Về Những Minh Họa Từ Thiền Uyển Tập Anh
ve nhung minh hoa
VỀ NHỮNG MINH HỌA TỪ
THIỀN UYỂN TẬP ANH
Tuệ Sỹ
Kể từ khi được Ông Trần
văn Giáp
tình cờ
phát hiện từ đống giấy vụn của một gánh hàng vụn phế thải, sau đó được
công bố
bởi trường Viễn đông Bác cổ,[1] Thiền
uyển tập anh trở
thành tư liệu cơ sở cho các khảo cứu về
lịch sử
Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên
cho đến
thế kỷ 13, cũng như các
sinh hoạt chính trị,
xã hội,
tôn giáo
nước ta trong suốt
thời gian
Bắc thuộc. Công trình
của ông Trần Văn Giáp
dựa trên
tập Sử Thiền này được
thực hiện khá
công phu, nhưng do thiếu nhiều tư
liệu tham khảo,
đối chiếu
để xử lý văn bản, do đó ông đã không
tránh khỏi một số
sai lầm.
Những sai lầm
ấy được lặp lại trong hầu hết các quyển sử
Phật giáo Việt Nam
tiếp theo
sau ông.
Trong năm 1973, Lê Mạnh Thát trong khi đi sưu khảo
các tự viện
ở miền Nam đã phát hiện thêm các dị bản của Thiền
uyển tập anh.[2] Y
cứ trên các phát hiện mới, công tác xử lý văn bản được
thực hiện
với rất nhiều tư liệu
liên hệ trong nền
văn hiến đồ sộ của
Phật giáo Trung quốc,
cũng như trong kho tàng
lịch sử
Việt Nam, từ
dã sử
đến chính sử,
những truyền kỳ. Một bản dịch
tương đối hoàn chỉnh của Thiền
uyển tập anh được
công bố,
cung cấp nhiều dữ liệu quan trọng khả dĩ
bổ sung, và đồng thời
cải chính,
những điều được ghi chép bởi các
chính sử của
Việt Nam
mà các tác giả
của chúng phần lớn dựa
trên những thông tin đầy
thành kiến và
xuyên tạc
của sử liệu Trung quốc
đối với sự hình thành
ý thức dân tộc cũng như sự phát triển chính trị
xã hội
của nước ta. Bản dịch san định do Lê Mạnh Thát
thực hiện này nhanh chóng
trở thành
văn bản cơ sở cho nhiều khảo cứu
lịch sử
theo sau nó. Một bản dịch Anh ngữ cũng
đã được thực hiện
bởi Cuong Tu Nguyên, Zen in Medieval Vietnam. A Study and translation of the
Thiền Uyển Tập
Anh, xuất bản năm 1997, bởi Ban
tu thư
Viện Đại học
Hawaii. Công trình
nghiên cứu
và dịch thuật này cũng
thường xuyên
tham chiếu
bản dịch của Lê Mạnh Thát, như
nhận xét của Giáo sư Philippe Langlet,
trong phần thư mục của bản dịch Pháp mà
chúng ta đang được
giới thiệu
hôm nay.[3]
Thiền uyển tập anh theo thể
loại là một tác phẩm
thiền sử. Về hình thức,
nó tương tợ cách viết Cảnh
đức Truyền đăng lục của
Đạo Nguyên
(Tống, 1004). Thế nhưng, Truyền
đăng lục của
Đạo Nguyên
thuần túy
là một thiền sử, ký tải sự phát triển của
Thiền tông từ khởi thủy của
Phật giáo;
trong khi đó Thiền
uyển tập anh ngoài sự ký tải các
truyền thừa
và phát triển các dòng thiền
Việt Nam, nó còn phản ánh khá rõ nét bối
cảnh xã hội
Việt Nam
mà trường độ thời gian
kéo dài trên dưới mười thế kỷ.
Bài kệ
thị tịch của
Khuông Việt
(930-1011) sau đây có thể cho
chúng ta thấy khá rõ nét về điều này.
Trước khi chết, Sư
truyền kệ lại cho
Đa Bảo rằng:
Mộc
trung nguyên hữu hỏa,
Hữu hỏa hỏa hoàn sanh.
Nhược vị mộc vô hỏa,
Toản toại hà do manh.[4]
Bản dịch Pháp của Philippe Langlet:
A l’origine, le feu est dans le bois,
Le feu originel renaît sans cesse.
S’il n’y a pas de feu dans le bois,
Comment pourrait-on en faire jaillir en le frottant?
Rõ ràng đây là một bài thơ ngắn mang
ẩn dụ
siêu hình. Nhưng nếu
chúng ta nhìn nó từ
vị trí
lịch sử của
Khuông Việt
trong liên hệ
với các thế hệ
đi trước
kể từ Định
Không trưởng lão
(730-808); với các
Thiền sư
đồng thời
như Pháp
Thuận (925-990), cũng như
thế hệ
tiếp nối
theo sau là
Vạn Hạnh
(?-1025), ngoài lớp vỏ
tư duy siêu hình, bài thơ cho thấy sự
tiếp nối
dòng chảy liên tục
và trưởng thành
của ý thức
dân tộc và một Nhà nước
tự chủ.[5] Nó mang nội dung gần như đồng
nhất với các dự ngôn
hay sấm ký của Pháp
Thuận và
Vạn Hạnh về sự
xuất hiện
của một nhân vật mà, qua
dự ngôn của
Pháp Thuận,
Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh.[6]
Theo đó, một thời
thịnh trị sẽ đến với đất nước sau nhiều
thế kỷ bị đô hộ và nô dịch.
Trong phần
tiểu sử
tác giả, Philippe Langlet không
bỏ sót
một chi tiết
trong cuộc đời
của Khuông Việt,
mặc dù theo một cách nhìn đó chỉ là một
câu chuyện
hoang đường
có vẻ không giúp gì cho sự
lãnh hội bài thơ được dẫn dịch của Giáo
sư Philippe Langlet, cũng như minh họa của Dominique De Miscault. Thiền
uyển tập anh chép, có lần
Khuông Việt
chiêm bao
thấy Tỳ-sa-môn Thiên
vương (Vaiśravaṇa)
xuất hiện và tự
giới thiệu
sứ mạng
của mình rằng được
Thiên đế (Śakra devendra) sai đến để
bảo vệ
quốc giới ngõ hầu khiến cho
Phật pháp được
thịnh hành.
Sáng hôm sau, do theo
giấc mộng, Sư vào núi tìm và thấy một cây to.
Từ cây bông gạo mà
Trưởng lão La Quý (852-936) trồng trước
chùa Châu minh,[7] qua cây
cổ thụ của
Khuông Việt
vừa đề cập, cho đến
cây bông gạo của Sư
Vạn Hạnh bị sét đánh,[8] nó là chuỗi
liên tục
dự ngôn
về sự xuất hiện
của Lý Thái Tổ.
Sự kiện
đó hoặc là sự thật
lịch sử,
hay chỉ là hư cấu của ai đó muốn
minh giải một
biến cố
xã hội
hay một tín điều
tôn giáo,
thế nhưng ảnh hưởng
quần chúng
của nó vẫn có
thể được tìm thấy
rõ nét không chỉ trong Thiền
uyển tập anh, mà còn trong các truyền kỳ và ký tải của các sử
quan triều đình.
Chúng ta
trở lại bài thơ của
Khuông Việt
với minh họa của De Miscault.
Mộc sinh hỏa, à l’origine, le feu est dans le
bois, nguyên thủy,
lửa vốn ẩn tàng trong gỗ. Ngọn lửa ấy vốn
hiền hòa, hài hòa trong nguyên lý
ngũ hành
sanh khắc; nhưng khi nó bừng cháy để làm nên
lịch sử
văn minh
nhân loại, thì nó cũng có cơ
trở thành
thảm họa. Qua ống kính của nghệ sĩ tạo hình, Dominique De Miscault, ngọn lửa ấy
không bốc thẳng lên theo chiều thuận lý của Dịch lý phương Đông, mà nó quằn quại
trong từng sớ gỗ dưới một góc nhìn minh họa; nó chợt được thấy như bùng cháy từ
hỏa ngục,
từ một mùa hỏa ngục
của Rimbaud: Une Saison en Enfer. Nó bốc cháy từ
tổ tiên
người Gaulois, thiêu rụi những đồng cỏ, lột da
dã thú, rồi lần bước
lịch sử
theo dấu
chân của đoàn quân viễn chinh qua những ngã đường của châu Âu: J’ai de mes
ancêtres gaulois… Les Gaulois étaient les écorcheurs de bêtes, les
brûleurs d’herbes les plus ineptes de leur temps…[9]
Tuy
dấu chân của Rimbaud
tiếp nối
tổ tiên
Gaulois lần bước xuống
tận châu Phi chứ không lần về phương Đông châu Á, nhưng người
thưởng ngoạn
ngôn ngữ
và minh họa của các
tác giả Pháp,
từ di ngôn, mà cũng là
dự ngôn,
của Khuông Việt
trước khi chết, muốn nhìn ngắm nó từ một dòng chảy
thuần khiết
trong nền văn học
Pháp qua hình thái biểu hiện nhức nhối của
ngôn ngữ đang nói lên nỗi niềm khổ lụy
hiện sinh.
Đó cũng là góc nhìn mà
chúng tôi mượn tạm của nhà thơ Bùi Giáng
trong một bức thư gởi René Char, những dòng chữ được viết từ bão tố chiến tranh
đang tàn phá một đất nước,
sát hại một dân tộc: Nous pensons …
à vous, Monsieur René Char, et aussi à un courant discernable de pureté dans la
litterature française … à travers l’expression déchirante du malheur, oui, nous
pensons à tout cela, en un temps où l’ouragan s’abat sur notre pays et meurtrit
notre peuple.[10]
Người
thưởng ngoạn như vậy có thể đang
cố ý
chọn một điểm đứng và một thời điểm để nhìn không theo cùng một hướng của nhà
nghệ sỹ tạo hình, nhưng trong
không gian và từ
thể tính
của tồn tại
thì ưu tư
khắc khoải về lẽ sống
nhân sinh
và chiêm nghiệm
những điều kỳ diệu
trong sự vận hành
của thế giới
vẫn âm vang một sự đồng cảm, mà
chúng ta đọc thấy trong phần
giới thiệu
bởi De Miscault: Le mélange d’angoisse et d’admiration devant le mystère du
monde a été vécu par toutes les civilisations… Nous pensons en trouver un
example dans les écrits des moines bouddhistes, notamment vietnamiens sous la
dynastie des Lý.[11]
Các
tác giả của Un livre des moines
Bouddhistes đang tìm vào các thơ văn của các
Thiền sư
đời Lý; không phải bằng những tư biện
triết học, không phải bằng những
tư duy
siêu hình, mà bằng
ngôn ngữ
hình ảnh,
tìm kiếm
và chìm lắng
trong một thế
giới tĩnh lặng, vô
ngôn, ở đó
thực tại
tối hậu là khoảng
chân không
thăm thẳm: la
vacuité fondamentale de toute chose et même de l’ultime réalité.[12]
Thực tại
tối hậu là gì? Qu’est-ce que c’est? Đó
là một câu hỏi rất thông thường trong giao tiếp
hằng ngày; nhưng lại là câu hỏi muốn vén
bức màn kỳ ảo của thời
gian để nhìn sâu vào tính thể
tồn tại. Vậy, yếu tính của
tồn tại,
của cái đang được ném ra đó, là cái gì?
Thiền sư
Ngộ Ấn (1020-1088) nói: Diệu tính
hư vô
bất khả phan. Yếu tính ấy, cái l’essence de l’être ấy, là cái
trống không mà nhận
thức không thể nắm bắt, mặc dù
bản chất của
ý thức
là luôn luôn vươn đến nắm bắt đối tượng. Ở đây, Philippe Langlet không phiên
giải diệu tính trong bài thơ của
Ngộ Ấn như là yếu tính của
tồn tại,
mà hiểu nó là bản chất
hay tự tính
huyền nhiệm:
La mystérieuse nature du vide est
inaccessible,
…
La mystérieuse nature đó có thể một
thiên nhiên
kỳ diệu,
được sáng tạo
từ huyền
nhiệm của Thượng đế;
mà Thượng đế
thì siêu việt
mọi tạo vật: Dieu transcende toute créature (Catéchisme). Vậy, câu hỏi
về thân phận
con người
được nêu lên từ tư duy
chiêm nghiệm
về bản tính
huyền nhiệm này, như De Miscault đã dẫn từ Pascal: Qu’est-ce que l’homme
dans la nature? Ta là ai,
con người là cái gì, trong
thế giới
này, trong bản tính
huyền nhiệm của tồn
tại này? Câu hỏi
xuất phát từ hai hướng Đông Tây bất
đồng, như trong cảm
hứng để thử
trả lời, ta có thể
tìm thấy
sự đồng cảm giữa Ngộ
Ấn và Pascal. Với
Ngộ Ấn,
con người không là gì cả, vì
tự tính
của nó không là gì cả.
Hình ảnh của cái không là gì cả ấy là
đóa hoa sen
còn thắm đượm sương mai trong lò lửa đang rực cháy. Trống không,
vô nghĩa,
nhưng ngời sáng: tồn
tại chỉ có thể
chiêm nghiệm trong mối quan hệ
biện chứng
được kết cấu bằng những
mâu thuẫn nội tại.
Trả lời của Pascal cũng âm vang
đồng điệu.
Ta không là gì cả. Tất cả mọi tạo vật đều từ
hư vô mà ra,
tồn tại
bao la
ngang tầm vô hạn: Toutes choses sont sorties du néant et portées jusqu’à
l’infini. Con
người là
tồn tại
vô thể, là
hư vô
nếu được nhìn từ vô hạn. Trong vô hạn, nó không là gì cả. Trong cái không là gì
cả, nó là tất cả. Con
người là một
trung gian giữa không là gì cả và là tất
cả: Un néant à l’égard de l’infini, un tout à l’égard du néant, un milieu
entre rien et tout.
Đồng điệu hay đồng cảm này cũng được
chia sẻ bởi một Thiền
sư khác: Từ
Đạo Hạnh (?- 1117), được chuyển tải qua
ngôn ngữ
Pháp:
Existence. Le moindre grain de poussière
existe.
Vide. Tout est vide.
Existence et vide, c’est comme la lune dans l’eau.
Ne vous attachez pas à l’existence ni à l’idée du vide.
Tồn tại và
không tồn tại,
có và không, hữu thể
và hư vô,
chứa vô biên
trong hạt cát,
nắm vô hạn giữa lòng tay;
thể tính
hư vô bừng sáng thành
hoa sen
trong biển lửa; đó là những
tư duy và
phát biểu
mang tính phản lý;
đồng thời đó cũng là sử tính của một dân tộc được
hiện tượng
hóa trong chuỗi mâu
thuẫn
biện chứng của
hiện thực
lịch sử.
Ở đây, sử gia và nhà nghệ sỹ tạo hình, bằng
ngôn ngữ
của mâu thuẫn
biện chứng
và bằng hình ảnh
được thấy thường nhật để
phản chiếu
sinh hoạt
tầm thường mà luôn luôn
biến động của
đời sống
thường nhật. Những cảm
hứng từ các
hình ảnh này trong nhiều
trường hợp
dẫn người thưởng ngoạn
đến những ý tưởng
đầy bất ngờ, vừa thống nhất vừa
xung đột giữa những cái nhìn mà ta quen
nói là khác biệt Đông Tây, khác biệt
thời đại. Một
trường hợp
có thể dẫn ra ở đây là bài thơ của
Không Lộ, và
hình ảnh
minh họa. Trong bài thơ này,
ngôn ngữ Pháp đi rất gần với tiết nhịp
của âm vận tiếng Việt, mặc dù dịch giả không cố
diễn dịch nó theo tiết nhịp thơ của
ngôn ngữ
Pháp:
Sur dix mille lieues le fleuve limpide, sur
dix mille lieues le ciel.
Un village avec des mûriers, un village avec des fumées.
Le vieux pêcheur s’est endormi, personne ne l’appelle.
Passé midi il se réveille, la neige a rempli sa barque.
Toàn thể bài dịch Pháp còn
phảng phất
phong vận bình dị
của đồng quê Việt Nam
cũng như sinh hoạt
của nó. Trong khi đó, trong nguyên văn Hán của bài thơ, do âm luật nghiêm túc
của Đường thi, mọi thứ trở nên trang trọng. Ngư ông trong nguyên văn Hán mang
phong thái tiêu dao
của một ẩn sĩ.
Ngư ông trong bản dịch Pháp là một người
dân quê trong cảnh đồng quê bận rộn
nhưng an nhàn.
Ngư ông trong minh họa mang dáng vẻ của một
con người sinh họat trong
xã hội
văn minh
công nghiệp
đến từ phương Tây, đang
vẫy tay chào đón hoặc
tiễn đưa,
đứng giữa lòng sông trong lớp bụi mờ ẩn
hiện hình ảnh được minh họa từ câu thơ
của Ngộ Ấn:
Liên phát lô trung thấp vị can, La fleur de lotus eclose dans un four est
éternellement fraîche. Minh họa như thế là nối liền
quá khứ
với hiện tại,
một quá khứ
lịch sử
đầy bi kịch
đã hay đang đi vào
quên lãng,
với hiện tại
của một xã hội
đang biến chuyển
để chào đón hoàng hôn
rực rỡ
của trời Tây, La Crépuscule de l’Occident (Spengler).
Hình ảnh ngư ông trong minh họa
tình cờ
khiến chúng ta
nhớ lại bóng dáng
của Bùi Giáng đang đi giữa phố phường hoa lệ Saigon mà như đi giữa
hoang tàn
sa mạc, điên loạn trong
cơn điên loạn siêu hình của Nietzsche.
Thế rồi, trong phút
tỉnh táo, nhà thơ của
chúng ta bất chợt thốt lên những lời
trầm thống, vang vọng
ưu tư khoắc khoải lan dài
trong lịch sử. Đó là những lời mà Bùi
Giáng đã viết cho René Char: Voici la réponse que vous en donne le Viet nam:
Weil (Simone Weil), c’est une de ces âmes assez rares qui sont venues en ce
monde pour un temps bien bref, qui s’en sont allées brusquement, laissant
derrière elles de regrets; des âmes qui se sont penchées sur la souffrance de
siècles, qui nous ont apporté des promesses de fontaines sonores, qui nous ont
parlé des peuples lointains et de leur pulsation blessée, qui ont posé le
problème des déshérités de l’Asie.
Hình ảnh một Simone Weil nhỏ thó,
gầy mòn,
một tâm hồn
nhạy bén trước khốn cùng của những
con người khốn khổ, một
ý chí
ngoan cường, bướng bỉnh của một cô giáo trẻ;
hình ảnh ấy không chỉ là
biểu tượng
cho sự trỗi dậy của tầng lớp
yếu ớt trong bối cảnh
xã hội
hùng cường, phú thịnh của phương Tây;
hình ảnh ấy một thời đã làm
xao xuyến
tuổi trẻ
Việt Nam
lớn lên giữa khói lửa, đang lắng nghe âm vang từ nhịp đập của trái tim mang
chứng tích
đầy thương tích của
lịch sử
văn minh, âm vang từ những suối nguồn xa xôi mang những
ước nguyện
nhân bản
đến cho các dân tộc, đặt
vấn đề cho những
con người
đang bị bứt lìa truyền
thống.
Khi một
tâm hồn bị bứt lìa
truyền thống,
nó như một con thuyền
lơ lửng trôi xuôi theo định hướng mù khơi ngoài phương trời
vô định;
trôi ngang qua bà mẹ đang đứng sững quay lưng
hờ hững với con thuyền, đang dõi mắt tìm
vào bến bờ của quá khứ,
của cây đa
bến cũ, con đò năm xưa mà nay đã vắng, đã mất. Thế nhưng, trong
thể tính
uyên nguyên của dòng sông
lịch sử, mảnh trăng treo từ trên đỉnh
Lăng-già đang tỏa ánh sáng trầm tịch
trong khoảng
không vô
tận, cho con thuyền định hướng ra biển khơi:
…
Dans le grand calme du clair de lune sur la
montagne de Lanka,
Devant le vide pour un bateau qui s’avance en pleine mer,
…
Minh họa này từ bài thơ của
Tăng thống
Huệ Sinh
(?- 1076), thế hệ
tiếp nối
Thiền sư Vạn Hạnh,
vốn là minh giải
triết học
cho vua Lý Thái Tông,
ngẫu nhiên
phản chiếu tâm tình
lịch sử
trải dài suốt gần mười thế kỷ, qua những minh họa mà
chúng ta
biết được cảm hứng
một phần từ tín điều
Catéchisme như được nói rõ trong bài
giới thiệu do Dominique De Miscault.
Suy nghĩ từ những dòng
ngôn ngữ
Pháp chuyển tải những
tư duy uẩn khúc của
tư tưởng, như những mặt gương khi mờ khi
tỏ, phản chiếu
mấy đoạn đường quanh
co khi thăng khi trầm của
lịch sử; chiêm quan những
hình ảnh
minh họa cấu hình bằng
phương tiện kỹ thuật
hiện đại
mà thể tính
là những nguyên lý, những
công thức cứng đọng, khô cằn của
lý trí
hướng ngoại và chinh
phục; người đọc và người xem để cho
tâm hồn
mình di động
bất thường giữa những
cảm hứng
ngẫu nhiên, hoặc trần thuật tiên cảm; từ
đó quay nhìn lại những đoạn
lịch sử đã qua, trải dài suốt trên hoặc
dưới mười thế kỷ; những lộ trình riêng biệt, với những định hướng và
định mệnh
khác biệt, ở hai phương trời
cách biệt; những
con đường
lịch sử
ấy có khi được thấy song song, có khi đối nghịch dẫn đến sông núi ngửa nghiêng,
đảo lộn,
áp bức,
đọa đày,
chiến tranh, giết chóc; có khi hòa quyện trong nỗi
đau thương
chung của thân phận
con người.
Nhưng dù ở bên này hải
đảo, hay bên kia
đại dương, mà trong cõi
tịch mặc
vô ngôn,
trong thế giới
mặc nhiên
vô hạn, với những điều nói được và không nói được, những
hình ảnh
ký họa được hay không ký họa được, giữa người và người, giữa các dân tộc dị
biệt, trong các truyền
thống và
văn minh tương phản, vẫn còn ẩn tàng
trong tận đáy sâu, trong rung cảm
đồng điệu của những trái tim
nhân hậu.
Chúng tôi
muốn nói, từ những chuyển tải bằng
ngôn ngữ
Pháp thực hiện bởi Giáo sư Philippe
Langlet, từ những minh họa bằng kỹ xảo của
lý trí tư biện phương Tây bởi nghệ sĩ
tạo hình Dominique De Miscault,
chúng ta thử tìm lại dấu vết tâm tư của
tiền nhân,
thử nhìn lại chính mình từ đôi mắt của những người khác, để tự khẳng định chính
mình trong những cơn lốc
thời đại.
Xin
cảm ơn các
tác giả
đã đến với chúng ta
trong đồng cảm nhân
loại, cùng chia sẻ những
giá trị phổ quát giữa những
truyền thống
dị biệt.
_______________________________________
[1] Trần
Văn Giáp, Le Bouddhisme en Annam,
dès origines jusqu’au XIIIe siècle. BEFEO XXXII, 1932. Bản dịch Việt, Tuệ
Sỹ: Phật giáo Việt
Nam, từ khởi nguyên đến thế kỷ XIII,
Tu thư
Viện Đại học
Vạn Hạnh,
Saigon, 1968.
[2] Lê Mạnh Thát, Tổng tập
Văn học
Phật giáo Việt
Nam, tập 3, Nxb TP Hồ
Chí Minh, 2002.
[3] Philippe Langlet, Un livre des moines
Bouddhistes; Les Editions Aquilon, Paris, 2005.
[4] Lê Mạnh Thát, Tổng tập 3, tr. 203:
Trong cây vốn có lửa/ Có lửa, lửa mới bừng/ Nếu bảo cây không lửa/ Cọ xát do đâu
bùng.
[5] Tuệ Sỹ, Những cuộc
vận động
của Phật giáo
Việt Nam dưới
triều đại nhà Đường, Tạp
chí Tư Tưởng,
Viện Đại học
Vạn Hạnh,
1972.
[6] Lê Mạnh Thát, Lịch
sử
Phật giáo Việt Nam, tập 2, tr.
498; nxb TP Hồ Chí
Minh, 2001.
[7] Lê Mạnh Thát, Tổng tập 3, tr. 284:
“(La Quý di chúc) Ở chùa Châu Minh ta có trồng cây bông gạo để trấn chỗ, biết
đời sau
ắt có kẻ hưng vương ra đời…”
[8] Đại
Việt sử ký toàn thư, tờ
31a7: sét đánh cây bông gạo làng Diên Uẩn, Cổ Pháp, để lại hàng chữ: Thọ căn
niểu niểu, mộc biểu
thanh thanh, hòa đao mộc lạc,
thập bát
tử thành. Theo
chiết tự, bài thơ tiên đoán nhà Lê mất, họ Lý lên thay.
[9] Arthur Rimbaud, Oeuvres, p. 196:
Mauvais sang (Une Saison en Enfer). Pocket, Paris 2005.
[10] Bùi Giáng, Lettre à René Char,
Dialogue, Lá bối,
Saigon, 1965.
[11] Un livre des moines Bouddhistes:
Introduction.
[12] Ibid.
(Uyên Nguyên)