Hòa thượng KIM MÃ Thông Duệ (1808-1857)
hoa thuong kim ma
HÒA THƯỢNG KIM MÃ THÔNG DUỆ (1808-1857)
Hậu học Đồng Dưỡng
Hòa thượng Thông Duệ là một vị danh tăng triều Nguyễn (1802-1945). Ngài thuộc
thiền phái Lâm Tế, đời thứ 40, dòng Đột Không Trí Bản, thế hệ thứ 8 sơn môn Vĩnh
Phúc Phù Lãng.
Hòa thượng là vị Tổ khai phái chùa Phúc Long, được Bộ Lễ ban giới đao độ điệp
vào năm Minh Mạng thứ 16 (1835). Ngài trụ trì chùa Vĩnh Phúc (Phù Lãng), kiêm
trụ trì chùa Phúc Long, xã Phù Lãng trung, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh
(nay thuộc xã Đoàn Kết, huyện Quế Võ, Bắc Ninh). Ngài cùng thế hệ với Thiền sư
Thông Vinh, chùa Hàm Long mà Kế đăng lục, quyển tả có ghi chép.
Tư liệu liên quan về Hòa thượng Thông Duệ hiện nay không nhiều, nằm rải rác các
nơi như kinh sách, văn bia, khoa cúng tổ các chùa. Thiền uyển truyền đăng lục,
quyển hạ do Hòa thượng Phúc Điền biên soạn ghi chép truyền thừa chùa Vĩnh Phúc (Phù
Lãng), có ghi một vài nét về ngài. Đây là tư liệu gốc để chúng ta tham khảo thêm
các kinh sách khác phác họa hành trạng của ngài. Sách chép:
下八傳通睿和尚。貫河內,馬惱人,俗姓張,二十五歲出俗。師儒釋精通,以無師智,雄談博辨。每至安居,僧衆百餘人。一日付囑偈云.
臨終付法古今傳
直指明心以是先。
貝眼作家施手段
空拳打破祖師禪。
法臘二十五,世壽五十一歲,於戊午年五月初二日未時示寂。大衆焚化建塔奉事,時嗣德十一年歲次戊午。
Tạm dịch:
Truyền xuống đời thứ 8 là Hòa thượng Thông Duệ, người Mã Não, Hà Nội, 25 tuổi
xuất gia. Thầy tinh thông Nho Thích, lấy trí vô sư để biện luận. Mỗi khi đến mùa
hạ an cư, Tăng chúng có hơn 100 vị. Một hôm dặn dò kệ rằng:
Lâm chung phó pháp xưa đến nay,
Chỉ thẳng minh tâm lấy làm đầu.
Lá bối làm nhà trao thủ đoạn
Tay không phá vỡ thiền Tổ sư.
Ngài được 25 tuổi hạ, hưởng thọ 51 tuổi, thị tịch giờ Mùi ngày mồng 2 tháng 5
năm Mậu Ngọ. Đại chúng phần hóa, xây tháp vâng thờ. Lúc ấy năm Mậu Ngọ, Tự Đức
thứ 11.
Sách cho biết đời pháp, tên pháp danh, quê quán. Cùng tập sách trên có ghi đoạn
đối thoại giữa Tổ Thiên Đông và ngài như sau:
師問曰,汝何姓名?對曰,姓張名睿,年庚二十五…
Tạm dịch: Thầy hỏi: Con họ tên gì? Trả lời: Họ Trương tên Duệ, tuổi được 25.
Bia “Phúc Long Hòa thượng sắc mệnh” ghi rõ “Danh Duệ Trương Văn Duệ”
tức tên Duệ, đầy đủ là Trương Văn Duệ. Vậy, ngài thế danh là Trương Văn Duệ. Bia
có ghi tên cha mẹ như “Cha là Trương Quang Tiến, tự Phúc Cung, mẹ Bùi Thị Hữu
hiệu Diệu Viên”. Ngài xuất thân từ tộc Trương, không ghi anh em mấy người, nằm ở
vị trí thứ mấy trong gia đình.
Sách ghi “ngài quê Mã Não, Hà Nội”. Bia ghi rõ hơn: “Ngài quê ở xã Mã Não, tổng
Thụy Lôi, huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân, Hà Nội”. Tra vào địa danh hiện nay, xã Mã
Não xưa chính là thôn Mã Não, thuộc xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.
Quê ngài gần chùa Bà Đanh nổi tiếng, cùng nằm trong xã Ngọc Sơn.
Ngài có pháp danh Thông Duệ, lấy tên thế tục nối với chữ “Thông” trong kệ phái,
với câu “Tịch chiếu phổ thông”, tức chữ cuối của câu thứ tưvà
có hiệu là Kim Mã Thích Uy Uy thiền sư.
Các tư liệu đều không ghi năm sinh, chỉ ghi năm tịch là năm Mậu Ngọ (1858), Tự
Đức 11, thọ 51 tuổi. Nếu chúng ta lấy năm tịch trừ cho tuổi thọ sẽ ra năm sinh,
đó là năm Mậu Thìn (1808), niên hiệu Gia Long thứ 9. Thuở nhỏ ngài “theo Nho
học”, mãi đến năm 25 tuổi mới xuất gia tại chùa Phù Lãng, tức năm 1833, triều
Minh Mạng thứ 14. Ngài xuất gia tu học với Tổ Thiên Đông Phổ Đăng (1807-1839).
Thiền uyển truyền đăng lục, quyển hạ có ghi lại đoạn đối thoại, khi ngài
lên Phù Lãng:
“Lúc đó, sĩ tử là Thông Duệ, nghe thầy đạo phong truyền rộng, muôn duyên cắt
đoạn. Đến chùa Phù Lãng đẩnh lễ Tôn sư, nguyện bỏ duyên trần làm Phật chủng tử.
Thầy hỏi: Con họ tên gì? Đáp: họ Trương tên Duệ, năm nay 25 tuổi. Thầy hỏi: con
là kẻ sĩ, Nho Phật vốn không cùng đường, nay bỏ Nho theo Phật, làm Phật tử
chăng? Trả lời: trời người muôn pháp, chẳng phải Phật thì không thể thông suốt,
vậy, bỏ nhà ra tục, nguyện thầy thương xót tế độ. Thầy nói, con nhập chúng đi”.
Từ đó, ngài chăm chỉ học tập và chấp lao phục dịch.
Năm Ất Mùi (1835) Minh Mạng thứ 16, ngài đến kinh thành dự khóa khảo thí do Bộ
Lễ tổ chức. Ngài được đậu hạng bình.
Miễn tăng thuế chỉ
lập năm Ất Mùi Minh Mệnh thứ 16 (1835) cho biết, chư Tăng các tỉnh vân tập về
kinh để khảo hạch, chọn được 12 vị hạng sảo thông cấp cho mỗi vị 5 lạng, hạng tô
thông 38 vị cấp cho 3 lạng, ở trai đàn chùa Thiên Mụ được ban giới đao độ điệp.
Ngài thuộc trong số 38 vị hạng tô thông mà bia “Phúc Long Hòa thượng sắc mệnh”
ghi là hạng bình. Lần này chỉ lấy 50 vị được ban giới đao độ điệp. Sự kiện này
làm vinh quang cho cả sơn môn cũng như thầy trò Phù Lãng. Theo lời sư trụ trì
hiện nay, khi về Bắc Ninh, chỉ có dân Phù Lãng trung ra nghênh đón, nên ngài về
trụ trì chùa Phúc Long trong làng.
Đến năm Kỷ Hợi (1839) Minh Mạng thứ 20, bổn sư Thiên Đông viên tịch, ngài được
chọn kế thế trụ trì chùa Phù Lãng (Vĩnh Phúc thiền tự). Ngài kiêm quản hai ngôi
chùa, có vị trí gần nhau. Các tư liệu không ghi quá trình tu bổ, trùng tu chùa.
Mỗi năm vào mùa hạ an cư, Tăng chúng vân tập về hơn 100 vị. Nói thế để biết Phúc
Long đương thời là một trường hạ lớn của cả vùng. Với sự uyên thâm Phật Pháp,
nhiều vị đã đến tham học với ngài. Trong bài dẫn cuốn Giới đàn tăng,
Thiền sư Phổ Tiến Thanh Lịch (1825-1885) từng đến Phúc Long học luật Yết-ma
Huyền ty sao. Thiền sư Từ Tuyên Phổ Sĩ, đệ tam tổ chùa Linh Quang (Bà Đá)
nghe danh ngài “Đạo pháp hưng long, thiền gia lĩnh tụ” nên đến tham học 3 năm.
Bản in Thủy lục chư khoa vào năm Giáp ngọ Thành Thái 6 (1894), bài
Thủy lục khoa nghi trùng san duyên khởi có nói đến bản in trước của chùa:
“Tổ sư Tuệ Chiêu, núi này vào năm Minh Mạng thứ 21 (1840) nhận lời dặn dò mà
khắc bản lưu truyền”.
Tổ sư Tuệ Chiêu xuất hiện năm 1840, chưa rõ tên hiệu của vị trụ trì nào của Phù
Lãng. May nhờ tra vào sách Thiền môn tu trì kinh chú luật nghi, phần Bản
quốc chư Tổ kế đăng có đoạn:
“Hòa thượng Mãn Giác Minh Lương khai sơn chùa Vĩnh Phúc trên núi Côn Cương, xã
Phù Lãng, tỉnh Bắc Ninh. Truyền xuống đời thứ 6 là Thiền sư Tuệ Chiếu. Truyền
xuống đời thứ 7 là Thiền sư Thiên Đông. Truyền xuống đời thứ 8 là Hòa thượng
Thông Duệ, được ân tứ đao điệp”.
Như vậy, Tuệ Chiêu trong Thủy lục chư khoa chính là Tuệ Chiếu trong
Thiền môn tu trì kinh chú luật nghi. Do chữ “Chiếu” tỵ húy triều Nguyễn nên
sách đổi Chiếu thành Chiêu. Đối chiếu với Thiền uyển truyền đăng lục,
quyển hạ thì Tuệ Chiếu đời thứ 6 Phù Lãng chính là ngài Tịch Thất, vị sư ông của
ngài Thông Duệ. Đây là mạch dẫn truyền thừa sơn môn Phù Lãng, Bắc Ninh.
Năm Tự Đức thứ 2 (1848), dân làng Đức La sang Phù Lãng thỉnh ngài về trụ trì
chùa Vĩnh Nghiêm. Ngài đã giao việc trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm cho Trưởng tọa là
Tâm Viên (1819-1889),
còn mình vẫn an trụ Phúc Long.
Vào năm Đinh Tỵ (1857), ngài phát tâm trùng san Tịnh độ chư kinh. Đây là
ý định của ngài muốn khắc bản bộ tùng thư về Tịnh Độ tông. Bộ này thâu vào bốn
đầu sách: Di Đà yếu giải, Di Đà sớ sao, Sự nghĩa vấn biện, và Tây
phương mỹ nhân truyện. Công việc mới dự kiến thì “Ta-bà báo mãn, Tịnh độ
duyên thành”, tức ngài vội viên tịch vào giờ Mùi, ngày mồng 2 tháng 5 năm Mậu
Ngọ (1858). Trước khi viên tịch, ngài giao phó việc khắc kinh lại cho đệ tử Tâm
Viên.
Đệ tử của ngài khá đông, và hiện nay chúng ta chỉ còn biết có hai vị. Đó là
Trưởng tọa Tâm Viên (1819-1889) trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) và ngài
Tâm Thoan kế nghiệp trụ trì chùa Phúc Long. Sau khi ngài viên tịch, môn nhân
kiến tháp Kim Mã trong vườn chùa Phúc Long để phụng thờ.
Qua các tư liệu rời rạc, chúng ta đã phác họa được một vài nét hành trạng của
Hòa thượng Thông Duệ. Đóng góp lớn của ngài là xây dựng đạo tràng, tiếp nhận đồ
chúng, khai trường thuyết pháp, làm cho sơn môn Phù Lãng hưng thịnh, cũng như sự
phát triển đạo Phật ở Bắc Ninh, đóng góp vào công cuộc hoằng truyền Phật Pháp ở
nước ta thời Nguyễn. Ngài đã đào tạo nhiều học trò nổi tiếng như ngài Tâm Viên (chùa
Vĩnh Nghiêm), Tâm Thoan (chùa Phúc Long); các vị đến cầu học như Hòa thượng Phổ
Tiến (chùa Bổ Đà), Hòa thượng Phổ Sĩ (chùa Bà Đá). Các vị trên là những bậc luật
sư nổi tiếng đương thời mà nay còn vang tiếng.