gian (bố thí
ba-la-mật)
và thành tựu mười thiện tánh:
“tín, bi, từ, xả, nhẫn chịu
khổ cực, tinh thông luận bộ, thế gian trí, khiêm nhường, tàm quý, kiên trì và
khả năng đảnh lễ Như Lai”.
2.2.
Vô cấu địa (vimala
bhumi)
Một vị Bồ-tát
sau
khi thực hành địa thứ nhất, muốn chứng đạt địa thứ hai
thì
cần phải tu tập thêm giới thanh tịnh. Kinh dạy có hai thứ thanh tịnh:
thanh tịnh phát khởi và thanh thịnh tự thể.
Thanh tịnh phát khởi
là:
“Đại
Bồ-tát đã đầy đủ Địa thứ nhất, muốn được
Địa thứ hai thì phải sinh ra mười Trực tâm. Những gì là mười? 1. Tâm chánh trực,
2. Tâm mền diệu, 3. Tâm thuận hợp, 4. Tâm chẳng phóng dật, 5. Tâm tịch diệt, 6.
Tâm chân thật, 7. Tâm chẳng xen tạp, 8. Tâm không tham tiếc, 9. Tâm thắng, 10.
Tâm lớn”.
Ở đây vì
“giới”
thanh tịnh cho nên thành tựu được
“giới
tánh”
của tâm chánh trực. Từ đó tùy theo nơi tạo tác mà có chín loại tâm chánh trực
khác nhau. Bồ-tát
khi
thanh tịnh mười thiện nghiệp
thì
nghĩ rằng mọi chúng sanh đau khổ vì không tránh được mười nghiệp bất thiện.
Thanh tịnh tự thể
được chia làm ba:
-
Giới thanh tịnh
do
xa lìa, tức là xa lìa mười đạo nghiệp bất thiện “sát sinh,
trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ…”.
Mười con đường bất thiện này đưa đến khổ lớn.
Bồ-tát lìa bỏ và dạy chúng sanh phải lìa bỏ
chúng.
-
Giới thanh tịnh
do
giữ pháp thiện.
Ở
đây Bồ-tát tu tập tất cả pháp thiện ấy, thành tựu pháp thiện ấy mà chỉ dạy cho
chúng sinh,
và Bồ-tát đã xa lìa không còn nhân điên đảo.
-
Giới thanh tịnh
do
đem lại lợi ích cho chúng sinh,
tức là giới phát triển dựa nơi tâm
đại
bi
làm
lợi ích cho chúng sinh,
gồm
có 5 thứ:
“trí, nguyện, tu hành, tích tập, tích tập quả”.
2.3.
Phát quang địa (prabhakari
bhumi)
“Những Đại Bồ-tát thanh tịnh Địa thứ hai rồi, muốn được Địa thứ ba thì phải dùng
mười thâm tâm. Những gì là mười? 1. Tâm tịnh, 2. Tâm dũng mãnh, 3. Tâm chán, 4.
Tâm ly dục, 5. Tâm không thoát, 6. Tâm bền vững, 7. Tâm minh tịnh, 8. Tâm không
đủ, 9. Tâm thắng, 10. Tâm lớn. Bồ-tát do mười tâm đó mà được vào Địa thứ ba.
Bồ-tát trụ ở sáng suốt có thể quan sát tất cả pháp hữu vi đúng như thật tướng.
Đó là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, hư hoại, chẳng lâu, chẳng thể tin tưởng,
chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng từ đời trước đến, chẳng đi về đời sau, chẳng trụ ở
hiện tại”.
Một vị Bồ-tát sau khi thành tựu địa thứ hai
thì hướng mười tâm niệm sâu xa
hơn
để đi vào địa thứ ba. Bồ-tát chứng được: sự vật là vô thường, khổ đau, sinh diệt
trong từng sát-na,
từ vô thủy đến vô chung đều bị vô minh chi phối. Bồ-tát tu tập
bốn
vô lượng tâm (từ,
bi,
hỷ,
xả),
chứng các
thắng
tri
(tương đồng với
các chứng đắc ở
Tứ
thiền,
chẳng hạn
như: “thần túc thông, thiên nhỉ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thiên
nhãn thông”.
Trong bốn nhiếp pháp,
vị này hết sức thực hành pháp “lợi
hành”;
trong mười
ba-la-mật
vị này tu hạnh “nhẫn
nhục
ba-la-mật”.
Hành giả đoạn trừ tâm tham, sân, si;
thực hành
nhẫn nhục, không trảo cử, không thích thú, không chán nản, không tham lợi những
việc mình làm, không lừa dối, không bí mật che giấu.
2.4. Diệm huệ địa (arcismati
bhumi)
“Những Đại Bồ-tát tịnh Địa thứ ba rồi, muốn được Địa thứ tư phải dùng mười pháp
môn.
Những gì là mười? 1. Quan sát chúng sinh giới,
2. Quan sát pháp giới,
3. Quan sát thế giới, 4. Quan sát hư không giới,
5. Quan sát thức giới, 6. Quan sát Dục giới, 7. Quan sát Sắc giới, 8. Quan sát
Vô sắc giới, 9. Quan sát Thắng tín giải giới, 10. Quan sát Đại tâm giới. Bồ-tát
nhờ mười pháp môn minh mà được vào Địa thứ tư”.
Khi trụ địa này vị Bồ-tát được xem là vào nhà Như Lai, thành tựu mười pháp trí
bên trong.
Kinh
dạy:
“1. Tâm chẳng thoái chuyển, 2. Ở trong Tam bảo được lòng chẳng mất, sự thanh
tịnh rốt ráo, 3. Tu tập quán sinh diệt, 4. Tu tập các pháp xưa nay chẳng sinh,
5. Thường tu tập sự thành hoại của thế gian, 6. Tu tập nghiệp nhân duyên nên có
sinh, 7. Tu tập phân biệt sự sai khác của môn sinh tử Niết-bàn, 8. Tu tập nghiệp
chúng sinh chẳng diệt, 9. Tu tập đời trước, đời sau sai biệt, 10. Tu tập hiện
tại thường tiêu diệt chẳng trụ”.
Vị Bồ-tát này thực hành bốn nhiếp pháp cố gắng tạo nhiều công đức hơn nữa, không
làm các ác hạnh, thực hành các thần túc,
“năm căn, năm lực,
bảy giác chi, tám thánh đạo”;
thực
hành
“Đồng
sự nhiếp”
trong bốn nhiếp pháp, tinh tấn nhiều hơn, phát triển sâu rộng hơn các địa
trước. Bồ-tát
thường thực hành hạnh “tinh
tấn
ba-la-mật”
mà thành tựu được đạo quả.
2.5. Cực nan thắng địa (sudurjaya
bhumi)
Khi
từ địa thứ tư lên địa thứ năm
Bồ-tát
tu tập thanh tịnh bình đẳng tâm nguyện. Kinh dạy: “Đại
Bồ-tát đã đầy đủ Địa thứ tư, muốn được Địa thứ năm thì phải dùng mười tâm bình
đẳng.Những gì là mười tâm bình đẳng?
1. Pháp Phật quá khứ, 2. Pháp Phật vị lai, 3. Pháp Phật hiện tại, 4. Giới tịnh,
5. Tâm tịnh, 6. Trừ kiến nghi hối tịnh, 7. Đạo phi đạo tịnh, 8. Hành trí kiến
tịnh, 9. Các pháp Bồ-đề phần chuyển thắng tịnh, 10. Giáo hóa chúng sinh tịnh.
Bồ-tát nhờ mười tâm bình đẳng đó mà được vào Địa thứ năm. Bồ-tát trụ ở địa Nan
thắng thì khéo tu pháp Bồ-đề, thâm tâm thanh tịnh, cầu chuyển thắng đạo thì có
thể đắc được Phật quả”.
Ở
địa này,
Bồ-tát liên tục thực hành các
trợ
pháp khác, một pháp thanh tịnh chứng đắc thì tất cả pháp cũng được chứng đắc. Bồ-tát
thực hành thấu rõ pháp Tứ
đế
qua
thiền
định
ba-la-mật,
hiểu rõ pháp hữu vi là vô ngã không có thật.
Nhờ
vào
thanh
tịnh
trí,
Bồ-tát
ở
địa này không bị hoang
mang,
làm cho mình và chúng sinh
đều được hoan hỷ. Bồ-tát ở địa vị này thành tựu do thực hành
Tứ
nhiếp
pháp
và
thiền
định
ba-la-mật.
2.6. Hiện tiền địa (abhimukhi
bhumi)
“Đại Bồ-tát đã đủ năm Địa, muốn vào Địa thứ sáu, phải dùng mười pháp bình đẳng.
Những gì là mười? 1. Do vô tánh nên tất cả pháp bình đẳng, 2. Do vô tướng nên
tất cả pháp bình đẳng, 3. Do vô sinh nên tất cả pháp bình đẳng, 4. Do vô diệt
nên tất cả pháp bình đẳng, 5. Do xưa nay thanh tịnh nên tất cả pháp bình đẳng,
6. Do không hý luận nên tất cả pháp bình đẳng, 7. Do chẳng lấy chẳng bỏ nên tất
cả pháp bình đẳng, 8. Do xa lìa nên tất cả pháp bình đẳng, 9. Do như huyễn,
mộng, bóng dáng, tiếng vang, trăng trong nước nên tất cả pháp bình đẳng, 10. Do
có không chẳng phải hai nên tất cả pháp bình đẳng. Bồ-tát do mười pháp bình đẳng
này mà được vào Địa thứ sáu”.
Địa thứ sáu này lấy “trí
tuệ
ba-la-mật”
làm pháp môn hành trì, vì nặng lòng yêu thương với tất cả chúng sinh
nên Bồ-tát nỗ lực hành trì đưa đến chứng ngộ tự tánh các pháp (không
tánh).
Chúng sinh
đau khổ là do
vô
minh, bởi
vô
minh nên có hành, từ hành phát sinh thức, câu hữu với bốn thủ uẩn từ ấy danh sắc
được sinh ra và dẫn dắt chúng sanh đến
khổ
uẩn:
“Do
tâm hữu lậu, hữu thủ nên sinh ra thân sinh tử. Nghĩa là, nghiệp chính là đất,
thức là hạt giống, vô minh che lấp, nước ái thấm nhuần, tâm ngã tưới đủ thứ các
tà kiến, khiến cho tăng trưởng sinh ra mầm danh sắc. Nhân danh sắc nên sinh ra
các căn. Các căn hợp lại nên có xúc.
Từ xúc sinh ra thọ. Do thọ nên sinh ra ái. Ái tăng trưởng nên có thủ. Thủ làm
nhân duyên nên có hữu. Từ hữu sinh ra thân năm ấm gọi là sinh. Năm ấm suy tàn
gọi là già. Năm ấm diệt gọi là chết. Do nhân duyên già chết mà có ưu bi, khổ
não, các sự khổ tụ tập. Đó là mười hai nhân duyên”.
Bồ-tát hiểu rằng chúng sinh
đau khổ là do họ tự tạo
chứ
không ai gây tạo cho
họ. Với
cái thấy đó,
Bồ-tát
biết được
tam giới đều là do “thức”
biến hiện. Ở địa này Bồ-tát đã thoát khỏi vọng tưởng về “thiền,
đối tượng của thiền, giải thoát, lực, thắng trí, phiền não và khổ đau”.
2.7. Viễn hành địa (durangama
bhumi)
Khi thành tựu các công đức trí tuệ của Bồ-tát đạo,
hành giả
bắt đầu bước vào con đường mới cao thượng hơn, tức là mười phương tiện diệu hạnh,
bao gồm:
“1. Khéo tu Không, Vô tướng, Vô nguyện mà vận dụng lòng
từ
bi, 2. Ở trong chúng sinh theo pháp bình đẳng của chư Phật mà chẳng bỏ sự cúng
dường chư Phật, 3. Thường ưa tư duy cửa không mà tu tập phước đức tư lương, 4.
Xa lìa ba cõi mà trang nghiêm cho ba đời, 5. Rốt ráo tịch diệt các lửa phiền não,
nhưng vì chúng sinh phát sinh pháp diệt lửa phiền não tham, sân, si, 6. Thuận
theo các pháp như huyễn, như mộng, như trăng trong nước chẳng hai tướng mà phát
sinh phân biệt đủ các loại phiền não và chẳng mất quả báo của nghiệp, 7. Biết
tất cả nước Phật rỗng không như hư không đều là tướng ly mà phát sinh hạnh làm
tịnh Phật quốc, 8. Biết tất cả Pháp thân Phật không có thân mà phát sinh sắc
thân ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp để tự trang nghiêm, 9. Biết âm thanh
chư Phật chẳng thể nói, tướng tịch diệt mà tùy theo tất cả phát sinh đủ chủng
loại âm thanh trang nghiêm, 10. Biết hết chư Phật, ở trong một niệm, thông đạt
cả ba đời mà biết tất cả tướng, các thứ thời, các thứ kiếp được Vô thượng Bồ-đề,
tùy theo sự tin hiểu của chúng sinh mà nói như vậy. Đây gọi là tuệ từ phương
tiện phát sinh mười diệu hạnh”.
Ở địa
này Bồ-tát thành tựu mọi
ba-la-mật,
bốn nhiếp pháp, tứ đức xứ và 37 phẩm
bồ-đề
phần, thành tựu thân, khẩu nghiệp thanh tịnh
v.v. Mọi thành tựu đó là do thực hành phương tiện thiện xảo của pháp
ba-la-mật
mà được thành tựu.
2.8. Bất động địa (acala
bhumi)
Sau khi
thành tựu bảy địa,
Bồ-tát
làm cho đạo thanh tịnh, chất chứa nhiều công đức, phát vô số đại nguyện, an trú
vào bốn gia trì lực. Bồ-tát hiểu được mọi pháp là bất sinh,
bất diệt, bất tăng, bất giảm, tự tánh không thật có, chủng thủ bổn mạt đều
giống nhau. Bồ-tát
vượt qua mọi biến kế sở chấp do tâm và thức tạo, an trú vào “Vô
sinh
pháp
nhẫn”.
Kinh viết: “Các
pháp xưa nay không sinh, không khởi, không tướng, không thành, không hoại, không
đến, không đi, không đầu, không giữa, không cuối; vào trí của Như Lai. Tất cả
tâm, ý, thức, nhớ tưởng, phân biệt không chỗ tham trước, tất cả các pháp như
tánh hư không. Đó gọi là Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn, vào Địa thứ tám.
Vào địa Bất động thì gọi là Bồ-tát thâm hạnh. Tất cả thế gian chẳng thể đo lường
được hạnh đó. Nó lìa tất cả các tướng, lìa tất cả các tưởng, tất cả tham trước”.
Vị Bồ-tát ở địa này biết được khi nào thế giới này hình thành và hủy hoại,
biết
được từng chi tiết
lớn, nhỏ của tứ đại của tất cả các loài chúng sinh
và nghiệp quả của chúng:
“Tại đạo Bồ-tát, tư duy thế lực trí tuệ của chư Phật mà biết thế giới sinh, thế
giới diệt, thế giới thành, thế giới hoại. Biết do nhân duyên nghiệp gì gom lại
nên thế giới thành, biết do nhân duyên nghiệp gì diệt nên thế giới hoại. Bồ-tát
đó biết tánh đất, nước, lửa, gió, tướng nhỏ, tướng vừa, tướng vô lượng, tướng
khác nhau, tướng vi trần nhỏ, biết tướng khác nhau của vi trần. Sự sai khác của
vi trần có trong một thế giới, Bồ-tát đều có thể biết hết. Biết bảo vật nhiều
như ngần ấy vi trần, thân chúng sinh nhiều như ngần ấy vi trần, biết sự sai biệt
về vi trần của vạn vật trong thế giới. Phân biệt chúng sinh thân lớn thân nhỏ do
bao nhiêu vi trần thành, thân địa ngục, thân ngạ quỷ, thân súc sinh do bao nhiêu
vi trần thành, thân A-tu-la, thân trời do bao nhiêu vi trần thành… Bồ-tát đều
biết rõ hết”.
Bên cạnh đó, Bồ-tát phát triển 10 tự tại (tuổi thọ, tâm trí, tài vật, nghiệp,
sinh,
giải thoát, nguyện, thần thông, pháp và trí).
Bồ-tát
ở địa này chứng được vô lượng, vô biên, vô tỷ trí tuệ. Hạnh nghiệp bao giờ cũng
trong sạch, do vậy nên gọi địa này là “Bất
động”.
Bồ-tát này không thể thoái
lui nữa và trở thành một đơn vị của nhà Như Lai, gia tộc
Đức
Phật, luôn luôn được chư Thiên, Kim Cang thần cận
hầu hạ.
2.9. Thiện tuệ địa (sadhumati
bhumi)
Sau khi thành tựu và phát triển vô lượng trí, tổng trì, thiền định, thượng trí,
hiểu biết chi li về thế giới và các vô sở úy của
chư
Đức
Phật,
Bồ-tát biết đúng đắn về pháp thiện, bất thiện, vô ký, thanh tịnh hay không thanh
tịnh, thế tục hay siêu việt, tưởng hay không tưởng, định pháp hay bất định pháp,
hữu vi hay vô vi
v.v.
Bấy giờ Bồ-tát đạt
đến địa thứ chín,
gần với ngôi vị Phật. Bồ-tát được
Tam
muội
Ly
cấu:
“Lại nữa, họ còn vào được các Tam
muội Nhập pháp giới sai biệt, Tam
muội Trang nghiêm đạo tràng, Tam
muội Vũ nhất thiết thế gian hoa quan, Tam
muội Hải tạng, Tam
muội Hải ấn, Tam
muội Hư không quản, Tam
muội Quán sát nhất thiết pháp tánh, Tam
muội Tùy nhất thiết chúng sinh tâm hành, Tam
muội Như thật tri nhất thiết pháp, Tam
muội Đắc Như Lai trí tín…
Trăm
vạn
a-tăng-kỳ
Tam
muội như vậy đều hiện ra”.
Ở
địa này Bồ-tát vẫn tu tập trên con đường tiến triển tâm linh, lấy hạnh “Lực
ba-la-mật”
hóa độ tất cả chúng sinh.
2.10. Pháp vân địa (dharmamegha
bhumi)
Khi biết rõ sự sinh
diệt của các pháp, có thể làm vô lượng công hạnh khó làm, thêm lớn vô lượng trí
huệ công đức, chứng nhập trí tuệ quảng đại của chư Phật, được trăm ngàn đại tam
muội, Bồ-tát trở thành
Đức
Như Lai đầy đủ “Nhất
thiết
trí”:
“Bồ-tát trụ ở địa Pháp vân thì biết đúng như thật. Sự tập khởi của Dục giới, Sắc
giới, Vô sắc giới, biết đúng như thật. Thế gian tánh, chúng sinh tánh, thức
tánh, hữu vi tánh, vô vi tánh, hư không tánh, pháp tánh, Niết-bàn tánh, tà kiến
chư phiền não tánh, biết đúng như thật. Sự tập khởi của các pháp thế gian thành
hoại, Thanh văn đạo, Bích
chi
Phật
đạo, Bồ-tát đạo, mười Lực, bốn Điều không sợ, mười tám pháp Bất cộng, Sắc thân,
Pháp thân của chư Phật, Nhất thiết trí, đắc Phật đạo chuyển pháp luân, thị hiện
diệt độ tập… Nói tóm lại, Bồ-tát đó biết đúng như sự thật vì tập khởi mà có tất
cả pháp sai biệt”.
Bồ-tát điêu luyện trong vô số thiền định, nhờ vậy mà một đóa sen huy hoàng to
lớn hiện ra.
Bồ-tát thấy mình ngồi trên đài sen ấy với hào quang chói sáng và nhập nhất thể
trí tri, xung
quanh có vô số Bồ-tát, các vị ở trong chín địa trước bao quanh và hướng nhìn
mình. Khi Bồ-tát ngồi trên hoa sen, hào quang từ các
Đức
Như Lai chiếu đến tấn phong vị Bồ-tát
này thành Chánh
đẳng
giác
(Samyaksambudha). Vì đầy đủ nhất thiết trí như vậy nên địa này gọi là
Quán
đảnh
địa
(Abhisekabhumi).
Kết
Luận
Vì
phát đại nguyện sâu
rộng, nguyện kết thiện duyên với hết thảy Phật pháp, tu
tập đầy đủ 37 phẩm Bồ-đề, cùng với “mười
nguyện bất khả tận”, nên Bồ-tát an trụ vào địa thứ nhất (Hoan
hỷ địa). Nhờ nghiêm trì tịnh giới, tinh
tấn hành đạo, trừ tâm
cấu uế, phát sanh “mười tâm thù thắng”,
Bồ-tát an trụ địa thứ hai (Ly cấu địa).
Nhờ nguyện chuyển tiếp tăng trưởng, thấy được minh
pháp, sự thực hành viên
mãn “mười tâm vi diệu”,
Bồ-tát an trụ vào địa thứ ba (Phát quang địa).
Do phát nguyện lực sâu
rộng, đủ công năng thể
nhập vào đạo, vận dụng nhu nhuyến “mười
loại pháp minh” và
đắc “mười chủng trí”
nên
Bồ-tát an trụ vào địa thứ tư (Diệm huệ địa).
Nhờ
tùy vào Chánh
pháp mà
thuận hành theo pháp thế gian, vận dụng nhu
nhuyến “mười tâm bình đẳng”,
Bồ-tát an trụ vào địa thứ năm (Nan thắng địa).
Nhập vào pháp môn sâu
xa, với sự vận dụng nhu nhuyến “mười pháp
bình đẳng và quán chiếu 12 nhân
duyên”, Bồ-tát an trụ vào địa thứ
sáu (Hiện tiền địa). Sinh
khởi hết thảy pháp Phật, vận dụng “tuệ phương
tiện để khởi mười diệu hạnh”,
Bồ-tát an trụ trong địa thứ bảy (Viễn
hành địa).
Bồ-tát khi
thể nhập vào
địa này
thì
có được
các trí tuệ sâu rộng, chứng
đắc đạo quả; và
nhờ năng lực thiền định sâu
xa kiên cố, trong
mỗi
niệm
đều tinh
tấn hành Thập độ ba-la-mật, Tứ
nhiếp pháp, 37 phẩm Bồ-đề, Tam
giải thoát môn, cho nên
Bồ-tát
đắc được mười pháp tự tại, khi ấy thì đệ Bát
địa (Bất động địa) tự nhiên được thành
tựu. Tới đây tâm Bồ-tát
không còn bị thoái
lui,
chỉ còn công hạnh đầy đủ hướng đến quả vị Phật, (tức thập địa). Đây là lộ
trình tu tập của một hành giả theo Đại thừa Phật giáo, đưa chúng sinh
từ địa vị phàm phu hướng đến
Phật quả giải thoát.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
4.
Pháp Xứng, Luận Đại thừa tập Bồ-tát
học,
Nguyên Hồng dịch. NXB.Phương
Đông, Tp.HCM, 2011.