Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc
phan quan tu ky
PHẢN QUAN TỰ KỶ BỔN PHẬN SỰ, BẤT TÙNG THA ĐẮC
Chân Hiền Tâm
Một lần…
Vua Trần Nhân Tông hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ:
- Bổn phận tông chỉ là gì?
Tuệ Trung Thượng Sĩ trả lời:
- Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.
Hỏi tông chỉ mà là tông chỉ bổn phận, không phải tông chỉ của một thiền phái.
Tông chỉ của một thiền phái là đường hướng chủ yếu mà thiền phái đó nhắm đến.
Như tông chỉ của Tổ sư thiền, Lục Tổ dạy trong kinh Pháp bảo đàn, lấy vô
niệm làm tông. Tức mọi thực hành của tông phái ấy đều lấy vô niệm làm chỗ quy về.
Chưa được vô niệm thì hành sao đó để được vô niệm. Các tông phái thuộc Tổ sư
thiền đều lấy vô niệm làm tông.
Tông chỉ bổn phận, cũng là nói đến đường hướng chủ yếu, nhưng không phải của một
thiền phái mà trong phạm vi bổn phận của người tu pháp thiền đó. Tức ngoài tông
chỉ của tông phái mà một thiền sinh phải hướng đến, mỗi thiền sinh của thiền
phái ấy còn phải lấy thêm tông chỉ này làm việc bổn phận. Đó là phản quan tự kỷ,
bất tùng tha đắc. Vì sao? Vì việc này giúp cho thiền sinh đạt được tông chỉ của
thiền phái.
Phản quan tự kỷ bổn phận sự
Phản quan là
xoay lại quan sát, xem xét, quán chiếu. Hòa thượng Trúc Lâm dịch phản quan là
soi sáng. Sáng đây không phải ánh sáng (quang) mà mang nghĩa soi tỏ. Tức quan
sát hay xem xét một cách thông tỏ, rõ ràng.
Phản
còn có nghĩa là nghịch, là ngược lại. Sao nói đến việc ngược lại? Vì bình thường
chúng sinh chỉ một mực hướng ngoại. Mở mắt ra là đã thả rong tâm thức theo ngoại
cảnh. Giờ nói phản quan là muốn nói thay vì hướng ra, hãy quay vào. Quay vào đâu?
Thân và tâm mình. Của mình, không phải của người khác, nên nói phản quan tự
kỷ. Quay lại quan sát chính mình.
Chính mình, cái gọi là tự kỷ, bao gồm hai phần, thân và tâm. Thân là sắc.
Tâm là thọ, tưởng, hành, thức. Gọi chung là ngũ uẩn. Coi thân này thế nào, tâm
này đang hiện khởi ra sao? Từng niệm, từng niệm mà coi ngó chúng. Bát-nhã tâm
kinh nói: “Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời chiếu
kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách”. Bồ-tát khi hành sâu Bát-nhã
Ba-la-mật-đa, soi thấy thân tâm này đều không. Nếu không quay lại quán xét thì
sao có thể soi thấy thân tâm này đều không? Vì thế phải xoay lại, phải phản quan
tự kỷ. Vì là pháp yếu cho toàn thể người tu thiền, nhất là với người mới bắt đầu,
nên chỉ nói “Phản quan tự kỷ bổn phận sự”, chưa nói rõ như Bát-nhã tâm kinh
là thân và tâm đều không. Còn muốn thấy thân tâm này đều không thì phải hành sâu.
Hành chưa sâu thì chưa thấy có gì không. Chỉ thấy rất nhiều thứ xuất hiện mà
trước giờ do hướng ngoại nên không thể thấy.
Bổn phận sự
là việc bổn phận, là phận sự chính của người tu. Làm gì làm, xoay lại nhìn vào
thân tâm mình mới là việc chính yếu trong ngày. Đó là bổn phận chính của người
tu, không có việc gì khác. Không phải ăn cơm uống nước là phận sự chủ yếu. Khi
ăn cơm uống nước, quán xem thân tâm mình thế nào mới là việc chủ yếu. Và dù ngồi
thiền, làm công quả là phận sự hằng ngày của mình thì cũng chưa phải là chủ yếu.
Quán xem thân tâm mình thế nào khi ngồi thiền và làm công quả mới là bổn phận
chủ yếu. Ai là thiền sinh đều phải y đó thực hành. Thực hành không bỏ sót, thực
hành trong từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây, trên từng sát-na, gọi là
bổn phận sự.
Bất tùng tha đắc
Không chỉ có phần “Phản quan tự kỷ bổn phận sự” mà tiếp sau còn phần “Bất tùng
tha đắc”, không từ nơi khác mà được. Đây là nêu lý do vì sao phải phản quan tự
kỷ.
Vua Trần Thái Tông lên tận núi Yên Tử gặp Thiền sư Trúc Lâm.
Ngài thưa:
- Trẫm còn thơ ấu, đã sớm mất mẹ cha, chơ vơ đứng trên sĩ dân, không có nơi nào
để nương tựa. Lại nghĩ đến sự nghiệp đế vương đời trước hưng phế bất thường nên
mới vào đây, chỉ muốn cầu thành Phật, chẳng muốn tìm gì khác.
Thiền sư Trúc Lâm trả lời:
- Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm. Nếu tâm lắng lặng trí tuệ xuất
hiện, đó chính là Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật
ngay tại chỗ, không cần đi tìm cực khổ ở bên ngoài.
Mọi thứ thật rõ ràng.
Giải thích nguyên do vì sao phải phản quan tự kỷ và vì sao phản quan tự kỷ lại
là việc bổn phận của người tu, nhất là tu thiền và là thiền Phật giáo.
Đơn giản vì...
Phật ở tại tâm, chẳng thể tìm kiếm ở bên ngoài. Trong núi không có Phật. Ngoài
kia cũng không có Phật. Không ở đâu có Phật. Phật ở trong tâm. Đầu tiên phải
nhận rõ cái gốc Phật là ở đó. Nhận đúng rồi thì mới có phương hướng thực hành
cho quá trình tiếp theo. Nói
cách khác, “Tất cả muôn pháp do tâm khởi. Nếu hay phản quán tâm tánh, không
thấy có nguồn tâm, liền biết các pháp đếu không căn bản”.
Tất cả đều sẽ được thấu tỏ tận gốc, một khi quay lại quán chiếu tâm mình.
Phật ở tại tâm
Vậy vì sao Thiền sư Trúc Lâm phải lên tận núi Yên Tử tu hành, sao không ở chốn
thị thành tu hành cũng được? Sao Phật đặt ra vấn đề xuất gia cho người muốn tu
giải thoát? Sao Phật dạy chư Tăng đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến
ngôi nhà trống, và ngồi kiết-già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt? Vì
đó là duyên giúp việc quay vào được thuận lợi, là duyên giúp điều phục cái tâm
quen hướng ra ngoài của mình. Đa phần đều phải như thế. Nhưng không phải là tất
cả. Mọi thứ còn tuỳ vào hành nghiệp cũng như nguyện lực của người tu. Như duyên
của Thiền sư Trúc Lâm ở núi thì ngài ở núi. Duyên của Trần Thái Tông ở thị thành
thì ngài ở thị thành. Duyên của Trần Nhân Tông lúc ở thị thành thì ở thị thành,
lúc ở núi thì ở núi. Mọi thứ là tuỳ duyên. Duyên thế nào thuận thế ấy mà phản
quan. Ở núi cũng phản quan. Ở thị thành cũng phản quan. Vì phản quan thì mới có
thể hàng phục vọng tâm, chân Phật hiển bày, trùm khắp tất cả.
Vì Phật ở tự tâm nên muốn giải thoát, muốn thành Phật, phải phản quan tự kỷ và
phản quan tự kỷ phải là việc bổn phận. Bởi nếu không đặt việc đó thành bổn phận
chủ yếu thì khó mà hàng phục được dòng tương tục, lực hướng ngoại, lực dính mắc,
v.v. để Phật tâm có thể hiển lộ hoàn toàn.
Quay lại quán xét
thân tâm mình
Bài kinh dạy quán xét
thân tâm, làm nền tảng căn bản cho các pháp môn sau này y đó lập nên, là kinh
Niệm xứ. Niệm xứ có bốn phần: quán thân, quán thọ, quán tâm, quán pháp, nên
còn gọi là Tứ niệm xứ. Mỗi phần đều có chữ quán ở trước. Tuy không phải quan,
nhưng vẫn mang nghĩa thấy hay quan sát, quán xét. Vì chữ Hán đều là
觀.
Âm Hán thì tùy duyên mà lúc gọi quan, lúc gọi quán, nghĩa thì có khi khác, có
khi không. Kinh thì dùng từ tuệ tri khi nói đến việc này.
Mục đích của việc
quán này là giúp cho phàm phu vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu
chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là con đường độc nhất đưa đến sự thanh tịnh.
Phật dạy như thế trong bài kinh số 10 thuộc kinh Trung
bộ,
bài kinh Niệm xứ.
Nói độc nhất không có
nghĩa chỉ có pháp đó mới đưa đến sự thanh tịnh. Độc nhất là nói đến phần tinh
thần không thể thiếu khi các tướng tùy duyên xuất hiện. Tính duyên khởi của pháp
cho phép việc này xảy ra. Tức tùy căn cơ chúng sinh của từng thời mà xuất hiện
các pháp môn khác nhau, chỉ không lìa tinh thần chính này là được. Pháp môn nào
đáp ứng được tinh thần đó thì dù tướng hành có khác thế nào vẫn không khác kinh
Niệm xứ.
Tinh thần chính được
nói trong kinh Niệm xứ là gì? Tất cả mọi hành xử đều cốt hiển bày cái gọi
là tuệ tri. Tuệ tri là sự soi tỏ của cái biết. Đó là dụng của chân tâm. Nương đó
hàng phục dòng vọng tưởng. Nên nói "Vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành
tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn".
Vì sao phải tuệ tri
như thế?
Vì chân không ngoài
vọng, nhưng chúng sinh chỉ một bề theo vọng bỏ chân, chấp vọng cho là chân. Do
việc đó mà lưu chuyển mãi trong sinh tử khổ đau. Giờ dùng các thứ quán này,
nương đó có thể hàng phục được dòng vọng niệm.
Với chư vị Nhị thừa,
hàng phục dòng vọng niệm là dứt trừ dòng hiện hành đang tương tục trong tâm. Dứt
trừ được thì Niết-bàn hiện tiền, sinh tử chấm dứt. Đây là quả vị của A-la-hán và
Bích Chi Phật.
Với Bồ-tát, hàng phục
dòng vọng niệm là tuệ tri được bản chất của dòng vọng niệm đó. Một khi vọng đã
trở thành đối tượng được quán sát thì cũng có nghĩa hành giả không còn bị vọng
dẫn chạy, có thể hàng phục được lực của dòng vọng niệm, thứ mà chư Phật gọi là
lực nghiệp. Hàng phục được thì vọng hiện nguyên hình là vọng, chân ngay đó hiển
bày. Vọng lúc này trở thành diệu dụng của chân thể nhiệm mầu.
Kinh Niệm xứ
dạy bốn phần: quán thân, quán thọ, quán tâm, quán pháp. Đây thu gọn thành hai
phần là quán thân và quán tâm, vừa phù hợp với tinh thần mà Bát-nhã tâm kinh
đã nói, vừa tương ưng với các pháp môn mà các bậc cổ đức sau này đã triển khai
cho chúng sinh.
Quán thân
Trong phần quán thân,
đầu tiên Phật dạy quán hơi thở. Kế là thực hành chánh niệm trong mọi oai nghi.
Sau nữa là quán sự bất tịnh của thân khi còn sống và khi đã chết, có thêm phần
quán tứ đại, là thứ tạo nên thân này.
1. Quán hơi thở
Là coi xem hơi thở
của mình ra vào thế nào. Nó thế nào ghi nhận y thế ấy, không thêm, không bớt,
cũng không tác ý dẫn hơi thở dài ra hay tác ý dẫn hơi thở đi vòng vòng, v.v.
Kinh ghi: “Tỉnh giác vị ấy thở vô. Tỉnh giác vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy
tuệ tri tôi thở vô dài. Thở ra dài, vị ấy tuệ tri tôi thở ra dài v.v…”. Tỉnh
giác là không ngủ, không lơ mơ, không ngồi quán hơi thở mà tâm nghĩ chuyện khác.
Tỉnh giác thì thấy rõ việc đang thực hành. Đó là quan sát hơi thở. Hơi thở thì
chỉ có hai, hít vào và thở ra. Hít vào tới đâu biết rõ tới đó. Thở ra thế nào
biết rõ thế đó. Không thêm gì khác. Toàn bộ mọi hành tác đều được đặt dưới sự
kiểm soát của tuệ tri. Tuệ là thấy rõ. Tri là biết. Tuệ tri là thấy biết rõ
ràng. Đó là dụng của chân thể. Biết rõ không thêm gì khác gọi là tuệ tri. Ngài
Thần Hội nói: “Một chữ tri là cửa vào của mọi huyền diệu” là đây.
Phần tuệ tri ở mỗi
người thì luôn sẵn đủ, nhưng nó đã được dùng theo kiểu “trên đầu lại thêm đầu”
từ vô lượng kiếp về trước cho đến nay, nên việc thấy biết không còn đơn giản chỉ
là thấy biết, như máy ảnh ghi hình, như gương soi vạn tượng, mà đã bị sở tri và
phiền não chi phối. Việc đơn giản giờ trở thành phức tạp vì các suy luận, quan
điểm, định kiến, so sánh, phân biệt chất đầy trong tâm. Phần vọng tưởng này
tương tục không dứt nên tri đó mà không biết được, tuệ đó mà thành mờ mịt, cứ
theo dòng tương tục mà đi. Thở ra, thấy đó, rồi không thấy nữa vì đang bận hướng
ngoại nghe chuyện thiên hạ bàn. Hít vào, thấy đó, rồi không thấy nữa vì cuộc gặp
gỡ hồi sáng lại xuất hiện trong đầu. Mọi sự ghi nhận đều bị đứt đoạn là do lực
của dòng tương tục kéo lôi, tuệ tri lúc tỏ, lúc mờ… Vì lẽ đó, khi mới thực hành
phần quán hơi thở này, Phật dạy: “Đi
đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng
thẳng và an trú chánh niệm trước mặt”. Bớt ngoại cảnh để việc tập trung được
dễ dàng. Nên “yên ở chỗ vắng” là một trong năm điều kiện thiết yếu của hành giả
tu thiền, được nói trong Pháp yếu tu tập tọa thiền chỉ quán. Đó là lý do
dù Phật ở tại tâm hành giả vẫn cần tuân thủ một số điều kiện bên ngoài, nhằm góp
phần cho việc tu tập được tiến triển, đạt kết quả tốt.
Phần quán hơi thở này là bước đầu giúp hành giả phản quan được tốt. Tuy là quán
thân, quán hơi thở nhưng đó cũng là chỗ nương đầu tiên, giúp hành giả hàng phục
dần dòng tương tục, giúp lực của phần tuệ tri ngày mỗi mạnh hơn, sự có mặt trong
giây phút hiện tại được tốt hơn. Ngài Trí Khải nói: “Phân
biệt nghĩ ngợi tâm tán động chạy theo các cảnh không tạm dừng trụ gọi là báo
chướng. Tâm phù động ngoa xảo chạy theo các cảnh, tán loạn tung hoành như khỉ
vượn gặp cây khó mà kềm chế. Khi ấy hành giả nên dùng pháp Sổ tức. Sổ tức điều
tâm chính là chân đối trị vậy. Cho nên Phật nói người duyên lự nhiều, dạy Sổ
tức…”.
Cũng nói: “Nhân Sổ tức phát sinh Tứ thiền, Tứ vô lượng tâm, v.v. người ấy
quyết định được Đạo Tam thừa”.
Sổ tức của tông Thiên Thai,
tuy cũng quán hơi thở nhưng có thêm phần đếm số. Là do căn cơ người đời sau
không được thắng như thời Đức Phật, cần phải thêm phần đếm số này, dùng đó nhiếp
tâm, không cho tâm rong ruổi, mới có thể giúp hành giả tập trung, hàng phục dòng
vọng tưởng.
Đối trị được rồi, sang đến phần
Tùy tức mới tương ưng được với phần Quán hơi thở mà Phật đã dạy trong kinh
Niệm xứ.
Pháp “Biết vọng không theo” của Hòa thượng Trúc Lâm
đa phần đều lấy việc quán hơi thở ra vô của tông Thiên Thai làm bước đầu, thuần
rồi mới sang Biết vọng, buông hay không theo.
Thảy đều tùy căn cơ của chúng sinh mà có pháp phù
hợp.
2. Thực hành
chánh niệm trong mọi oai nghi
Nói thực hành chánh
niệm trong các oai nghi là nói tổng quát, chi tiết thì Phật dạy khá rõ trong
kinh: “Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi đi, tuệ tri tôi đi; khi đứng, tuệ tri tôi
đứng; khi ngồi, tuệ tri tôi ngồi; khi nằm, tuệ tri tôi nằm. Thân thể được sử
dụng như thế nào vị ấy tuệ tri thân như thế ấy”. Tất cả đều được giám sát
hay ghi nhận bởi cái gọi là tuệ tri. Chỗ nào cũng có tuệ tri. Thiết yếu nằm ở
hai chữ tuệ tri này. Vì quy luật của tâm là thứ gì được lặp đi lặp lại nhiều,
thứ đó sẽ hiển rõ và nắm thế chủ đạo. Cho nên, ngoài việc ngồi yên quán hơi thở,
trong các oai nghi còn lại, việc phản quan cũng không được lơ là. Công phu cần
miên mật như thế mới có thể giúp phá bỏ những thói quen thuận với sinh tử và khổ
đau. Dụng của chân thể hiện tiền rồi, dù chỉ trong một thời ngồi thiền, chân thể
ấy mới có thể hiển bày. Nhà thiền gọi là kiến tánh, là thấy được cái nhân Phật
tánh trong chính mình. Kinh Đại bát Niết-bàn nói: “Phật tánh là nhân.
Niết-bàn là quả”.
Tôi đứng, tôi ngồi,
v.v. là để hiểu tuệ tri cái gì. Chỉ cần biết rõ đúng như thế, không cần lặp lại
các từ tôi đứng, tôi ngồi, v.v. Tuy vậy, lặp lại cũng không lỗi, nếu chưa thể
chỉ một việc tuệ tri. Như Sổ tức của tông Thiên Thai, không chỉ biết rõ hơi thở
mà còn có thêm phần đếm số. Đó là do căn cơ của chúng sinh từng thời, chưa thể
một bước chỉ có tuệ tri, nên các bậc cổ đức hiện đời thêm phần đếm số để hành
giả có thể y pháp giữ tâm. Thuần rồi thì bỏ phần đếm số sang phần Tùy tức. Tùy
tức thuần rồi thì qua Chỉ, Quán, v.v. Phần này cũng vậy. Có thể chỉ tuệ tri hay
vừa tuệ tri vừa lặp lại những nhắc nhở đó. Nói chung, pháp dùng như thuốc trị
bệnh. Bệnh nào dùng thuốc đó. Bệnh hết thì thuốc bỏ.
Phật dạy tiếp: “Khi
bước tới bước lui biết rõ việc mình đang làm. Khi ngó tới ngó lui biết rõ việc
mình đang làm. Khi co tay duỗi tay biết rõ việc mình đang làm. Khi mang áo
tăng-già-lê, mang bát, mang y biết rõ việc mình đang làm. Khi ăn, uống, nhai,
nếm biết rõ việc mình đang làm. Khi đại tiện, tiểu tiện biết rõ việc mình đang
làm. Khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng biết rõ việc mình đang làm”.
Biết rõ là tuệ tri.
Phần thực hành chánh
niệm trong mọi oai nghi này khá quan trọng và cần thiết đối với người tu, nhất
là tu thiền. Tông Thiên Thai cũng có phần quán này nhưng tướng quán thô hơn. Với
việc nằm, Ngài dạy: “Khi nằm nên khởi nghĩ thế này, ta nay vì việc gì mà muốn
nằm, nếu vì việc không lành, phóng túng, v.v. thì không nên nằm…”. Thô hơn
là do tâm người đời sau mịt mờ hơn, dễ bị các triền cái dẫn chạy, nên pháp hành
có khác hơn. Hòa thượng Trúc Lâm thì dạy “Làm việc gì biết việc đó…”. Đều
là ứng với tâm của chúng sinh mỗi thời mà có pháp khác nhau, nhưng không lìa
tinh thần chính mà Phật đã dạy.
3. Quán thân do
tứ đại hợp thành
Ai bắt đầu học Phật
cũng đều được học phần quán tứ đại hợp thành này. Để hiểu thân này không có chủ
tể. Chỉ là pháp duyên hợp. Đủ duyên thì hợp, hết duyên liền tan, không tồn tại
cái tôi hay cái ngã nào trong đó. Nghĩa là tôi vui, tôi buồn, tôi đi, v.v. thảy
đều là giả hợp. Nhờ các thứ quán này mà có sự khác nhau giữa hành giả tu Phật và
hành giả ngoại đạo, dù cả hai đều tập trung cho việc diệt trừ dòng vọng niệm.
4. Quán bất
tịnh
Tùy bệnh của từng
người mà việc áp dụng pháp có khác nhau. Phần quán này dành cho những ai có tập
ham muốn mạnh và có duyên với pháp Quán bất tịnh này. Ai hàng phục được loại tập
này rồi thì không dùng pháp quán này nữa, chỉ tập trung quán hơi thở, quán tâm,
trì chú, niệm Phật, v.v.
Tông Thiên Thai có đề
cập đến phần Quán bất tịnh này.
Sau khi Quán bất tịnh thành công thì chuyển sang Quán tịnh.
Các pháp quán này
giúp hành giả nhận rõ thực chất của thân, tập an trú trong chánh niệm, hy vọng
hướng đến chánh trí, chánh niệm, sống không nương tựa, không chấp trước một vật
gì trên đời.
Quán tâm
Tâm gồm bốn thứ là
thọ, tưởng, hành, thức.
Phần quán tâm này,
cách quán không khác phần quán thân, chỉ khác là quán những thứ thuộc về tâm.
Những gì sinh khởi nơi tâm đều phải được ghi nhận rõ ràng. Như đối với các trạng
thái vui, buồn, không vui không buồn hiện lên trong tâm, Phật dạy “Này các
Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo khi cảm giác lạc thọ, tuệ tri tôi cảm giác lạc thọ; khi
cảm giác khổ thọ, tuệ tri tôi cảm giác khổ thọ; khi cảm giác bất lạc bất khổ
thọ, tuệ tri tôi cảm giác bất lạc bất khổ thọ”. Tâm sinh khởi thế nào, tuệ
tri đúng thế ấy. Cũng vẫn là hai chữ tuệ tri mầu nhiệm. Tuệ tri luôn phải có mặt
để ghi nhận những gì đang sinh khởi ở tâm.
Không chỉ đối với các
trạng thái vui buồn của tâm cần được ghi nhận rõ, ngay cả việc các trạng thái đó
xuất hiện thuộc lĩnh vực nào cũng cần ghi nhận rõ. “Cảm giác lạc thọ thuộc
vật chất, tôi tuệ tri cảm giác lạc thọ thuộc vật chất. Cảm giác lạc thọ không
thuộc vật chất, tôi tuệ tri cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất…”. Hành
giả cần ghi nhận rõ khi một trạng thái xuất hiện và khi trạng thái ấy biến mất,
v.v.
Đối với các phần còn
lại của tâm như tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, v.v. cũng vậy. Thảy đều phải
được tuệ tri khi chúng hiện khởi ở tâm. “Với tâm có tham, tuệ tri tâm có
tham. Với tâm không tham, tuệ tri tâm không tham. Với tâm có sân, tuệ tri tâm có
sân. Với tâm không sân, tuệ tri tâm không sân… ”. Tương tự, với các suy nghĩ
thương, ghét, hy vọng, hồi tưởng, v.v. thảy đều phải được ghi nhận rõ ràng. Tuệ
tri và tuệ tri.
Không chỉ tuệ tri
những gì đang có mặt ở tâm, mà còn phải thấy rõ quá trình sinh khởi và mất đi
của chúng, như kinh Niệm xứ nói: “Quán tính sinh khởi trên tâm, hay
quán tính diệt tận trên tâm, hay quán tính sinh diệt trên tâm”. Quá trình
sinh diệt ấy gọi là hành. Tác ý cũng thuộc về hành. Ghi nhận được rõ ràng quá
trình đó gọi là quán hành.
Luận Đại thừa khởi
tín, khi nói đến quá trình sinh diệt của tâm, không chỉ dừng ở hai đầu mút
sinh diệt mà chi tiết thành bốn tướng, sanh, trụ, dị, diệt. Quán bốn tướng này,
thô tế đều quán. Tức không chỉ quán tướng sinh diệt của những niệm tưởng trong
tâm mà quán cho đến tướng sinh khởi của vạn pháp, như Lục Tổ nói: “Đâu ngờ tự
tánh vốn tự thanh tịnh…/ Đâu ngờ tự tánh vốn không sinh diệt/ Đâu ngờ tự tánh
hay sinh muôn pháp”.
Thức, hành tướng của
nó là phân biệt. Khi một phân biệt khởi lên cũng cần được ghi nhận rõ. Khi một
phân biệt biến mất cũng cần được ghi nhận rõ.
Nói chung, tất cả
những gì hiện khởi ở thân và ở tâm thảy đều phải ghi nhận rõ. Đó là việc bổn
phận của người tu.
Chỉ tuệ tri hay
còn phải đoạn trừ?
Kinh Niệm xứ
chỉ thấy Phật dạy tuệ tri, tức chỉ thấy Phật dạy ghi nhận, không thấy Phật dạy
đoạn trừ vọng tâm như pháp “Biết vọng buông đi” hay “Biết vọng không theo” của
Hòa thượng Trúc Lâm. Có một động tác buông hay không theo rõ ràng. Tất cả các
pháp môn sau này, chủ đích cũng là giúp đoạn trừ dòng tương tục, hay giúp vọng
hiện nguyên hình là vọng, tức lực vọng không còn khả năng dẫn hành giả theo nó.
Trên thực tế, khi
thực hiện công phu, dù chỉ nói tuệ tri hay nói buông đi thì ngay khi biết được
vọng đang khởi, lúc đó vọng tạm dừng, cái biết hiện tiền. Luận Đại thừa khởi
tín gọi thời khắc ấy là thấy được niệm diệt. Diệt rồi lại sinh. Sinh mà biết
được thì vọng lại dừng. Dừng rồi lại sinh. Cứ vậy mà sinh diệt liên tục trong
tâm. Cho đến khi lực vọng đã yếu, vọng hiện nguyên hình là vọng, sinh diệt như
mây bay trên trời. Điều đó cho thấy đoạn trừ đã có mặt ngay khi có tuệ tri. Vì
thế ngay khi tuệ tri là đã có đoạn trừ.
Cho nên…
Chỉ nói tuệ tri,
không nói thêm gì nữa, thì cũng không có nghĩa quán thấy vọng rồi thì mặc cho
vọng sinh khởi, không có ý đoạn trừ. Không. Phải có ý đoạn trừ như Phật đã dạy
trong kinh: “Ta giảng sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người
thấy, không giảng cho người không biết, không thấy. Thế nào là sự diệt tận các
lậu hoặc cho người biết, cho người thấy? Có như lý tác ý và không như lý tác ý”.
Phần này đề cập rất rõ đến sự diệt tận các lậu hoặc và nói đến việc như lý tác ý
đối với các lậu hoặc đó. Nhờ như lý tác ý mà các lậu hoặc chưa sinh không sinh
khởi, các lậu hoặc đã sinh được trừ diệt. Tức có một sự tác ý trừ diệt rõ ràng
đối với các lậu hoặc.
Trong bảy pháp giúp
trừ diệt các lậu hoặc, có một pháp gọi là “Các lậu hoặc phải do trừ diệt được
đoạn trừ”. Pháp ấy như sau: “Ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát không chấp nhận
dục niệm đã khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại. Không chấp
nhận sân niệm đã khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại. Không
chấp nhận các bất thiện pháp đã khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho
tồn tại… Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không trừ diệt như vậy, các lậu hoặc và
nhiệt não ấy có thể khởi lên. Nếu vị ấy chịu trừ diệt, các lậu hoặc và nhiệt não
ấy không còn”. Như vậy ta thấy, trong phần tuệ tri đã ngầm nói đến sự trừ
diệt, không phải không có. Tuệ tri chính là để trừ diệt. Với các hành giả quán
pháp là vọng, là huyễn thì tuệ tri là để vọng trở về đúng vị trí của nó, không
còn lực sai sử như đối với phàm phu, khiến mọi thứ đều thành thật như hiện nay.
Cho nên, chớ nói “Đã là vọng sao còn nói đến việc diệt trừ”. Tuy là vọng, nhưng
do huân tập mà sinh chấp thủ, do chấp thủ mà vọng không còn là vọng, mọi thứ đều
thành thật. Vì thế cần phải có sự trừ diệt. Tuy là thấy trừ diệt dòng vọng
tưởng, thực chất là trừ diệt lực của dòng vọng tưởng. Lực mất rồi thì vọng hiện
nguyên hình là vọng.