Nghi thức tang lễ thiền sư trong Thiền Uyển Tập anh
nghi thuc tang le
NGHI THỨC TANG
LỄ THIỀN SƯ TRONG THIỀN UYỂN TẬP ANH
Dương Thụy
Theo quan niệm Phật giáo, vạn
vật và con người đều được hình thành từ tứ đại (địa, thuỷ, hỏa, phong) và phải
trải qua quá trình thành, trụ, hoại, không. Nhưng khi nói riêng về con người,
người ta lại thường nhắc đến quá trình sinh, lão, bệnh, tử. Mục đích cuối cùng
của Thiền sư là đạt được sự giải thoát, không những giải thoát về tinh thần mà
còn giải thoát về thể xác, và mục tiêu đầu tiên là giải thoát khỏi vòng sinh,
lão, bệnh, tử.
Dù không phải tất cả nhưng việc
các tiểu truyện
trong Thiền
uyển tập anh thường
ghi “không bệnh mà tịch” để nói về sự quy tịch của Thiền sư là hoàn toàn có mục
đích.
Cách quy tịch của
Thiền
sư
Căn cứ vào ghi chép
của Thiền uyển tập anh, có thể phân loại thành ba dạng:
Thứ nhất: Thiền sư
không bệnh quy tịch. Thiền uyển tập anh có 64 tiểu truyện nhắc đến sự quy
tịch của các Thiền
sư, trong đó có 12 vị quy tịch mà không bệnh tật gì [1]. Việc ghi lại
Thiền
sư không bệnh mà mất thể hiện sự giải thoát khỏi vòng sinh, lão, bệnh, tử.
Thứ
hai: Thiền
sư quy tịch do bệnh tật, gồm có 11 Thiền sư [2].
Thứ
ba: Thiền
sư quy tịch do lý
do khác. Thiền
sư tự vẫn bằng cách tự thiêu, uống thuốc độc, như
Thiền
sư Đại Xả (tiểu truyện thứ 26): “Vào ngày 5 tháng hai năm Trinh Phù thứ năm,
Sư
phó chúc đệ tử xong rồi thuyết kệ rằng […] đến canh năm
Sư
thay trang phục uống thuốc độc mà quy tịch”;
hay hai Thiền
sư Bảo Tính, Minh Tâm (tiểu truyện thứ 11): “Tháng tư năm Thiên Thành thứ
bảy, hai Sư
định tự thiêu. Lý Thái Tông biết tin bèn mời hai
Sư
về kinh, hai Sư
bèn mở hội giảng kinh rồi cùng nhập
hỏa
quang tam muội”.
Cách quy tịch này thể hiện khát vọng giải thoát khỏi vòng sinh, lão, bệnh, tử.
Thứ tư: Thiền sư quy
tịch mà không được ghi chép cụ thể, gồm 38 vị.
Như vậy, cái chết của
các Thiền
sư có thể khác hoặc giống với cái chết người phàm tục. Nếu như người phàm phải
trải qua sinh, lão, bệnh, tử, thì một số
Thiền
sư vẫn phải trải qua quá trính đó. Trong số
Thiền
sư có bệnh mà mất, cũng có
Thiền
sư được ghi chép bệnh tật rõ ràng, như
Thiền
sư Thường Chiếu (tiểu truyện thứ 34) mắc bệnh như người phàm: “Ngày 24 tháng
chín năm Thiên Gia Bảo Hựu thứ hai,
Sư
nói bị đau tim, tập hợp chúng đệ tử thuyết kệ rằng […]”
(Nguyên
văn: “Thiên Gia Bảo Hựu nhị niên, cửu nguyệt nhị thập tứ nhật
Sư
thị tâm thống, tập chúng thuyết kệ vân […]”).
Ngay lời di ngôn của Bảo
Giác trong tiểu truyện
30 về
Thiền sư Tịnh Giới cũng có nói
Sư và người phàm không khác
nhau: “Sinh, lão, bệnh,
tử là lẽ thường nhiên của người đời, hã nhẽ ta có thể tránh được sao” (Nguyên
văn: “Sinh, lão, bệnh, tử thế chi thường nhiên, khải ngô độc miễn”).
Tang lễ Thiền sư trong Thiền
uyển tập anh
Việc thiên cư chính tẩm:
Trong tang
lễ thế tục, người nhà sắp mất thì được thiên cư ra chính tẩm.
Sách Thọ Mai gia lễ
[3] -
cuốn sách hướng dẫn tang lễ thế tục có viết: “Người xưa khi bệnh tật sắp mất thì
thiên cư ra chính tẩm, đầu quay phía Đông để nhận sinh khí, sẽ hỏi han người,
viết lấy di ngôn”[4]
(Nguyên văn: “Cổ nhân tật bệnh tương chung thời thiên cư chính tẩm đông thủ
dĩ thụ sinh khí”).
Còn với Thiền sư,
những
tiểu truyện không hề nhắc đến chi tiết “tật bệnh tương chung thiên cư chính
tẩm”. Các vị
dặn dò đệ tử ngay trong
tẩm thất hoặc ở một địa điểm nào đó khác. Tiểu truyện Thiền sư Thuần Chân (tiểu
truyện thứ 53) viết: “Ngày
7 tháng hai năm Ất Dậu niên hiệu Long Phù thứ nhất, Sư sắp quy tịch, đệ tử Bản
Tịch vào tẩm thất thỉnh ích, Sư bèn thuyết kệ rằng […]”
(Nguyên văn: “Long Phù nguyên niên Ất Dậu nhị nguyệt thất nhật, tương thị
tịch, đệ tử Bản Tịch nhập thất thỉnh ích, sư thuyết kệ vân […]”. Hay tiểu
truyện Thiền sư Hiện Quang (tiểu truyện thứ 38) viết: “Mùa
xuân năm Tân Tỵ niên hiệu Kiến Gia thứ 11, Sư sắp quy tịch, ngồi đoan trang trên
một phiến đá, thuyết kệ rằng […]”
(Nguyên văn: “Kiến Gia thập nhất niên Tân Tỵ xuân tọa thạch thượng, thuyết kệ
vân […]”). Như vậy khác với thế tục, các Thiền sư trước khi mất đều trong
tình trạng tỉnh táo và chủ động dặn dò đệ
tử ở tẩm thất,
chứ không “bệnh tật thiên cư chính tẩm”.
Việc chép di ngôn:
Trong Thiền uyển
tập anh, đa phần các tiểu truyện đều chép lại di ngôn của Thiền sư trước khi
quy tịch. Về nội dung, di ngôn của Thiền sư có thể là những lời giác ngộ, bàn
luận, lý giải về bản thể chân như, lẽ sinh tử…, hoặc cũng có thể đó chỉ là những
lời truyền đạt kinh nghiệm tu chứng. Hình thức của di ngôn có thể chỉ là một vài
câu nói nhắc nhở thông thường, có khi đó là một hoặc hai bài kệ thị tịch, cũng
có khi Thiền sư vừa nhắc nhở một vài câu vừa thuyết giảng sự giác ngộ bằng kệ
thị tịch. Trong Thiền uyển tập anh có 31 Thiền sư để lại di ngôn bằng
những bài kệ thị tịch. Có lẽ đó là những lời di ngôn đặc biệt của Thiền sư và
khác hẳn vời di ngôn của người thế tục. Nhưng vấn đề ở đây không phải là bàn về
nội dung hay hình thức của di ngôn, mà là bàn về vấn đề di ngôn của Thiền sư có
được chép lại hay không.
Đa
số các tiểu truyện đều ghi lại di ngôn của Thiền sư [5],
nhưng không vì thế mà kết luận các Thiền sư đều được chép lại di ngôn trước khi
mất. Sách Thọ Mai gia lễ có viết: “Cổ nhân tật bệnh tương chung thời
thiên cư chính tẩm, Đông thủ dĩ thụ sinh khí, giới nội ngoại an tĩnh (Người
xưa lúc bệnh tật sắp mất thì thiên cư ra chính tẩm, đầu quay hướng Đông để nhận
sinh khí, người nhà răn bảo trong ngoài an tĩnh), sẽ hỏi han người, viết lấy
di ngôn” [6]. Như vậy, trong tang lễ thế tục, người
bệnh sắp mất đều được người nhà hỏi han có dặn dò gì không, rồi ghi chép lại di
ngôn ấy. Khác với tang lễ thế tục, “đa phần cái chết của các Thiền sư dường
như đã được dự cảm, dự báo từ trước” [7], nên không
đợi đệ tử hỏi han, các Thiền sư luôn chủ động truyền lại “di ngôn”.
Có lẽ vì sự quy tịch đột ngột
như thế nên việc chép lại di ngôn trước khi Thiền sư quy tịch thật khó diễn ra.
Trong Thiền uyển tập anh chỉ
có một tiểu truyện nhắc
đến việc chép lại di ngôn
là tiểu truyện Thiền sư
Định Không: “Sư sắp quy tịch bèn nói với đệ tử Thông Thiện rằng: […]. Nói
xong, Thiền sư cáo biệt mà thọ chung, hưởng thọ 79 tuổi. Khi ấy là năm Bính Tý
niên hiệu Nguyên Hoà thứ ba đời Đường. Đệ tử Thông Thiện khởi dựng tháp ở phía
Tây chùa Lục Tổ, đồng thời ghi chép lại lời dặn dò của Thiền sư và chôn đi”
(Nguyên văn: “Sư tương quy tịch, ngữ đệ tử Thông Thiện viết […] Ngôn hất, cáo
biệt nhi chung, thọ thất thập cửu. Thời Đường Nguyên Hoà tam niên Bính Tý. Thông
Thiện ư Lục Tổ tự Tây khởi phù đồ thả chí kỳ chúc ngữ ế yên”. Từ đoạn
tiểu truyện trên, chúng ta giải đáp được những câu hỏi: (1) Các Thiền sư có được
chép lại di ngôn không? (2) Ai là người chép di ngôn? (3) Chép di ngôn khi nào?
Đương nhiên khi các Thiền sư không có con cái thì người chép di ngôn tất phải là
các đệ tử rồi, chỉ có điều đệ tử chép di ngôn sau khi Thiền sư đã được an táng,
đó là chi tiết khác với tang lễ thế tục.
Tư thế quy tịch:
Thông thường người
phàm tục khi qua đời thường được đặt tư thế nằm ngay ngắn, thong thả, như sách Thọ
Mai gia lễ viết: “Cổ nhân tật bệnh tương chung thời thiên cư chính tẩm […]
xem chân tay người cho thong thả, lấy bông để ngoài lỗ mũi, hễ bông chẳng thể
động ấy là khí tuyệt […] rồi giải chiếu xuống đất đặt người xuống một phút, lại
rước người lên”. Trong khi đó đa phần Thiền sư đều quy tịch ở tư thế ngồi chắp
tay, ngồi kiết-già, ngồi ngay ngắn… như Thiền sư Vô Ngôn Thông (tiểu truyện thứ
nhất): “Sư triệu Cảm Thành nói rằng […], nói xong Sư chắp tay mà mất” (Nguyên
văn: “Triệu Cảm Thành viết […] ngôn hất hợp chưởng nhi thệ”); Thiền sư
Thường Chiếu (tiểu truyện thứ 34): “Sư tập hợp chúng đệ tử, thuyết kệ rằng […]
bèn ngồi kiết-già mà mất” (nguyên văn: “Tập chúng thuyết kệ vân […] nãi
kiết-già nhi thệ”); Thiền sư Hiện Quang (tiểu truyện thứ 38): “Sư sắp quy
tịch, ngồi ngay ngắn trên một tảng đá thuyết kệ rằng […] rồi an nhiên mà hóa
(Nguyên văn: “Tương thị tịch đoan tọa thạch thượng thuyết kệ vân […] nãi an
nhiên nhi hóa”); Thiền sư Trì Bát (tiểu truyện thứ 52): “Sư sắp quy tịch bèn
thuyết kệ rằng […] thuyết kệ xong, sư ngồi ngay ngắn mà mất” (Nguyên văn: “Tương
thị tịch, kệ vân […] kệ hất đoan nhiên nhi thệ”).
Việc mộc dục và thay y phục:
Trong tang lễ thế
tục, mộc dục là một nghi lễ không thể thiếu đối với người mất. Trong các sách
gia lễ như Văn Công gia lễ (Trung Quốc), Hồ Thượng thư gia lễ, Thọ Mai
gia lễ, Văn Gia lễ tồn chân (Việt Nam) đều có mục “mộc dục” hướng dẫn làm lễ
tắm gội cho người mất. Khác với tang lễ thế tục, sau khi đã tắt thở, người mất
được con cái tắm gội và thay trang phục cho, “cha thì các con trai tắm gội cho,
mẹ thì các con gái tắm gội cho” (nguyên văn: “phụ tắc chư nam dục, mẫu tắc
chư nữ dục”- Thọ Mai gia lễ), còn các Thiền sư lại tự mình tắm gội và
thay y phục trước khi quy tịch, trong tình trạng hoàn toàn tỉnh táo, không phân
biệt Thiền sư là Tăng hay Ni, có bệnh hay không bệnh, ví dụ như: Thiền sư Vô
Ngôn Thông (tiểu truyện thứ nhất): “Một
hôm Sư không bệnh, tắm gội, thay trang phục, gọi Cảm Thành đến nói […], nói xong
chắp tay mà mất” (nguyên văn: “Nhất
nhật vô tật, mộc dục, dịch phục, triệu Cảm Thành viết […] ngôn hất hợp chưởng
nhi thệ”); Thiền sư
Đạo Hạnh (tiểu truyện thứ 51): “Sư
thay trang phục, tắm gội mình, rồi nói với môn đồ rằng […] nói xong, nghiễm
nhiên mà hóa (Nguyên văn: “Dịch phục tảo thân, vị kỳ đồ viết […] ngôn hất
nghiễm nhiên nhi hoá”; Ni sư Diệu Nhân (tiểu truyện thứ 64): “Sư
bèn gội tóc tắm rửa mình rồi ngồi kiết-già mà hóa” (Nguyên văn: “Nãi tịnh
phát tảo thân già tọa nhi thệ”).
Hình thức an táng:
Trong Thiền
uyển tập anh có 35 đoạn Hán văn ít nhiều thuật tả lại tang lễ
Thiền
sư. Các đoạn thuật tả thường rất ngắn gọn, chỉ thuật lại một vài thủ tục trong
tang lễ, chủ yếu nói về việc an táng. Trong tang lễ thế tục, hình thức an táng
duy nhất là thổ táng. Các sách gia lễ: Hồ thượng thư gia lễ, Thọ Mai gia lễ,
Lê Quý Đôn gia lễ, Thanh Thận gia lễ đều chỉ đề cập hình thức thổ táng.
Nhưng tang lễ Thiền
sư trong Thiền uyển tập anh thì khác, hình thức an táng có thể chia làm
ba loại (xét riêng những tiểu truyện có ghi lại việc an táng
Thiền
sư):
Thứ nhất: Hoả táng,
với 20 tiểu truyện [8] đề cập đến hình thức an táng này. Trong đó có đề cập đến
một nghi lễ Phật giáo là “trà tỳ thu xá-lợi”.
Trà tỳ
hay còn gọi là xà duy chính là nghi lễ
hỏa
táng sau khi quy tịch. Theo Thiền uyển tập anh, sau khi làm lễ trà tỳ
thu xá-lợi,
công việc tiếp theo
là dựng tháp và an vị xá-lợi.
Đa số tiểu truyện trong Thiền uyển tập anh không ghi cụ thể khoảng thời
gian giữa lúc quy tịch và
hỏa
táng, nhưng chắc chắn nghi lễ trà tỳ
không được thực hiện ngay sau khi thiền sư quy tịch, bởi lẽ còn một số thủ tục
khác như: điếu viếng, chuẩn bị đồ lễ… như ở tiểu truyện
Thiền
sư Chân Không, sau khi quy tịch, các đệ tử còn chuẩn bị đồ lễ, đưa
Sư
về quê rồi mới làm lễ trà tỳ:
“Môn nhân Quách Tăng thống chuẩn bị đầy đủ lễ vật, quay về bản quận làm lễ
trà tỳ”
(Nguyên
văn: “Môn
nhân Quách Tăng thống bị lễ vật quy bản quận trà tỳ”).
Với khoảng thời gian giữa lúc
hỏa
táng và xây tháp an vị xá-lợi,
Thiền uyển tập anh cũng không ghi chép rõ ràng. Đa số các tiểu truyện chỉ
cung cấp thông tin làm lễ trà tỳ
thu xá-lợi
rồi xây tháp. Có lẽ việc xây tháp được thực hiện ngay sau khi thu xá-lợi,
để kịp an vị xá-lợi
trong đó.
Tuy nhiên,
trường hợp Thiền sư Đạo Huệ (tiểu truyện thứ 18) lại khác: “Môn nhân Quách
Tăng thống làm lễ trà tỳ, tâm tang xong xuôi rồi xây tháp ở chùa Bảo Khám núi
Tiên Du” (Nguyên văn: “Trà tỳ tâm tang tất tháp vu Tiên Du sơn, Bảo Khám
tự”. Tiểu truyện không ghi thời gian để tang bao lâu, nhưng trong tang lễ
thế tục, quan hệ thầy trò để tâm tang ba năm [9], ngay ở
tiểu truyện Thiền sư Ngộ Ấn cũng nói đệ tử để tâm tang ba năm, như vậy sau ba
năm Quách Tăng thống mới tiến hành xây tháp. Điều đó cho thấy, việc xây tháp
không nhất thiết phải làm ngay sau khi hoả táng. Trường hợp Thiền sư Không Lộ
(tiểu truyện 21), sau khi thu xá-lợi Sư xong, xá-lợi được đệ tử chôn cất mà
không an vị trong tháp: “Môn nhân thu xá-lợi, chôn ở cửa chùa” (Nguyên
văn: “Môn nhân thu xá-lợi táng vu tự môn”). Cũng vẫn là loại hỏa táng,
nhưng đối với trường hợp tang lễ Thiền sư Minh Tâm và Bảo Tính có nét khác, hai
Thiền sư đều “tự thiêu” bằng hỏa quang tam muội [10], di
cốt trở thành thất bảo lưu lại chùa: “Hai Sư định thiêu thân thì được triều đình
thỉnh về, hai Sư bèn lập hội giảng kinh rồi cùng nhau nhập hỏa quang tam muội.
Dư hài và di cốt hai Sư đều trở thành thất bảo, có chiếu lưu tại chùa Trường
Thánh để cúng dàng” (Nguyên văn: “Tương phần thân, đắc thỉnh vu triều, toại
kiến giảng kinh hội, đồng nhập hỏa quang tam muội. Kỳ dư hài di cốt giai thành
thất bảo, hữu chiếu lưu Trường Thánh tự cúng dàng”). Như vậy, cùng một hình
thức hỏa táng, nhưng bước tiến hành, thời gian tiến hành một số thủ tục ở mỗi
tang lễ Thiền sư lại khác nhau, có Thiền sư được thu xá-lợi an vị trong tháp,
nhưng cũng có Thiền sư được thu xá-lợi rồi mai táng sau đó xây tháp, có Thiền sư
được đệ tử xây tháp sau khi mất, có Thiền sư lại được đệ tử xây tháp sau khi mãn
tang.
Thứ
hai: Thổ táng. Trong Thiền uyển tập anh có hai tiểu truyện đề cập
đến hình thức táng này, đó là tiểu truyện Thiền sư Hiện Quang và Chân Không.
Khác với các Thiền sư khác, hai Thiền sư này được đệ tử chôn cất mà không làm lễ
trà tỳ thu xá-lợi. Tiểu truyện Thiền sư Hiện Quang (tiểu truyện thứ 38) có viết:
“Môn nhân Đạo Viên chuẩn bị đủ lễ vật táng Sư trong hang núi” (Nguyên văn: “Môn
nhân Đạo Viên táng ư sơn quật”). Tiểu truyện Thiền sư Chân Không (tiểu
truyện thứ 62) cũng có viết đến chi tiết chôn cất Thiền sư: “Hoàng thái hậu cùng
công chúa Thiên Thành, đệ tử Ni sư Diệu Nhân đều đem dâng lễ vật. Qua hai ngày
sau, Thiền sư Nghĩa Hải chùa Đại Minh, Sa-môn được ban áo tử y Pháp Thành cùng
chúng đệ tử chuẩn bị lễ vật mai táng Sư, rồi xây tháp ở ngoài trai đường. Học sĩ
Nguyễn công Văn Cử phụng chiếu soạn văn khắc bia tại tháp” (Nguyên văn: “Hoàng
thái hậu cập Thiên Thành công chúa, đệ tử Diệu Nhân Ni sư giai tê tặng lễ. Việt
nhị nhật Đại Minh tự Nghĩa Hải Thiền sư, Tứ tử y Sa-môn Pháp Thành suất chúng bị
lễ táng chi, tháp vu trai đường chi ngoại. Học sĩ Nguyễn công Văn Cử phụng chiếu
soạn tháp minh”). Tiểu truyện Chân Không đã cung cấp các thông tin: 1. Một
là trước khi mai táng Thiền sư còn có lễ điếu viếng. 2. Hai là khoảng thời gian
giữa lúc quy tịch và lúc mai táng là khoảng trên hai ngày. 3. Sau khi chôn cất
xong, mộ Thiền sư cũng được xây tháp. 4. Địa điểm mai táng Thiền sư có thể ở
trong khuôn viên nhà chùa. Phải nói rằng, đây là tiểu truyện ghi chép về tang lễ
cụ thể nhất trong số các tiểu truyện có đề cập đến tang lễ.
Thứ
ba: Không mai táng. Theo ghi chép của Thiền uyển tập anh, có hai
Thiền sư là Đạo Hạnh và Thiền Nham sau khi quy tịch mà nhục thân không hủy nát,
không thực hiện thổ táng hay hỏa táng. Tiểu truyện Thiền sư Đạo Hạnh (tiểu
truyện thứ 51) có ghi lại: “Sư nói xong thì mất, đến nay nhục thân vẫn còn”.
Tiểu truyện Thiền sư Thiền Nham cũng viết: “Sư từ biệt xong thì mất thọ 71 tuổi,
đến nay hình hài Sư vẫn còn”.
Địa điểm an tang:
Trong tang lễ thế
tục, hình thức táng là thổ táng cho nên trước khi làm lễ mai táng thường có thủ
tục chọn đất táng cho phù hợp. Sách Văn Công gia lễ (Trung Quốc), Thọ
Mai gia lễ đều nói về việc này. Sách Thọ Mai gia lễ viết: “Sau ba
tháng thì mai táng, trước đó phải chọn một mảnh đất thích hợp có thể táng. Chu
tử nói rằng: “táng” là ý nói “tàng” vậy. Con cháu cất giấu di thể của ông cha
tất phải hết lòng cẩn trọng, thành kính, ý định làm phương kế khiến cho hình thể
ông cha được toàn thể một cách lâu dài bền vững, mà thần linh được an thì con
cháu được được thịnh, để mà việc tế tự không dứt” (Nguyên văn: “Tam nguyệt
nhi táng, tiền kỳ trạch địa chi khả táng giả. Chu tử viết táng chi vi ngôn tàng
dã, dĩ tử tôn nhi tàng kỳ tổ khảo chi di thể tất trí kỳ cẩn trọng thành kính chi
tâm định vi an cố cửu viễn chi kế sử kỳ hình thể toàn nhi thần linh đắc an tắc
tử tôn thịnh nhi tế tự bất tuyệt”).
Với
Thiền sư, địa điểm an táng thông thường là trong khuôn viên nhà chùa hoặc ở vùng
núi non. Có lẽ địa điểm an táng cho các Thiền sư cũng phải lựa chọn cho phù hợp
với quan niệm nhà Phật. Trong sách Thiền uyển tập anh (xét những tiểu
truyện có ghi lại địa điểm an táng) có năm Thiền sư được táng trong khuôn viên
nhà chùa như Mãn Giác được an vị xá-lợi trong tháp xây tại chùa Sùng Nham làng
An Cách, Đạo Huệ được an vị xá-lợi trong tháp xây tại chùa Bảo Khám núi Tiên Du,
Không Lộ được mai táng xá-lợi ở cửa chùa Nghiêm Quang, Chân Không được mai táng
ở ngoài trai đường chùa Chúc Thánh; có bốn thiền sư được táng ở vùng núi non như
Thiền Lão được an vị xá-lợi trong tháp xây tại cửa núi Thiên Phúc, Trí Bảo được
an vị xá-lợi ở cửa núi Du Hý, Hiện Quang được an táng tại hang núi Yên Tử, Pháp
Dung được an vị xá-lợi ở núi Ma Ni.
Người chủ trì tang lễ Thiền
sư Thiền sư:
Nói là chủ
trì tang lễ nhưng thực chất chỉ là chủ trì lễ an táng
Thiền
sư mà thôi, vì Thiền uyển tập anh chỉ ghi chép nhiều vào lễ an táng mà ít
ghi chép các lễ nghi khác.
Trong thế tục, tang lễ do con
cái tổ chức, đối với tang lễ Thiền sư thì việc tổ chức đa số đều do các môn đồ
đảm nhiệm. Xét riêng trong những tiểu truyện có ghi chép về lễ tang Thiền sư
trong Thiền uyển tập anh, có 14 Thiền sư [11] được
đồ đệ cử hành tang lễ. Nếu như trong tang lễ thế tục con trưởng làm chủ tang,
thì trong tang lễ Thiền sư, chủ tang có thể do đại đệ tử đảm nhiệm như Thiền sư
Vô Ngôn Thông (tiểu truyện thứ nhất), lễ trà tỳ, thu xá-lợi do Cảm Thành - đại
đệ tử đảm nhiệm (Nguyên văn: “Cảm trà tỳ thu xá-lợi”); cũng có thể do một
đệ tử được truyền tâm ấn đảm nhiệm như Thiền sư Thường Chiếu được đệ tử thứ hai
Thần Nghi - người được Thường Chiếu trao tâm ấn đảm nhiệm (Nguyên văn: “Đệ tử
Thần Nghi đẳng xà duy thu xá-lợi khởi tháp”); hoặc cũng có thể do một người
đệ tử có quan tước chủ trì như Thiền sư Đạo Huệ được môn nhân là Quách Tăng
thống cử hành tang lễ (Nguyên văn: “Môn nhân Quách Tăng thống bị lễ vật, quy
bản quận trà tỳ”), Giới Không được môn nhân đệ tử là Châu mục Lê công Kiếm,
Phòng át sứ Hán công Đinh làm lễ trà tỳ thu xá-lợi, dựng tháp, đắp tượng (Nguyên
văn: “Môn nhân đệ tử Châu mục Lê công Kiếm, Phòng át sứ Hán công Đinh trà tỳ
thu xá-lợi khởi tháp tố tượng”).
Ngoài ra, các Thiền sư từng có
quan hệ giao lưu với quan lại và có công với triều đình được triều đình, quan
lại tổ chức tang lễ, như Thiền Lão được vua sai sứ giả đến cử hành tang lễ: “Nhà
vua vô cùng thương tiếc, ngự chế thơ ai vãn, sắc sai sứ giả làm trai lễ trọng
hậu, viếng tặng đồ lễ, kết đàn xà duy thu linh cốt dựng tháp ở cửa núi” (Nguyên
văn: “Đế thâm điệu tích, ngự chế thi ai vãn, sắc trung sứ hậu trai, tặng lễ,
kết đàn xà duy thu linh cốt, tháp vu sơn môn”), Mãn Giác được công khanh làm
lễ trà tỳ thu xá-lợi (Nguyên văn: “Công khanh các tê hương tín trà tỳ thu
xá-lợi”), Quảng Nghiêm được Bằng Giáng Tường - Thượng thư Bộ binh làm lễ xà
duy thu linh cốt (Nguyên văn: “Bằng công xà duy khởi tháp”, Thuần Chân
được Phụ quốc Thái bảo Cao công Tối chủ trì việc xà duy, xây tháp (Nguyên văn: “Phụ
quốc Thái bảo Cao công Tối chủ trà duy sự kiến tháp”), Chân Không được Thiền
sư Nghĩa Hải chùa Đại Minh và Sa-môn Pháp Thành cùng đồ chúng cử hành lễ an táng
(Nguyên văn: “Đại Minh tự Nghĩa Hải Thiền sư, tứ tử y Sa-môn Pháp Thành suất
chúng bị lễ táng chi”.
Việc môn nhân đệ tử để tang
Thiền sư:
Trong tang
lễ thế tục, việc để tang là một việc quan trọng để phân biệt thứ tự quan hệ trên
dưới thân sơ với người mất.
Chính vì thế, các quy tắc, thứ
bậc để tang đều được đề cập rất nhiều trong các sách gia lễ như Hồ thượng thư
gia lễ, Thọ Mai gia lễ, Thanh Thận gia lễ… Trong sách Thiền uyển tập anh chỉ
nói đến một quan hệ để tang là quan hệ thầy trò. Như trên, trong tang lễ thế
tục, học trò để tang thầy theo hạng tâm tang ba năm, thì trong tang lễ Thiền sư
môn nhân đệ tử để tang Thiền sư cũng như thế. Trong Thiền uyển tập anh, chỉ
có hai tiểu truyện ghi lại việc môn nhân để tang Thiền sư như thế nào, đó là
tiểu truyện Thiền sư Ngộ Ấn (tiểu truyện thứ 17): “Sư thuyết kệ xong thì vui
vẻ mà quy tịch, thọ 69 tuổi, môn nhân tâm tang ba năm” (Nguyên văn: “Kệ
tất, di nhiên nhi thệ, thọ lục thập cửu, môn nhân tâm tang tam niên”); tiểu
truyện Thiền sư Đạo Huệ (tiểu truyện thứ 18): “Môn
nhân Tăng thống họ Quách chuẩn bị lễ vật về quận nhà làm lễ trà tỳ, tâm tang
xong xây tháp ở chùa Bảo Khám, núi Tiên Du”
(Nguyên văn: “Môn nhân Quách Tăng thống bị lễ vật, quy bản quận, trà tỳ, tâm
tang tất tháp vu Tiên Du sơn Bảo Khám tự”).
Việc điếu viếng, tặng phong,
sắc thuỵ:
Đa số
Thiền
sư lúc sinh thời đều có quan hệ giao lưu với
quan
lại triều đình về các
mặt văn hóa
chính trị, cho nên trong tang lễ
Thiền
sư, ngoài sự có mặt của môn nhân để tử,
Tăng
chúng thì còn có sự tham dự điếu vãn của vua quan, quý tộc.
Cũng như tang lễ thế tục, quan
lại hay người có công với triều đình đều được vua, quan lại hoặc sứ giả do vua
cử đến điếu viếng. Thọ Mai gia lễ cũng có đề cập đến nghi thức khi sứ giả
đến viếng: “Sứ giả đến, từ chủ tang trở xuống đều ngừng khóc, bỏ thôi điệt,
thay mũ áo, ra ngoài cửa lớn dẫn sứ giả vào” (Nguyên văn: “Sứ giả chí,
tang chủ dĩ hạ chỉ khốc, khử thôi điệt, dịch quan phục xuất vu đại môn ngoại dẫn
sứ giả nhập”. Trong Thiền uyển tập anh tuy không đề cập đến những
nghi thức, nghi lễ điếu viếng, hay đón vua quan, sứ giả như thế nào, nhưng cũng
đã đề cập đến việc những ai đến viếng, đồ điếu viếng gồm những gì. Trong Thiền
uyển tập anh có ghi lại 9 Thiền sư được vua quan, công khanh quý tộc, hoặc
được vua sai sứ giả đến viếng, trong đó:
-
5 Thiền sư được vua quan làm thơ
truy tán, truy tặng: Thiền Lão được vua Lý
Thái Tông tặng thơ ai vãn;
Sùng Phạm, Vạn Hạnh được Lý
Nhân Tông tặng thơ truy tặng;
Quảng Trí, Chân Không
được Đoàn Văn Khâm làm thơ vãn.
-
1 Thiền sư được vua sai đến cử
hành tang lễ: Thiền Lão.
Hầu hết các tiểu truyện chỉ ghi
người đến điếu vãn mà không ghi rõ đồ viếng là gì. Nhưng căn cứ vào tiểu truyện
Thiền sư Thiền Lão (tiểu truyện thứ 8) có viết:
Nhà
vua vô cùng thương tiếc, ngự chế thơ ai vãn, sắc sai sứ giả làm lễ trai trọng
hậu, tặng lễ vật, kết đàn xà duy”, đã cho thấy ngoài viếng bằng thơ ai vãn, truy
tán, truy tặng… còn viếng bằng trai lễ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn không rõ trai lễ
là những vật gì.
Một vấn đề nữa trong tang lễ
Thiền sư đó là sắc thuỵ. Thọ Mai gia lễ có đề cập đến việc đặt tên thuỵ
của người mất, nhưng chưa rõ trong tang lễ thế tục có đặt tên thuỵ cho người mất
hay không. Tuy nhiên, theo Văn Công gia lễ tồn chân của Đỗ Huy Uyển, ở
phần Gia lễ khảo chính, mục Thỉnh thuỵ, tác giả phản đối việc tự
đặt tên thuỵ, đồng thời đã cung cấp thông tin rằng trong tang lễ thế tục có việc
tự đặt tên thuỵ cho người mất. Tác giả viết: “Thuỵ là tên ban phát từ bậc quân
thượng, không phải là kẻ có tước vị thì không dám tiếm vượt, nay thế tục có kẻ
lại đặt tên thuỵ để cáo cho người sắp mất biết, thật là trái lễ”. Nếu như trong
tang lễ thế tục con cháu tự đặt tên thuỵ cho người mất, thì trong tang lễ Thiền
sư, việc đặt tên thuỵ là do nhà vua ban. Trong Thiền uyển tập anh chỉ có
một Thiền sư khi qua đời được vua sắc thuỵ, đó là Mãn Giác. Mãn Giác chính là
tên thuỵ do vua Lý
Nhân Tông sắc tặng. Theo Thiền uyển tập anh,
chỉ có cái tên Mãn Giác là tên thuỵ, một số tên khác là do thầy dạy hoặc do
người đời đặt cho, ví dụ Vô Ngôn Thông là tên do người đời đặt, Cảm Thành là tên
do Thiền sư Vô Ngôn Thông đặt cho, Thiện Hội là tên do Thiền sư Cảm Thành đặt
cho, còn ngoài ra tên các Thiền sư khác đều không rõ do đâu mà gọi vậy.
Việc hương khói, cúng giỗ:
Việc cũng
giỗ Thiền
sư, sách Thiền uyển tập anh không nói đến, nhưng việc chăm lo hương khói
sau này thì có đề cập. Một
Thiền
sư được nhà vua xuống chiếu cho lưu linh cốt tại chùa để cúng dàng: tiểu truyện
Thiền
sư Bảo Tính, Minh Tâm (tiểu truyện thứ 11): “Dư
hài, di cốt hai Sư
đều thành thất bảo, có chiếu lưu thất bảo đó tại chùa Trường Thánh để cúng
dàng”. Hai Thiền
sư được vua miễn thuế ruộng một số hộ để lấy tiền hương đèn cúng lễ sau này:
Không Lộ và Giác Hải lần lượt được vua Lý Nhân Tông miễn thuế 20 hộ và 30 hộ để
lấy tiền hương đèn cho Sư
sau này. Hai vị được vua xuống chiếu mở rộng chùa thờ tự là
Thiền
sư Không Lộ, Thiền Lão. Một
Thiền
sư được vua lập đệ tử để phụng sự
hương đèn là Thiền
sư Thiền Lão.
Tuy không được nói đến
nhưng thông qua việc triều đình mở rộng chùa thờ tự, miễn thuế lấy tiền hương
khói, lập đệ tử phụng sự hương đèn… đã cho thấy chuyện hương đèn, cúng giỗ các
Thiền
sư sau khi mất được coi trọng, giống như trong thế tục.
Khái quát các bước tiến hành
tang lễ Thiền sư
-
Từ lúc sắp quy tịch cho đến khi
quy tịch, mọi thủ tục do Thiền sư tự làm: Thiền sư tự mộc dục và thay y phục;
Thiền sư tâp hợp đệ tử
vào tẩm thất truyền di ngôn.
-
Từ lúc Thiền sư quy tịch đến khi
an táng: Tăng chúng, vua quan, quý tộc điếu viếng (lễ vật: trai lễ, thơ điếu
vãn);
triều đình, đệ tử tổ chức lễ
chay;
đệ tử hoặc quan lại sắm sửa lễ
vật để làm lễ trà tỳ;
đệ tử hoặc vua quan lập
đàn trà tỳ, thu xá-lợi, hoặc mai táng, xây tháp an vị xá-lợi (địa điểm an táng:
trong khuôn viên chùa hoặc vùng núi non);
đệ tử chép di ngôn và
chôn đi.
-
Sau an táng, Thiền sư được cúng
giỗ hương đèn sau này. Đối với những Thiền sư có công với triều đình: nhà vua
cho sửa sang mở rộng chùa thờ tự;
nhà
vua miễn thuế cho dân lấy tiền hương đèn cúng giỗ;
nhà
vua lập để tử đảm nhiệm phụng sự hương đèn.
Có thể nói,
theo Nguyễn Hữu Sơn (trong Loại hình tác phẩm Thiền uyển tập anh), cách
quy tịch của các Thiền
sư đã có sự “lạ hóa”.
Tuy nhiên, những ghi chép về tang lễ
Thiền
sư lại có phần chân thực, không hề được lạ
hóa
như sự quy tịch, căn cứ theo chú thích của Lê Mạnh Thát, nhiều chi tiết trong
việc thuật tả lại tang lễ
Thiền
sư trùng với những sự kiện trong Đại Việt sử ký
toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên.
Những ghi chép đó tuy rất ngắn gọn, nhưng có giá trị với nghiên cứu tang lễ
Thiền
sư.
Thông qua những phân
tích và sự khái quát các thủ tục tang lễ
Thiền
sư, có thể nhận định văn
hóa tang lễ
Thiền
sư đã hình thành từ thời Lý. Tang lễ
Thiền
sư đã có một hệ thống các thủ tục từ khi
Thiền
sư sắp quy tịch đến khi được an táng và sau khi an táng.
Vì là tang lễ Thiền sư cho nên
các thủ tục tang lễ có đặc điểm riêng phân biệt với tang lễ thế tục như lễ trà
tỳ, thu xá-lợi, xây tháp, chép lại di ngôn và chôn đi sau khi đã an táng… Tuy
nhiên, trình tự tiến hành một số bước trong tang lễ Thiền sư như trình tự viếng
trước an táng sau và một số thủ tục như chép lại di ngôn, hương khói sau này
giống với tang lễ thế tục… Việc đệ tử để tang Thiền sư theo hạng tâm tang ba năm
là sự ảnh hưởng bởi Nho giáo. Như vậy, cùng với sự giao thoa văn hóa Phật giáo
và Nho giáo, tang lễ Thiền sư cũng có sự ảnh hưởng bởi Nho giáo, trở thành một
lớp văn hóa tang lễ Thiền sư trong hệ thống văn
hóa
tang lễ Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Lê Mạnh Thát
(2005), Nghiên cứu về
Thiền uyển tập anh, NXB.Phương Đông.
2. Nguyễn Duy Cần
(1971), Phật học tinh hoa, NXB.Khai
Trí.
3. Nguyễn Huệ Chi
(1987), Mãn Giác và bài thơ Thiền nổi tiếng của ông, Tạp chí Văn
Học
số 5, tr.67-72.
4. Nguyễn Hữu Sơn
(2002), Loại hình tác phẩm Thiền uyển tập anh, NXB.KHXH.
5. Nguyễn Lang
(2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB.Văn
Học.
6. Nguyễn Phạm Hùng
(1995), Thơ Thiền những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật, NXB.Đại
học Quốc gia Hà Nội.
7. Phan Kế Bính
(2004), Việt Nam phong tục, NXB.TP.Hồ
Chí Minh.
8. Thục Anh (2007), Phong
tục cổ truyền người Việt, NXB.Văn
hóa Thông tin.
Chú thích:
[1] Đó là các
Thiền
sư Vô Ngôn Thông, Cảm Thành, Viên Chiếu, Bản Tịnh, Giác Hải, Vạn Hạnh, Đạo Hạnh,
Thiền Nham, Giới Không, Pháp Dung, Trí Nhàn, Viên Thông.
[2] Đó là các
Thiền
sư Định Hương, Thông Biện, Mãn Giác, Đạo Huệ, Tín Học, Tịnh Lực, Trí Bảo, Trường
Nguyên, Thường Chiếu, Khánh Hỷ,
Ni sư Diệu Nhân.
[3] Người viết sử dụng
bản Thọ Mai gia lễ in khắc năm Tân Tỵ,
đời vua Khải Định (1917) ký
hiệu Vhv.108 Thư viện Viện Nghiên cứu Hán
Nôm.
[4] Những chữ “sẽ hỏi
han người, viết lấy di ngôn” viết bằng chữ Nôm.
[5] Trong Thiền
uyển tập anh có 44 tiểu truyện đề cập đến việc
Thiền
sư có để lại di ngôn, chỉ trừ những tiểu truyện
Thiền
sư Vân Phong, Thiền Lão, Bảo Tính, Minh Tâm, Quảng Trí, Thông Biện, Biện Tài,
Không Lộ, Thông Sư, Tức Lự, Ứng Vương, Pháp Hiền, Thanh Biện, Pháp Thuận, Ma Ha,
Đạo Giả, Sùng Phạm, Định Huệ, Minh Không, Đạo Lâm, Viên Học, Tịnh Thiền, Viên
Thông.
[6] Những chữ “sẽ hỏi
han người, viết lấy di ngôn” viết bằng chữ Nôm
[7] Nguyễn Hữu Sơn
(2002), Loại hình tác phẩm Thiền uyển tập anh, NXB.KHXH,
tr.89
[8] Đó là các tiểu
truỵên Thiền
sư Vô Ngôn Thông, Thiền Lão, Cứu Chỉ, Mãn Giác, Bảo Tính, Minh Tâm, Đạo Huệ, Bảo
Giám, Không Lộ, Trí Bảo, Quảng Nghiêm, Thường Chiếu, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Định
Không, Vạn Hạnh, Trì Bát, Thuần Chân, Giới Không, Pháp Dung.
[9] Sách Lễ
ký thiên Đàn
cung thượng
viết: “Sự sư vô phạm vô ẩn, tả hữu tựu dưỡng vô phương, phục cần chí tử, tâm
tang tam niên”. Hay Sử ký viết:
“Khổng Tử táng Lỗ thành bắc Tứ thượng,
đệ tử giai phục tam niên, tam niên tâm tang tất, tương quyết nhi khứ”.
[10] Hoả quang tam
muội là một loại thiền định làm cho thân thể bốc lửa.
[11] Đó
là các Thiền sư Vô Ngôn thông, Cứu Chỉ, Đạo Huệ, Bảo Giám, Tri Bảo, Thường Chiếu,
Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Định Không, Trì Bát, Giới Không, Pháp Dung, Viên Học, Không Lộ,
Hiện Quang.