Vai trò của chùa Linh Sơn và Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ giai đoạn 1920-1945
Vai trò của chùa Linh Sơn và Hội
Vai trò của
chùa
Linh Sơn và
Hội Nam Kỳ
Nghiên
cứu Phật học trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam
Kỳ
giai đoạn 1920-1945
Thích Đồng Hạnh
Sự thành lập
Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học tại chùa Linh Sơn
Trong công cuộc chấn hưng Phật giáo giai
đoạn 1920-1945, chùa Linh Sơn đóng một vai trò cực kỳ
quan trọng bởi vì nó góp phần cho sự thành lập Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật
học, một hội nhóm làm ngọn cờ tiên phong và là động lực cho sự
phát triển của các hội Phật giáo khác khắp ba miền.
Mặc dù HT.Khánh Hòa khởi xướng phong trào
chấn hưng Phật giáo từ đầu những năm 1923, nhưng
phong trào chấn hưng không phát triển được bởi
nhiều lý do khách quan [7]. Tới
năm 1927, ý tưởng về chấn hưng Phật giáo lại trỗi
dậy trong tâm trí ngài khi ngài
đọc được những bài báo của những vị cư sị và tu sĩ hữu tâm
muốn khôi chấn lại Phật giáo nước nhà,
nổi bật trong đó là HT.Tự Lai chùa Tiên Lữ (Thái Nguyên)
và cư sĩ Nguyễn Mục Tiên. HT.Tự Lai, trong bài viết “Về việc
chấn hưng Phật giáo”
đăng trên Khai Hóa nhật
báo số 1640, đã
đề ra ba việc cấp bách trong việc chấn hưng Phật giáo:
Mở giảng đường, mở trường học và lập viện tế bần[13, tr.50].
Cư sĩ Nguyễn Mục Tiên, với bài báo tựa “Nên chấn
hưng Phật giáo nước
nhà” được đăng trong Đông
Pháp thời báo số 529
ngày 5-1-1927, đã nhấn
mạnh sự cần thiết của việc giáo dục cho giới Tăng lữ nhằm
giúp Tăng Ni có đủ bản lĩnh và kiến thức hoằng truyền Phật lý tới người dân[7].
Cảm được tâm nguyện của HT.Tự Lai, cùng trong năm 1927, HT.Khánh
Hòa phái Sư Thiện Chiếu ra Thái Nguyên tìm HT.Tự Lai nhằm
kêu gọi HT.Tự Lai cùng hợp tác chấn hưng Phật giáo. Tuy
nhiên trong chuyến đi ra Bắc lần này,
Sư Thiện Chiếu đã không thành công trong việc thuyết phục
HT.Tự Lai và quý Tăng lữ phía Bắc cùng hợp tác. Nhưng
chuyến đi này không hoàn toàn thất bại, bởi vì Sư Thiện
Chiếu đã mang về miền Nam những góp ý tích cực và hữu ích của HT.Tự Lai cùng
Cẩm nang chấn hưng
Phật giáo của HT.Thái Hư[10].
Bản cẩm nang này, ở một phương diện nào đó chắc chắn tác
động tới tư duy và thái độ làm việc của HT.Khánh Hòa vào
những năm sau đó.
Tháng 12 năm 1927, HT.Khánh Hòa nộp đơn
lên chính quyền bảo hộ Pháp xin mở Hiệp hội
Phật giáo (Association des
Bouddhistes). Nhưng đơn xin lập hội của HT.Khánh Hòa
bị bác bởi nhiều lý do, trong đó sai về điều lệ là nguyên nhân chính. Theo điều
lệ bị cho là sai này, Hòa thượng
cho phép bất kỳ ai cũng có thể tham gia hội Phật giáo
này, và như vậy nó không đúng với bản chất và tên gọi của
hội.
Ngày 1-4-1928,
HT.Khánh Hòa cùng với chư Hòa thượng Lê Trí Chất (trụ trì
chùa An Phước, Sa Đéc), Phạm Văn Khuê (trụ trì chùa Thanh Lương, Biên Hòa),
Trương Tấn Phát (trụ trì chùa Chúc Thọ, Gia Định), Thái Văn Cơ (trụ trì chùa
Phước Long, Long Xuyên) và Sư Thiện Chiếu (trụ trì chùa
Linh Sơn, đường Douaumont, Sài Gòn) đã tu chỉnh lại bản điều lệ cũ. Điều lệ dự
thảo gồm 6 thiên và 41 điều khoản. Điều lệ liên quan tới hội viên được sửa đổi
như sau: “Hội Phật giáo gồm có 3 hạng hội viên: Tán trợ hội viên, Chủ trì hội
viên và Thường trợ hội viên. Tán trợ hội viên là những người nào giúp cho Hội ít
nhất số tiền một trăm đồng Đông Dương (100$) đóng tất một
lần. Chủ trì hội viên, khi vào Hội, đóng tất một lần số tiền ba chục đồng (30$)
và khỏi góp tiền năm. Trừ cho những người nào ở Sài Gòn hay là cách năm ngàn
thước quanh châu thành Sài Gòn, thì tiền vào hội 30$ được đóng làm ba
kỳ trong một năm, nghĩa là cứ bốn tháng đóng 10$, mà đúng
mỗi kỳ phải đóng trong nội tháng thứ nhất chứ không được
trễ. Thường hội viên, khi vào hội, đóng tất một lần số tiền năm đồng (5$) và
cũng khỏi góp tiền năm”.
Tuy nhiên, khi Sở Mật thám
tiến hành điều tra thì đạo hạnh của một số vị tham gia sáng lập có vấn đề, chẳng
hạn như Sư Trần Văn Hương đã mất ngày 14-10-1926 (Âm lịch) mà trên Bản Điều lệ
soạn thảo ngày 1-4-1928 vẫn có chữ ký; ông Trương Tấn Phát, chủ chùa Chúc Thọ có
qua lại với Bùi Quang Chiêu; ông Thái Văn Cơ có gia nhập đạo Cao Đài; ông Thiện
Chiếu đã từng cộng tác với “Pháp Việt Nhứt Gia”… Đây là một trong những lý do
khiến cho Hiệp hội Phật giáo (Association des Bouddhistes) lại không được phép
thành lập[10].
Cuối năm 1928, chư HT.Khánh Hòa, Huệ
Quang, Liên Trì, Thiện Niệm đến chùa Linh Sơn cùng Sư Thiện Chiếu và một số Phật
tử hữu tâm để bàn việc thành lập Hội Chấn
hưng Phật giáo, với mục đích lập Phật học đường nhằm
giáo dục Tăng đồ và Phật học thư xã tàng trữ kinh sách phục vụ cho hoạt động
nghiên cứu. Nhưng do không xin được giấy phép của chính quyền, hội này không
thể đi vào hoạt động. Năm 1929, HT.Khánh Hòa cùng những
vị tôn túc lại hiệp ý thành lập Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học
tại chùa Tam Bảo (Rạch Giá), nhưng số phận của hội này cũng
giống như Hội Chấn hưng Phật Giáo[7].
Vào mốc thời gian từ 1928-1930, chính quyền bảo hộ thay đổi
chính sách về tôn giáo, thậm chí trong một lần thị sát Tây Nam Bộ,
Toàn quyền Đông Dương Pasquier đã
đưa ra quyết định thành lập một tổ chức Phật giáo để bảo tồn Phật giáo trước
tình hình Cao Đài mở rộng ảnh hưởng tại Tây Nam Bộ. Nhân
cơ hội này, cư sĩ Trần Nguyên Chấn cho xây dựng chùa Linh Sơn nhằm khôi chấn
Phật giáo. Trước tiên, ông xây dựng chùa Linh Sơn ở đường Douaumont (nay là
đường Cô Giang) trên phần đất thuộc sở hữu của cá nhân ông. Tiếp đó, ông đã bỏ
tiền ra kiến tạo hơn 500 tượng Phật để an trí trong khuôn
viên chùa Linh Sơn, và một nửa trong số đó ông đem tặng cho
các chùa ở Nam Kỳ. Trong thời gian này,
ông đã kết giao với nhiều nhà sư ở Nam Kỳ
và cuối cùng quyết định hợp tác với HT.Khánh Hòa[10].
Vào đầu năm 1929, hai vị này đã hợp tác thành lập Ủy ban Bảo tồn
Phật giáo do HT.Lê Khánh Hòa làm trưởng ban, ông Trần
Nguyên Chấn làm phó ban, cùng với các vị khác như Huỳnh
Thái Cửu, Thái Phúc, Trần Văn Giác, Nguyễn Thanh Hậu ở Trà Vinh; Lê Đức Thi,
Nguyễn Văn Căn, Trần Văn Khuê, Nguyễn Văn Nhơn ở Sài Gòn. Ủy ban này xin phép
nhà cầm quyền thành lập Thư viện Phật học và Phòng đọc, được đặt tại chùa Linh
Sơn, số 149, đường Douaumont (nay là đường Cô Giang, quận 1), Sài Gòn. Tuy
nhiên, thư xin thành lập Thư viện và
Phòng đọc không được chấp thuận. Vì vậy, ngày 7-10-1929,
ông Trần Nguyên Chấn có viết thư cho bà Karpelès là thư
ký của Viện Phật giáo ở Phnom Penh, yêu cầu bà Karpelès
giúp đỡ. Bà Karpelès, bằng uy tín của mình, đã
tác động tới Thống đốc Nam Kỳ, và nhờ đó
giấy phép được thông qua dễ dàng. Từ ngày 20 đến
22-12-1929, lễ
khánh thành Thư viện và Phòng đọc được cử hành; lễ chính
diễn ra vào ngày 21-12-1929[10].
Theo Nguyễn Đại Đồng & Ninh Thị Sinh, thư viện này được hoạch
định để tàng trữ: kinh sách Phật gồm 1.500 tập bằng tiếng
Hán (Đại tạng kinh) được đặt mua ở
Thượng Hải, một bộ sưu tập các tác phẩm Phật giáo bằng tiếng Pháp được đặt mua ở
Paris. Vào thời điểm khánh thành, đã có 820 tập kinh
thuộc Hán tạng và 100 kinh
sách tiếng Pháp lưu trữ ở thư viện. Một tòa nhà khác cũng
đang được xây cất, rộng 25m, sâu 11m, gồm 6 gian, dùng để làm Phòng đọc (Thích
học đường) phục vụ Tăng sĩ và tín
đồ Phật giáo ở Nam Kỳ[10].
Cũng trong giai đoạn năm 1929, ông Nguyễn Ngọc Vĩnh và Trần
Nguyên Chấn cũng nộp đơn xin ấn hành Tạp chí Từ Bi Âm
(02/09/1929) và thành lập Nghiên cứu
Phật học hội (28-12-1929)
cùng với bản điều lệ của hội.
Tuy nhiên, tới ngày 26-8-1931,
Thống đốc Nam Kỳ Khrautheimer mới phê chuẩn Nghị định
số 2062 chính thức công nhận tính pháp lý của Hội Nam Kỳ
Nghiên cứu Phật học (Association pour l'etude et la conservation du
Bouddhisme en Cochinchine), đồng thời thông qua bản điều lệ gồm 19
điều và bản quy tắc 51 điều. Cơ cấu tổ chức ban đầu của hội
bao gồm [7]:
Ban hội viên danh dự với các thành viên như Thống đốc Nam
Kỳ Khrautheimer (Hội trưởng danh
dự).
-
Đốc lý Thành phố Sài Gòn Rivoal (Hội phó
danh
dự).
-
Bà Karpeès -
Trưởng phòng Khảo cứu Phật giáo Lào và Campuchia.
-
Chánh Hội trưởng: Lê Khánh Hòa,
Hòa thượng chùa Linh Sơn.
-
Phó Hội trưởng: Trần Nguyên Chấn,
chánh
thừa
biện
hạng nhất tại dinh Đốc Lý
thành phố Sài Gòn
-
Thủ quỹ: Trần Văn Khuê, tri
huyện tại phòng thứ sáu dinh Soái Phủ Nam
Kỳ.
-
Phó thủ
quỹ: Lê Văn Phổ, thư
ký tại dinh Đốc Lý
thành phố Sài Gòn.
-
Thư ký: Nguyễn Văn Nhơn, thư
ký tại dinh Đốc Lý
thành phố Sài Gòn.
-
Phó thư
ký: Phạm Ngọc Vinh, thư
ký tại ngân hàng Đông Pháp, Sài Gòn.
-
Cố vấn: Huỳnh Văn Quyền, thông
phán thượng hạng tại dinh Đốc Lý
thành phố Sài Gòn;
Nguyễn Văn Cần, thừa
biện tại dinh Đốc Lý
thành phố Sài Gòn.
Tuy nhiên, hai năm sau khi Hội Nam Kỳ
Nghiên cứu Phật học được chính thức đi vào hoạt động, HT.Khánh Hòa, Sư Thiện
Chiếu cùng các vị Hòa thượng khác đã rút khỏi hoạt động của hội vào năm 1933, do
bất đồng quan điểm về cách vận hành của hội [6, tr.580].
Mặc dù sau khi HT.Khánh Hòa và các vị tôn túc khác rời đi
hội vẫn hoạt động, nhưng hội chỉ duy trì được một số hoạt động như thư
viện, phòng đọc
và ấn hành Tạp chí Từ Bi Âm. Học xá,
mặc dù đã được xây dựng hoàn chỉnh nhưng
không đi vào hoạt động, do các chùa ký
ủng hộ hoạt động của hội trước đây đều ngưng sau khi HT.Khánh Hòa ly khai khỏi
hội[7].
Tóm lược, mặc dù HT.Khánh Hòa được xem là
người tiên phong trong phong trào chấn hưng Phật giáo tại
Nam Kỳ giai đoạn 1920-1945, cũng như
được xem như là linh hồn của Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật
học, thì những đóng góp cho hội
của HT.Khánh Hòa và các vị tôn túc khác trong nhóm
của Hòa thượng là không nhiều. Hội Nam Kỳ
Nghiên cứu Phật học được chính thức cho phép thành lập vào năm 1931. Sự thành
lập của hội được cho là dựa trên nền tảng vận hành sẵn có của Ủy ban
Bảo tồn Phật giáo được vận động thành lập bởi cư
sĩ Trần Nguyên Chấn, dựa trên tư tưởng bảo tồn Phật giáo của Toàn
quyền Đông Dương Pasquier. Để được cấp phép vận hành Ủy ban
Bảo tồn Phật giáo, cư sĩ Trần Nguyên Chấn đã vận động xây
dựng chùa Linh Sơn, thư viện,
phòng đọc,
và vận động bà Karpeès trợ giúp về vấn đề pháp lý trong
giai đoạn xin giấy phép. Mặc dù HT.Khánh Hòa rời hội vào năm 1933 và Thích
học đường không thể đi vào hoạt
động do nhiều lý do khách quan, Hội Nam Kỳ Nghiên cứu
Phật học thật sự thành công trong việc vận hành thư viện, phòng đọc và
Tạp chí Từ Bi Âm.
Vai trò của chùa Linh Sơn
Như đã đề cập ở phần trước, chùa Linh Sơn
được thành lập dựa trên tinh thần bảo tồn Phật giáo An Nam của Toàn quyền
Đông Dương Pasquier và mong muốn khôi chấn lại Phật giáo nước nhà của cư sĩ Trần
Nguyên Chấn, HT.Khánh Hòa và các vị tôn túc khác. Chùa Linh Sơn đóng vai trò
quan trọng trong công cuộc chấn hưng Phật giáo Nam
Kỳ bởi: chùa Linh Sơn là trụ sở đầu tiên của Ủy ban
Bảo tồn Phật giáo, chùa Linh Sơn cũng là trụ sở
của Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học,
chùa Linh Sơn là nơi lưu xuất của nhiều anh tài Phật giáo,
và chùa Linh Sơn với Tạp chí Từ Bi Âm
đã đóng góp nhiều bài báo nhằm chấn hưng Phật giáo nước
nhà.
Như đã đề cập ở phần trước, Toàn quyền
Pasquier trong một chuyến kinh lý tại Tây Nam Bộ
đã chứng kiến sự ảnh hưởng mạnh mẽ của đạo Cao Đài đối với dân
bản xứ[9, tr. 25]. Cho nên, ông đề xướng thành lập một
ủy ban để bảo tồn Phật giáo trước
nguy cơ bị mất gốc tại An Nam[10]. Dựa trên tinh thần của
Pasquier, cư sĩ Trần Nguyên Chấn đã đứng ra quyên góp tài vật xây dựng chùa Linh
Sơn, và vào năm 1929, Trần Nguyên Chấn và HT.Khánh Hòa đã
xin được giấy phép vận hành Ủy ban Bảo tồn
Phật giáo tại chùa Linh Sơn. Ủy ban Bảo tồn
Phật giáo này, lúc sơ khai, chỉ có thư viện
(Pháp bảo phường) và phòng
đọc (Thích học đường).
Mục đích của Pháp bảo phường là
tàng trữ Đại tạng kinh tiếng Hán
và các kinh sách bằng tiếng Anh và tiếng
Pháp; trong khi Thích học đường
phục vụ việc nghiên cứu Phật lý. Theo những tài liệu đáng tin cậy, lúc chính
thức đi vào hoạt động vào tháng 12-1929, Pháp bảo
phường đang lưu trữ hơn 820 tập kinh sách tiếng Hán và
100 tập kinh sách tiếng Pháp[10]. Như vậy,
vai trò quan trọng đầu tiên của chùa Linh Sơn là nơi bảo tồn Phật giáo với phòng
lưu trữ và là nơi cho những người hữu tâm có cơ hội tiếp cận kinh sách
Phật giáo.
Vai trò quan trọng thứ hai của chùa Linh Sơn gắn liền với vai
trò của Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học. Khi Hội Nam
Kỳ Nghiên cứu Phật học được thành lập vào năm 1931, hội
đề ra các mục tiêu: bảo tồn và phát triển bổn tự Linh Sơn, tu bổ và
phát triển thư viện (Pháp bảo
phường), tăng cường tàng trữ kinh sách ở Pháp bảo
phường, và đẩy mạnh công tác dịch
thuật kinh sách từ chữ Hán, Anh và Pháp ra chữ Quốc ngữ, nhằm thỏa mãn tinh thần
khát khao cầu học của những người hữu tâm nhưng thiếu khả năng ngoại ngữ[4].
Như vậy, chùa Linh Sơn cũng đóng vai trò là trung tâm
dịch thuật kinh sách đầu tiên của phong trào chấn hưng Phật giáo,
chủ trương dịch tiếng Hán cùng các ngôn ngữ khác sang chữ Quốc ngữ.
Thứ ba, chùa Linh Sơn là cái nôi xuất thân của những bậc anh tài
Phật giáo: HT.Khánh Hòa, Sư Thiện
Chiếu, HT.Bích Liên, HT.Liên Tôn
và Pháp sư Trí Độ. Mặc dù những vị này chỉ làm
việc tại chùa Linh Sơn một thời gian ngắn, nhưng không thể phủ
nhận thời gian ở tại Linh Sơn đã giúp quý ngài
có những kiến thức và kỹ năng vững chắc hơn để tạo dựng
những hội Phật giáo khác. Điển hình, HT.Khánh Hòa và Sư Thiện Chiếu đã
có những bước đi sáng tạo trong việc lập Lưỡng Xuyên Phật học[56;
tr.52] và Hội Phật học Kiêm Tế[5].
Hai hội này được thành lập phần nào dựa trên những giá trị đã tồn tại của chùa
Linh Sơn trong giai đoạn trước 1945. Hay Pháp sư Trí Độ đã cùng cư sĩ Lê Đình
Thám thành lập Hội An Nam Phật học tại Huế. Có thể nói
kiến thức tích lũy từ việc công tác tại Hội Nam Kỳ
Nghiên cứu Phật học đã giúp Pháp sư Trí Độ trở thành trợ thủ đắc lực cho sự
thành tựu của An Nam Phật học Hội tại Huế [1, tr.253].
Cuối cùng, chùa Linh Sơn đóng vai trò quan trọng trong
việc phổ biến Phật lý tới những người hữu tâm. Tạp chí Từ Bi
Âm, cơ quan ngôn luận của Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật
học cũng như Ủy ban Bảo tồn Phật
giáo, thường xuyên phát hành những bài luận và bài dịch nhằm phổ biến
rộng rãi Phật lý tới quần chúng. Từ Bi Âm, với khổ in
16x24cm và có trung bình là 50 trang, ra đều đặn mỗi tháng hai kỳ vào ngày 1 và
ngày 15 mỗi tháng trong vòng sáu năm, tính từ thời điểm
phát hành số đầu tiên. Từ năm thứ 7 (1938) trở đi, Từ
Bi Âm chỉ ra mỗi tháng một kỳ. Nội dung của Từ Bi Âm đa dạng nhưng
thường bao gồm 7 mục: Luận về triết lý nhà Phật, Luân lý nhà Phật, Phiên dịch
kinh Phật, Lịch sử nhà Phật, Thời sự nhà Phật, Tiểu thuyết nhà Phật,
và Văn uyển[11]. Như vậy, vai trò
của chùa Linh Sơn là căn cứ vững vàng cho sự phát triển của Từ Bi Âm cũng
như sự truyền bá Phật lý tới quần chúng hữu tâm.
Vai trò của Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật
học
Như người viết đã đề cập trong phần
trước, mục đích thành lập của Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật
học là để bảo tồn và phát triển các cơ sở vật chất của chùa Linh Sơn như
Pháp bảo phường và
Thích học đường,
cũng như thúc đẩy việc dịch kinh sách từ Hán văn và Pháp
văn sang chữ Quốc ngữ[4]. Đây đều là những nhân tố để
thúc đẩy công việc phổ truyền Phật giáo cho cộng đồng, nhằm chấn hưng
Phật giáo. Vậy thì Hội Nam Kỳ
Nghiên cứu Phật học có vai trò như thế nào trong công cuộc chấn hưng Phật
giáo? Qua quá trình khảo cứu những tư liệu về công cuộc chấn
hưng nói chung và Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học nói
riêng, người viết cho rằng hội có hai vai trò chính yếu.
Vai trò chính yếu của hội là trở thành ngọn cờ tiên phong trong
phong trào chấn hưng Phật giáo giai đoạn 1920-1945; vai
trò thứ yếu của hội là trở thành nguồn động lực cho sự ra đời những hội Phật
giáo khác tại Nam Bộ trong giai đoạn 1920- 1945.
Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học
có thực sự giữ vai trò tiên phong trong
phong trào chấn hưng Phật giáo? Câu trả lời là không và
có. Về phương diện không,
người viết cho rằng trước khi Hội Nam Kỳ
Nghiên cứu Phật học được thành lập, HT.Khánh Hòa đã cho thành lập Hội Lục
hòa Liên hiệp và đưa ra bốn mục
tiêu cho công cuộc chấn hưng vào năm 1923[7]. Hơn
nữa, Ủy ban Bảo tồn Phật
giáo, tiền thân của Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học,
được đưa vào hoạt động năm 1930, với cương lĩnh chấn hưng Phật giáo bằng
cách lưu trữ Đại tạng kinh và
khuyến khích tín hữu gần xa nghiên cứu kinh sách[10].
Hai Hội này đã được thành lập trước Hội Nam Kỳ Nghiên cứu
Phật học và đều có những cương lĩnh để phục hưng Phật
giáo nước nhà. Do vậy nếu đánh giá
khách quan, hai hội này đã đóng
vai trò tiên phong trong phong trào chấn hưng Phật giáo.
Tuy nhiên xét kỹ, Hội Lục hòa Liên hiệp
chỉ được lập nên trên danh nghĩa và chưa từng đi vào hoạt động, còn Ủy ban
Bảo tồn Phật giáo thì không thể tách bạch ra khỏi Hội Nam
Kỳ Nghiên cứu Phật học, bởi vì nó chỉ là phần phát triển
mở rộng của Ủy ban Bảo tồn Phật
giáo mà thôi.
Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học
đã đóng vai trò tiên phong như thế nào? Hội cho ra những cương lĩnh và mục tiêu
hoạt động nhằm: lưu trữ Đại tạng kinh
từ nhiều ngôn ngữ, thúc đẩy nghiên cứu và dịch thuật Đại tạng
kinh ra chữ Quốc ngữ, lập trường Phật học và phổ truyền Phật lý tới người tín
tâm[7]. Những tiêu chí hay mục tiêu này cũng trở thành
cương lĩnh của hầu hết những hội Phât giáo được thành lập về sau,
như Long Xuyên Phật giáo Lương hữu Hội
(1932) tại chùa Bình An, Long Xuyên; Lưỡng Xuyên Phật học
Hội (1934) tại chùa Long Phước, Trà Vinh; Hội Phật học
Tương tế (1934) tại chùa Thiên Phước, Sóc Trăng;
Thiên Thai Thiền giáo tông Liên hữu Hội (1934) tại chùa Phước
An, Bà Rịa; và Hội Phật học Kiêm
tế
(1937) tại chùa Tam Bảo, Rạch Giá. Mặc dù mục tiêu và
cương lĩnh của những hội này không nhất nhất theo mục tiêu của Hội Nam Kỳ
Nghiên cứu Phật học, nhưng trên mặt bằng chung là tương đối giống với mục tiêu
của Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học[6,
tr. 579-580].
Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học
tạo động lực cho phong trào chấn hưng Phật
giáo như thế nào? Có rất nhiều bài viết của các vị tôn túc từ
mọi miền đất nước thể hiện mong muốn khôi chấn Phật giáo,
và trước khi Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học được thành
lập, họ đã đăng rất nhiều bài viết trên những tạp chí như: Thực
nghiệp dân báo,
Khai hóa nhật báo,
Đông Pháp thời báo, Báo Tràng An
và Báo Công luận... Điển hình
là những bài viết của HT.Tự Lai (Thái Nguyên), Sư Thiện Chiếu,
Sư Thanh Chuyên, cư sĩ Mộng Hoa và cư sĩ Nguyễn Mục Tiên[2,
tr.35]. Những bài viết của những người hữu tâm này dường như lột tả được nguyên
nhân cũng như đường lối chấn hưng để Phật giáo được tốt
hơn. Tuy vậy họ chỉ nói trên lý thuyết; và khi
thực sự bắt tay vào công việc chấn hưng Phật giáo
thì gặp rất nhiều khó khăn, ngay cả
HT.Khánh Hòa và Sư Thiện Chiếu cũng đã thất bại nhiều lần trong việc xin lập một
hội Phật giáo vào lúc bấy giờ[7].
Lê Nguyên Thảo[12] và Nguyễn Đại Đồng[3]
cho rằng sự thành lập các tổ chức, các hội Phật giáo tại Trung Kỳ
và Bắc Kỳ từ sau năm 1931 là cuộc vận động hưởng ứng cho
phong trào chấn hưng Phật giáo tại Nam Kỳ,
mà Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học là tiên phong. Tại
Trung Kỳ có hai hội được thành lập từ sau
năm 1931: An Nam Phật học Hội (1932) và Hội Đà thành
Phật học (1937), trong khi ở Bắc Kỳ
chỉ có một hội Phật giáo được thành lập vào giai đoạn
trước năm 1945: Hội Phật giáo Bắc
Kỳ[3].
Như vậy, Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học
đóng vai trò là ngọn cờ tiên phong và là động lực thúc đẩy sự thành lập những
hội nhóm Phật giáo, không những ở
khu vực Nam Kỳ mà còn truyền lửa cho phong trào
chấn hưng Phật giáo tại Trung Kỳ và Bắc
Kỳ trong giai đoạn trước năm 1945.
Tài liệu tham
khảo
1.
Thích Đồng Bổn chủ biên (1996), Tiểu sử danh Tăng Việt Nam, tập 1, Thành
hội Phật giáo TP.HCM
ấn hành, TP.HCM.
2.
Nguyễn Đại Đồng & Nguyễn Thị Minh (2007), Phong
trào
chấn hưng Phật giáo - Tư
liệu
báo chí Việt Nam từ 1927-1938,
NXB.Tôn
Giáo, Hà Nội.
3.
Nguyễn Đại Đồng (2013),
“Phật
giáo
thời
Pháp
thuộc
(1884-1945)”,
Tạp
chí
Nghiên cứu Phật giáo,
số 1, tr.21.
4.
Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học (1932), “Điều lệ và Quy tắc”, Từ Bi Âm, số
1, tr.36.
5.
Hội Phật học Kiêm
tế
(1937), “Điều lệ”, Tiến Hóa, số 10, tr.8.
6.
Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo
sử
luận
toàn tập,
NXB.Văn
Học, Hà Nội.
7.
Dương Thanh Mừng (2015),
“Các
tổ chức Phật giáo trong phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam trước năm 1945”,
Tạp
chí
Nghiên Cứu Tôn Giáo,
số 143, tr.43-59.
8.
Nguyễn Thị Thảo (2012),
“Báo
chí Phật giáo và phong trào chấn hưng Phật giáo nửa đầu thế kỷ XX”,
Tạp
chí
Khoa Học & Xã Hội,
số 172, tr.52-
66.
9.
Đinh Quang Tiến (2017), Giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống cư dân
Nam
Bộ,
luận
án
tiến
sĩ chuyên ngành Văn hóa học, Học viện Chính trị Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
10.
Nguyễn
Đại Đồng & Ninh Thị Sinh, Sự ra đời của
Hội
Nghiên
cứu Phật học Nam Kỳ.
Tham khảo tại
http://chuaxaloi.vn/thong-tin/su-ra-doi-cua-hoi-nghien-cuu-phat-hoc-nam-ky/2747.html.
11.
Thích
Không Hạnh (2015), Từ Bi Âm (tái
bản 2019).
Tham khảo tại
https://thuvienhuequang.vn/products/tu-bi-am-tai-ban-2019?fbclid=IwAR1rNAOgmW0t7PpwQj5UeDJxWJPZcvGUjno6Qo5bCrHdryNnPk7mqqlkbEk
12.
Lê
Nguyên Thảo (2017), Chấn
hưng
Phật
giáo.
Tham khảo tại
https://thuvienhoasen.org/a27398/chan-hung-phat-giao-viet-nam
13.
Lê Tâm Đắc (2012),
Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924-1954),
NXB.Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.