Về Những Minh Họa Từ Thiền Uyển Tập Anh
ve nhung minh hoa
VỀ NHỮNG MINH HỌA TỪ
THIỀN UYỂN TẬP ANH
Tuệ Sỹ
 
Kể từ khi được Ông Trần
văn Giáp
tình cờ 
phát hiện từ đống giấy vụn của một gánh hàng vụn phế thải, sau đó được
công bố 
bởi trường Viễn đông Bác cổ,[1] Thiền 
uyển tập anh trở 
thành tư liệu cơ sở cho các khảo cứu về 
lịch sử 
Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên
cho đến 
thế kỷ 13, cũng như các 
sinh hoạt chính trị,
xã hội,
tôn giáo 
nước ta trong suốt
thời gian 
Bắc thuộc. Công trình 
của ông Trần Văn Giáp
dựa trên 
tập Sử Thiền này được 
thực hiện khá 
công phu, nhưng do thiếu nhiều tư 
liệu tham khảo,
đối chiếu 
để xử lý văn bản, do đó ông đã không 
tránh khỏi một số
sai lầm. 
Những sai lầm 
ấy được lặp lại trong hầu hết các quyển sử 
Phật giáo Việt Nam
tiếp theo 
sau ông.
Trong năm 1973, Lê Mạnh Thát trong khi đi sưu khảo 
các tự viện 
ở miền Nam đã phát hiện thêm các dị bản của Thiền 
uyển tập anh.[2] Y 
cứ trên các phát hiện mới, công tác xử lý văn bản được
thực hiện 
với rất nhiều tư liệu 
liên hệ trong nền 
văn hiến đồ sộ của
Phật giáo Trung quốc, 
cũng như trong kho tàng 
lịch sử 
Việt Nam, từ
dã sử 
đến chính sử, 
những truyền kỳ. Một bản dịch 
tương đối hoàn chỉnh của Thiền 
uyển tập anh được 
công bố, 
cung cấp nhiều dữ liệu quan trọng khả dĩ 
bổ sung, và đồng thời
cải chính, 
những điều được ghi chép bởi các 
chính sử của
Việt Nam 
mà các tác giả 
của chúng phần lớn dựa 
trên những thông tin đầy 
thành kiến và
xuyên tạc 
của sử liệu Trung quốc 
đối với sự hình thành 
ý thức dân tộc cũng như sự phát triển chính trị
xã hội 
của nước ta. Bản dịch san định do Lê Mạnh Thát 
thực hiện này nhanh chóng
trở thành 
văn bản cơ sở cho nhiều khảo cứu 
lịch sử 
theo sau nó. Một bản dịch Anh ngữ cũng 
đã được thực hiện 
bởi Cuong Tu Nguyên, Zen in Medieval Vietnam. A Study and translation of the
Thiền Uyển Tập 
Anh, xuất bản năm 1997, bởi Ban
tu thư 
Viện Đại học 
Hawaii. Công trình
nghiên cứu 
và dịch thuật này cũng 
thường xuyên
tham chiếu 
bản dịch của Lê Mạnh Thát, như 
nhận xét của Giáo sư Philippe Langlet, 
trong phần thư mục của bản dịch Pháp mà 
chúng ta đang được
giới thiệu 
hôm nay.[3]
Thiền uyển tập anh theo thể 
loại là một tác phẩm 
thiền sử. Về hình thức, 
nó tương tợ cách viết Cảnh 
đức Truyền đăng lục của
Đạo Nguyên 
(Tống, 1004). Thế nhưng, Truyền 
đăng lục của 
Đạo Nguyên
thuần túy 
là một thiền sử, ký tải sự phát triển của 
Thiền tông từ khởi thủy của
Phật giáo; 
trong khi đó Thiền 
uyển tập anh ngoài sự ký tải các
truyền thừa 
và phát triển các dòng thiền 
Việt Nam, nó còn phản ánh khá rõ nét bối 
cảnh xã hội
Việt Nam 
mà trường độ thời gian 
kéo dài trên dưới mười thế kỷ. 
Bài kệ 
thị tịch của
Khuông Việt 
(930-1011) sau đây có thể cho 
chúng ta thấy khá rõ nét về điều này. 
Trước khi chết, Sư 
truyền kệ lại cho 
Đa Bảo rằng:
Mộc 
trung nguyên hữu hỏa,
Hữu hỏa hỏa hoàn sanh.
Nhược vị mộc vô hỏa,
Toản toại hà do manh.[4]
Bản dịch Pháp của Philippe Langlet:
A l’origine, le feu est dans le bois,
Le feu originel renaît sans cesse.
S’il n’y a pas de feu dans le bois,
Comment pourrait-on en faire jaillir en le frottant?
Rõ ràng đây là một bài thơ ngắn mang
ẩn dụ 
siêu hình. Nhưng nếu 
chúng ta nhìn nó từ 
vị trí 
lịch sử của
Khuông Việt 
trong liên hệ 
với các thế hệ
đi trước 
kể từ Định 
Không trưởng lão 
(730-808); với các 
Thiền sư 
đồng thời
như Pháp 
Thuận (925-990), cũng như 
thế hệ 
tiếp nối 
theo sau là
Vạn Hạnh 
(?-1025), ngoài lớp vỏ 
tư duy siêu hình, bài thơ cho thấy sự
tiếp nối 
dòng chảy liên tục 
và trưởng thành 
của ý thức 
dân tộc và một Nhà nước 
tự chủ.[5] Nó mang nội dung gần như đồng 
nhất với các dự ngôn 
hay sấm ký của Pháp 
Thuận và 
Vạn Hạnh về sự
xuất hiện 
của một nhân vật mà, qua 
dự ngôn của
Pháp Thuận,
Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh.[6]
Theo đó, một thời 
thịnh trị sẽ đến với đất nước sau nhiều 
thế kỷ bị đô hộ và nô dịch.
Trong phần 
tiểu sử 
tác giả, Philippe Langlet không
bỏ sót 
một chi tiết 
trong cuộc đời 
của Khuông Việt, 
mặc dù theo một cách nhìn đó chỉ là một 
câu chuyện
hoang đường 
có vẻ không giúp gì cho sự 
lãnh hội bài thơ được dẫn dịch của Giáo 
sư Philippe Langlet, cũng như minh họa của Dominique De Miscault. Thiền 
uyển tập anh chép, có lần 
Khuông Việt
chiêm bao 
thấy Tỳ-sa-môn Thiên 
vương (Vaiśravaṇa) 
xuất hiện và tự
giới thiệu
sứ mạng 
của mình rằng được 
Thiên đế (Śakra devendra) sai đến để
bảo vệ 
quốc giới ngõ hầu khiến cho 
Phật pháp được
thịnh hành. 
Sáng hôm sau, do theo 
giấc mộng, Sư vào núi tìm và thấy một cây to.
Từ cây bông gạo mà 
Trưởng lão La Quý (852-936) trồng trước 
chùa Châu minh,[7] qua cây 
cổ thụ của
Khuông Việt 
vừa đề cập, cho đến 
cây bông gạo của Sư 
Vạn Hạnh bị sét đánh,[8] nó là chuỗi
liên tục
dự ngôn 
về sự xuất hiện 
của Lý Thái Tổ.
Sự kiện 
đó hoặc là sự thật
lịch sử, 
hay chỉ là hư cấu của ai đó muốn 
minh giải một
biến cố
xã hội 
hay một tín điều
tôn giáo, 
thế nhưng ảnh hưởng
quần chúng 
của nó vẫn có 
thể được tìm thấy 
rõ nét không chỉ trong Thiền 
uyển tập anh, mà còn trong các truyền kỳ và ký tải của các sử 
quan triều đình.
Chúng ta 
trở lại bài thơ của
Khuông Việt 
với minh họa của De Miscault.
Mộc sinh hỏa, à l’origine, le feu est dans le 
bois, nguyên thủy, 
lửa vốn ẩn tàng trong gỗ. Ngọn lửa ấy vốn 
hiền hòa, hài hòa trong nguyên lý
ngũ hành 
sanh khắc; nhưng khi nó bừng cháy để làm nên 
lịch sử 
văn minh 
nhân loại, thì nó cũng có cơ
trở thành 
thảm họa. Qua ống kính của nghệ sĩ tạo hình, Dominique De Miscault, ngọn lửa ấy 
không bốc thẳng lên theo chiều thuận lý của Dịch lý phương Đông, mà nó quằn quại 
trong từng sớ gỗ dưới một góc nhìn minh họa; nó chợt được thấy như bùng cháy từ
hỏa ngục, 
từ một mùa hỏa ngục 
của Rimbaud: Une Saison en Enfer. Nó bốc cháy từ
tổ tiên 
người Gaulois, thiêu rụi những đồng cỏ, lột da 
dã thú, rồi lần bước
lịch sử
theo dấu 
chân của đoàn quân viễn chinh qua những ngã đường của châu Âu: J’ai de mes 
ancêtres gaulois… Les Gaulois étaient les écorcheurs de bêtes, les 
brûleurs d’herbes les plus ineptes de leur temps…[9]
Tuy 
dấu chân của Rimbaud
tiếp nối
tổ tiên 
Gaulois lần bước xuống 
tận châu Phi chứ không lần về phương Đông châu Á, nhưng người
thưởng ngoạn
ngôn ngữ 
và minh họa của các 
tác giả Pháp, 
từ di ngôn, mà cũng là
dự ngôn, 
của Khuông Việt 
trước khi chết, muốn nhìn ngắm nó từ một dòng chảy
thuần khiết 
trong nền văn học 
Pháp qua hình thái biểu hiện nhức nhối của 
ngôn ngữ đang nói lên nỗi niềm khổ lụy
hiện sinh. 
Đó cũng là góc nhìn mà 
chúng tôi mượn tạm của nhà thơ Bùi Giáng 
trong một bức thư gởi René Char, những dòng chữ được viết từ bão tố chiến tranh 
đang tàn phá một đất nước, 
sát hại một dân tộc: Nous pensons … 
à vous, Monsieur René Char, et aussi à un courant discernable de pureté dans la 
litterature française … à travers l’expression déchirante du malheur, oui, nous 
pensons à tout cela, en un temps où l’ouragan s’abat sur notre pays et meurtrit 
notre peuple.[10]
Người 
thưởng ngoạn như vậy có thể đang
cố ý 
chọn một điểm đứng và một thời điểm để nhìn không theo cùng một hướng của nhà 
nghệ sỹ tạo hình, nhưng trong 
không gian và từ
thể tính 
của tồn tại 
thì ưu tư 
khắc khoải về lẽ sống
nhân sinh 
và chiêm nghiệm 
những điều kỳ diệu 
trong sự vận hành 
của thế giới 
vẫn âm vang một sự đồng cảm, mà 
chúng ta đọc thấy trong phần
giới thiệu 
bởi De Miscault: Le mélange d’angoisse et d’admiration devant le mystère du 
monde a été vécu par toutes les civilisations… Nous pensons en trouver un 
example dans les écrits des moines bouddhistes, notamment vietnamiens sous la 
dynastie des Lý.[11]
Các 
tác giả của Un livre des moines 
Bouddhistes đang tìm vào các thơ văn của các
Thiền sư 
đời Lý; không phải bằng những tư biện 
triết học, không phải bằng những
tư duy 
siêu hình, mà bằng 
ngôn ngữ 
hình ảnh,
tìm kiếm 
và chìm lắng 
trong một thế 
giới tĩnh lặng, vô 
ngôn, ở đó 
thực tại 
tối hậu là khoảng
chân không
thăm thẳm: la 
vacuité fondamentale de toute chose et même de l’ultime réalité.[12]
Thực tại 
tối hậu là gì? Qu’est-ce que c’est? Đó 
là một câu hỏi rất thông thường trong giao tiếp 
hằng ngày; nhưng lại là câu hỏi muốn vén 
bức màn kỳ ảo của thời 
gian để nhìn sâu vào tính thể 
tồn tại. Vậy, yếu tính của
tồn tại, 
của cái đang được ném ra đó, là cái gì? 
Thiền sư 
Ngộ Ấn (1020-1088) nói: Diệu tính
hư vô 
bất khả phan. Yếu tính ấy, cái l’essence de l’être ấy, là cái 
trống không mà nhận 
thức không thể nắm bắt, mặc dù 
bản chất của
ý thức 
là luôn luôn vươn đến nắm bắt đối tượng. Ở đây, Philippe Langlet không phiên 
giải diệu tính trong bài thơ của 
Ngộ Ấn như là yếu tính của
tồn tại, 
mà hiểu nó là bản chất 
hay tự tính 
huyền nhiệm:
La mystérieuse nature du vide est 
inaccessible,
…
La mystérieuse nature đó có thể một
thiên nhiên
kỳ diệu, 
được sáng tạo
từ huyền 
nhiệm của Thượng đế; 
mà Thượng đế 
thì siêu việt 
mọi tạo vật: Dieu transcende toute créature (Catéchisme). Vậy, câu hỏi 
về thân phận
con người 
được nêu lên từ tư duy
chiêm nghiệm 
về bản tính 
huyền nhiệm này, như De Miscault đã dẫn từ Pascal: Qu’est-ce que l’homme 
dans la nature? Ta là ai, 
con người là cái gì, trong
thế giới 
này, trong bản tính 
huyền nhiệm của tồn 
tại này? Câu hỏi 
xuất phát từ hai hướng Đông Tây bất 
đồng, như trong cảm 
hứng để thử 
trả lời, ta có thể
tìm thấy 
sự đồng cảm giữa Ngộ 
Ấn và Pascal. Với 
Ngộ Ấn, 
con người không là gì cả, vì
tự tính 
của nó không là gì cả. 
Hình ảnh của cái không là gì cả ấy là 
đóa hoa sen 
còn thắm đượm sương mai trong lò lửa đang rực cháy. Trống không,
vô nghĩa, 
nhưng ngời sáng: tồn 
tại chỉ có thể 
chiêm nghiệm trong mối quan hệ
biện chứng 
được kết cấu bằng những 
mâu thuẫn nội tại.
 
 
Trả lời của Pascal cũng âm vang
đồng điệu. 
Ta không là gì cả. Tất cả mọi tạo vật đều từ 
hư vô mà ra,
tồn tại
bao la 
ngang tầm vô hạn: Toutes choses sont sorties du néant et portées jusqu’à 
l’infini. Con 
người là 
tồn tại 
vô thể, là
hư vô 
nếu được nhìn từ vô hạn. Trong vô hạn, nó không là gì cả. Trong cái không là gì 
cả, nó là tất cả. Con 
người là một 
trung gian giữa không là gì cả và là tất 
cả: Un néant à l’égard de l’infini, un tout à l’égard du néant, un milieu 
entre rien et tout. 
Đồng điệu hay đồng cảm này cũng được 
chia sẻ bởi một Thiền 
sư khác: Từ 
Đạo Hạnh (?- 1117), được chuyển tải qua
ngôn ngữ 
Pháp:
Existence. Le moindre grain de poussière 
existe.
Vide. Tout est vide.
Existence et vide, c’est comme la lune dans l’eau.
Ne vous attachez pas à l’existence ni à l’idée du vide.
Tồn tại và
không tồn tại, 
có và không, hữu thể 
và hư vô, 
chứa vô biên 
trong hạt cát, 
nắm vô hạn giữa lòng tay; 
thể tính 
hư vô bừng sáng thành
hoa sen 
trong biển lửa; đó là những 
tư duy và
phát biểu 
mang tính phản lý; 
đồng thời đó cũng là sử tính của một dân tộc được
hiện tượng 
hóa trong chuỗi mâu 
thuẫn 
biện chứng của 
hiện thực
lịch sử.
Ở đây, sử gia và nhà nghệ sỹ tạo hình, bằng
ngôn ngữ 
của mâu thuẫn
biện chứng 
và bằng hình ảnh 
được thấy thường nhật để 
phản chiếu
sinh hoạt 
tầm thường mà luôn luôn 
biến động của
đời sống 
thường nhật. Những cảm 
hứng từ các 
hình ảnh này trong nhiều
trường hợp 
dẫn người thưởng ngoạn 
đến những ý tưởng 
đầy bất ngờ, vừa thống nhất vừa 
xung đột giữa những cái nhìn mà ta quen 
nói là khác biệt Đông Tây, khác biệt 
thời đại. Một
trường hợp 
có thể dẫn ra ở đây là bài thơ của 
Không Lộ, và
hình ảnh 
minh họa. Trong bài thơ này, 
ngôn ngữ Pháp đi rất gần với tiết nhịp 
của âm vận tiếng Việt, mặc dù dịch giả không cố 
diễn dịch nó theo tiết nhịp thơ của
ngôn ngữ 
Pháp:
Sur dix mille lieues le fleuve limpide, sur 
dix mille lieues le ciel.
Un village avec des mûriers, un village avec des fumées.
Le vieux pêcheur s’est endormi, personne ne l’appelle.
Passé midi il se réveille, la neige a rempli sa barque.
Toàn thể bài dịch Pháp còn
phảng phất 
phong vận bình dị 
của đồng quê Việt Nam 
cũng như sinh hoạt 
của nó. Trong khi đó, trong nguyên văn Hán của bài thơ, do âm luật nghiêm túc 
của Đường thi, mọi thứ trở nên trang trọng. Ngư ông trong nguyên văn Hán mang 
phong thái tiêu dao 
của một ẩn sĩ. 
Ngư ông trong bản dịch Pháp là một người 
dân quê trong cảnh đồng quê bận rộn 
nhưng an nhàn. 
Ngư ông trong minh họa mang dáng vẻ của một 
con người sinh họat trong
xã hội
văn minh
công nghiệp 
đến từ phương Tây, đang 
vẫy tay chào đón hoặc
tiễn đưa, 
đứng giữa lòng sông trong lớp bụi mờ ẩn 
hiện hình ảnh được minh họa từ câu thơ 
của Ngộ Ấn: 
Liên phát lô trung thấp vị can, La fleur de lotus eclose dans un four est 
éternellement fraîche. Minh họa như thế là nối liền
quá khứ 
với hiện tại, 
một quá khứ
lịch sử 
đầy bi kịch 
đã hay đang đi vào
quên lãng, 
với hiện tại 
của một xã hội 
đang biến chuyển 
để chào đón hoàng hôn
rực rỡ 
của trời Tây, La Crépuscule de l’Occident  (Spengler).
Hình ảnh ngư ông trong minh họa
tình cờ 
khiến chúng ta 
nhớ lại bóng dáng 
của Bùi Giáng đang đi giữa phố phường hoa lệ Saigon mà như đi giữa
hoang tàn 
sa mạc, điên loạn trong 
cơn điên loạn siêu hình của Nietzsche. 
Thế rồi, trong phút 
tỉnh táo, nhà thơ của 
chúng ta bất chợt thốt lên những lời 
trầm thống, vang vọng 
ưu tư khoắc khoải lan dài 
trong lịch sử. Đó là những lời mà Bùi 
Giáng đã viết cho René Char: Voici la réponse que vous en donne le Viet nam: 
Weil (Simone Weil), c’est une de ces âmes assez rares qui sont venues en ce 
monde pour un temps bien bref, qui s’en sont allées brusquement, laissant 
derrière elles de regrets; des âmes qui se sont penchées sur la souffrance de 
siècles, qui nous ont apporté des promesses de fontaines sonores, qui nous ont 
parlé des peuples lointains et de leur pulsation blessée, qui ont posé le 
problème des déshérités de l’Asie.
Hình ảnh một Simone Weil nhỏ thó,
gầy mòn, 
một tâm hồn 
nhạy bén trước khốn cùng của những 
con người khốn khổ, một
ý chí 
ngoan cường, bướng bỉnh của một cô giáo trẻ; 
hình ảnh ấy không chỉ là
biểu tượng 
cho sự trỗi dậy của tầng lớp 
yếu ớt trong bối cảnh
xã hội 
hùng cường, phú thịnh của phương Tây; 
hình ảnh ấy một thời đã làm
xao xuyến
tuổi trẻ
Việt Nam 
lớn lên giữa khói lửa, đang lắng nghe âm vang từ nhịp đập của trái tim mang
chứng tích 
đầy thương tích của 
lịch sử 
văn minh, âm vang từ những suối nguồn xa xôi mang những
ước nguyện
nhân bản 
đến cho các dân tộc, đặt 
vấn đề cho những
con người 
đang bị bứt lìa truyền 
thống.
Khi một 
tâm hồn bị bứt lìa
truyền thống, 
nó như một con thuyền 
lơ lửng trôi xuôi theo định hướng mù khơi ngoài phương trời
vô định; 
trôi ngang qua bà mẹ đang đứng sững quay lưng 
hờ hững với con thuyền, đang dõi mắt tìm 
vào bến bờ của quá khứ, 
của cây đa 
bến cũ, con đò năm xưa mà nay đã vắng, đã mất. Thế nhưng, trong
thể tính 
uyên nguyên của dòng sông 
lịch sử, mảnh trăng treo từ trên đỉnh 
Lăng-già đang tỏa ánh sáng trầm tịch 
trong khoảng
không vô 
tận, cho con thuyền định hướng ra biển khơi:
…
Dans le grand calme du clair de lune sur la 
montagne de Lanka,
Devant le vide pour un bateau qui s’avance en pleine mer,
…
Minh họa này từ bài thơ của
Tăng thống
Huệ Sinh 
(?- 1076), thế hệ
tiếp nối
Thiền sư Vạn Hạnh, 
vốn là minh giải
triết học 
cho vua Lý Thái Tông, 
ngẫu nhiên 
phản chiếu tâm tình
lịch sử 
trải dài suốt gần mười thế kỷ, qua những minh họa mà
chúng ta 
biết được cảm hứng 
một phần từ tín điều 
Catéchisme như được nói rõ trong bài 
giới thiệu do Dominique De Miscault.
Suy nghĩ từ những dòng
ngôn ngữ 
Pháp chuyển tải những 
tư duy uẩn khúc của 
tư tưởng, như những mặt gương khi mờ khi 
tỏ, phản chiếu 
mấy đoạn đường quanh 
co khi thăng khi trầm của 
lịch sử; chiêm quan những
hình ảnh 
minh họa cấu hình bằng 
phương tiện kỹ thuật
hiện đại 
mà thể tính 
là những nguyên lý, những 
công thức cứng đọng, khô cằn của
lý trí 
hướng ngoại và chinh 
phục; người đọc và người xem để cho
tâm hồn 
mình di động 
bất thường giữa những 
cảm hứng 
ngẫu nhiên, hoặc trần thuật tiên cảm; từ 
đó quay nhìn lại những đoạn 
lịch sử đã qua, trải dài suốt trên hoặc 
dưới mười thế kỷ; những lộ trình riêng biệt, với những định hướng và
định mệnh 
khác biệt, ở hai phương trời 
cách biệt; những
con đường
lịch sử 
ấy có khi được thấy song song, có khi đối nghịch dẫn đến sông núi ngửa nghiêng,
đảo lộn,
áp bức,
đọa đày, 
chiến tranh, giết chóc; có khi hòa quyện trong nỗi
đau thương 
chung của thân phận
con người. 
Nhưng dù ở bên này hải 
đảo, hay bên kia 
đại dương, mà trong cõi
tịch mặc
vô ngôn, 
trong thế giới
mặc nhiên 
vô hạn, với những điều nói được và không nói được, những
hình ảnh 
ký họa được hay không ký họa được, giữa người và người, giữa các dân tộc dị 
biệt, trong các truyền 
thống và 
văn minh tương phản, vẫn còn ẩn tàng 
trong tận đáy sâu, trong rung cảm 
đồng điệu của những trái tim
nhân hậu.
Chúng tôi 
muốn nói, từ những chuyển tải bằng 
ngôn ngữ 
Pháp thực hiện bởi Giáo sư Philippe 
Langlet, từ những minh họa bằng kỹ xảo của 
lý trí tư biện phương Tây bởi nghệ sĩ 
tạo hình Dominique De Miscault, 
chúng ta thử tìm lại dấu vết tâm tư của
tiền nhân, 
thử nhìn lại chính mình từ đôi mắt của những người khác, để tự khẳng định chính 
mình trong những cơn lốc 
thời đại.
Xin 
cảm ơn các
tác giả 
đã đến với chúng ta 
trong đồng cảm nhân 
loại, cùng chia sẻ những 
giá trị phổ quát giữa những
truyền thống 
dị biệt.
 
_______________________________________
[1] Trần 
Văn Giáp, Le Bouddhisme en Annam, 
dès origines jusqu’au XIIIe siècle. BEFEO XXXII, 1932. Bản dịch Việt, Tuệ 
Sỹ: Phật giáo Việt 
Nam, từ khởi nguyên đến thế kỷ XIII,
Tu thư 
Viện Đại học
Vạn Hạnh, 
Saigon, 1968.
[2] Lê Mạnh Thát, Tổng tập 
Văn học
Phật giáo Việt 
Nam, tập 3, Nxb TP Hồ 
Chí Minh, 2002.
[3] Philippe Langlet, Un livre des moines 
Bouddhistes; Les Editions Aquilon, Paris, 2005.
[4] Lê Mạnh Thát, Tổng tập 3, tr. 203: 
Trong cây vốn có lửa/ Có lửa, lửa mới bừng/ Nếu bảo cây không lửa/ Cọ xát do đâu 
bùng.
[5] Tuệ Sỹ, Những cuộc 
vận động 
của Phật giáo 
Việt Nam dưới 
triều đại nhà Đường, Tạp 
chí Tư Tưởng, 
Viện Đại học
Vạn Hạnh, 
1972.
[6] Lê Mạnh Thát, Lịch 
sử 
Phật giáo Việt Nam, tập 2, tr. 
498; nxb TP Hồ Chí 
Minh, 2001.
[7] Lê Mạnh Thát, Tổng tập 3, tr. 284: 
“(La Quý di chúc) Ở chùa Châu Minh ta có trồng cây bông gạo để trấn chỗ, biết
đời sau 
ắt có kẻ hưng vương ra đời…”
[8] Đại 
Việt sử ký toàn thư, tờ 
31a7: sét đánh cây bông gạo làng Diên Uẩn, Cổ Pháp, để lại hàng chữ: Thọ căn 
niểu niểu, mộc biểu 
thanh thanh, hòa đao mộc lạc,
thập bát 
tử thành. Theo 
chiết tự, bài thơ tiên đoán nhà Lê mất, họ Lý lên thay.
[9] Arthur Rimbaud, Oeuvres, p. 196: 
Mauvais sang (Une Saison en Enfer). Pocket, Paris 2005.
[10] Bùi Giáng, Lettre à René Char, 
Dialogue, Lá bối, 
Saigon, 1965.
[11] Un livre des moines Bouddhistes: 
Introduction.
[12] Ibid.
(Uyên Nguyên)