55 năm, nhìn lại ngọn lửa NHẤT CHI MAI (1967 - 2022)
55 nam
55 NĂM, NHÌN LẠI NGỌN LỬA NHẤT CHI MAI (1967 - 2022)
Trần Thị Đông Thi*
Cuối năm 1964, đầu năm 1965, trước sự tiến công của phong trào
cách mạng miền Nam trên cả hai mặt trận chính trị và quân sự,
chính quyền Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Để giữ vững miền Nam
trong quỹ đạo chủ nghĩa thực dân mới, Nhà Trắng “leo thang” chiến tranh
bằng việc thay thế chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bằng chiến lược
“Chiến tranh cục bộ”. Ngày 8-3-1965, Mỹ đưa hai tiểu đoàn lính thủy đánh bộ
vào Đà Nẵng, chính thức triển khai chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền
Nam. Nhằm hỗ trợ cho chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, Nhà
Trắng đồng thời tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và
hải quân. Chiến tranh thực sự đã diễn ra trên cả hai miền Nam - Bắc và ngày càng
khốc liệt, gây nên bao nỗi thống khổ cho nhân dân Việt Nam. Với Phật giáo,
“Sự can thiệp thô bạo của Hoa Kỳ đã hỗ trợ cho những chính phủ tay sai, ... phản
lại quyền dân tộc tự quyết và những quyền căn bản của nhân dân Việt Nam.
Hoa Kỳ đã tàn sát nhân dân cả hai miền Nam Bắc Việt Nam, phá
đổ nền văn minh dân tộc Việt Nam và làm băng hoại xã hội Việt Nam đến cùng cực…
Chiến tranh không thể chấp nhận được bởi nền độc lập, dân chủ và tự do không bao
giờ thực hiện được ở Nam Việt Nam, chừng nào người Mỹ còn kiểm soát Nam Việt
Nam, cuộc chiến không phải là cuộc chiến tranh giữa miền Nam và miền Bắc, mà
giữa Mỹ và nhân dân Việt Nam”.
Vì vậy, theo giới lãnh đạo Phật giáo miền Nam: “Có chấm dứt
chiến tranh lập lại hòa bình, nhân dân miền Nam mới sống có hòa giải, hòa hợp
nhau, yêu thương nhau, đùm bọc nhau. Có chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình
thì nhân dân ta mới có cơ hội để phát triển, để xây dựng … để phát huy sức lực
của mình …”; rằng “dù không phải là điều kiện duy nhất, nhưng hòa bình là
điều kiện tiên quyết, là chiếc cầu ‘chuyển đáo bĩ ngạn’, đưa nhân dân miền Nam
qua bên kia bờ. Từ bờ đen tối sang bờ ánh sáng, từ bờ sa đọa sang bờ lành mạnh,
từ bờ nô lệ sang bờ tự do, từ bờ căm thù sang bờ thương yêu, từ bờ đau khổ sang
bờ hạnh phúc”.
Nhận lãnh trách nhiệm của mình trước sự tồn vong của
Dân tộc và Đạo pháp, Phật giáo miền Nam đã chính thức mở cuộc vận động vì mục
tiêu hòa bình Việt Nam. Ngày 12-12-1965, trong phiên khai mạc Đại hội Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Việt Nam Quốc Tự, Sài Gòn (nay là TP. Hồ Chí
Minh), Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất, công bố “Điệp văn Hòa bình”, đề cập đến thảm họa do chiến tranh gây
ra đối với đất nước: “Trên hết và trước hết, tôi xin toàn thể quý vị hãy lắng
lòng tưởng nhớ và gợi lại đầy đủ những gì đã nghe và đã thấy về chiến tranh, về
sự chết chóc của đồng bào và nỗi điêu linh của đất nước...”; đồng thời nêu
rõ khát vọng hòa bình của Phật tử Việt Nam: “Phật tử thiết tha và khẩn cấp
kêu gọi những phe đối chiến trên đất nước này hãy tìm những căn bản hợp tình,
hợp lý mà thương thuyết với nhau, tránh cái họa tiêu diệt cho đất nước và đồng
bào Việt Nam”.
Trong “Bài giảng Kỷ niệm ngày Thành đạo” (Mồng Tám tháng Chạp năm Ất Tỵ,
1965), giới lãnh đạo Phật giáo khẳng định: “Hơn bao giờ hết, Phật tử chúng ta
cần phải tỏ ý nguyện tha thiết hòa bình của mình bằng cách thực hiện một đoàn
thể to rộng, lấy sự sống làm căn bản, lấy trí thức làm phương châm và lấy giác
ngộ làm cứu cánh. Cùng với những tâm hồn nhân loại khác, chúng ta cố tâm xây
dựng, không phải vì những cường quốc hùng mạnh về binh bị, mà là những quốc gia
ham chuộng hòa bình, biết sống trong tinh thần tri túc và thương yêu, biết sống
hướng thượng. Chúng ta tin rằng từ bi sẽ chiến thắng cường bạo và hòa bình sẽ ở
lại với loài người, nếu chúng thật tình mong muốn”.
Kể từ đây cho đến khi sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước hoàn thành (30-4-1975), Tăng Ni và Phật tử miền Nam với tinh thần
“khế lý khế cơ” đã dấy lên nhiều phong trào vì mục tiêu hòa bình Việt Nam;
một trong những hình ảnh nổi bật nhất là ngọn lửa Nhất Chi Mai đốt lên tại chùa
Từ Nghiêm (Sài Gòn) ngày 16-5-1967 với nguyện ước:
“Xin đem thân làm đuốc
Xin soi sáng vô minh
Xin tình người thức tỉnh
Xin Việt Nam hòa bình”.
Nữ Phật tử Nhất Chi Mai tên thật là Phan Thị Mai, pháp danh Diệu
Huỳnh, sinh ngày 20-2-1934 tại huyện Thái Bình, tỉnh Tây Ninh. Thân phụ là ông
Phan Duy Mỹ, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Duyệt, trú tại số nhà 60/59 đường Yên Đỗ,
Sài Gòn (nay là đường Lý Chính Thắng, Thành phố Hồ Chí Minh). Năm 1955, Nhất Chi
Mai thi đỗ vào trường Quốc gia Sư phạm Sài Gòn, Nhất Chi Mai vừa làm một cô giáo
lớp bổ túc hạng tư, dạy lớp nhì
A, trường Tiểu học Công lập ở Tân Định, vừa tiếp tục đi học và thi đậu Tú tài
toàn phần. Sau đó, Nhất Chi Mai vừa là sinh viên Đại học Vạn Hạnh, vừa là sinh
viên Đại học Văn khoa Sài Gòn.
Là một Phật tử thuần thành mến đạo yêu đời, rất say mê với giáo
lý nhà Phật, Nhất Chi Mai tích cực tham gia vào các công tác Phật sự, hằng tuần
đến chùa Dược Sư và chùa Từ Nghiêm dạy giúp cho các Ni cô về các môn thế học;
đồng thời tích cực tham gia phong trào chống chiến tranh do thanh niên, sinh
viên học sinh phát động.
Lễ Phật đản 2511 (1967), Giáo hội Phật giáo Việt Nam lập Lễ đài
Hòa bình ba cấp (Hưu chiến, Thương thuyết và Hòa bình) tại chùa Ấn Quang, cử
hành trọng thể một tuần lễ cầu nguyện hòa bình Việt Nam. Vì thiết tha với hòa
bình Việt Nam, Nhất Chi Mai đã quyết định đem thân làm đèn, đốt lên vào ngày
khai mạc tuần lễ cầu nguyện Hòa bình của Giáo hội, vào lúc 7 giờ 30 sáng ngày
mồng Tám tháng Tư năm Đinh Mùi (16-5-1967) tại chùa Từ Nghiêm (Sài Gòn). Ánh lửa
hào hùng của một Phật tử yêu nước đã nói lên lòng đau xót quê hương với nguyện
vọng thiết tha đất nước Việt Nam hòa bình.
Nhất Chi Mai chủ động chuẩn bị, sắp xếp cho “lần đi xa”
của mình hết sức bình tĩnh. Điều này được tỏ rõ trong Lời tự thuật sau cùng:
“Tôi viết tất cả 10 bức thơ
để lại. Ngày mai tôi sẽ lo lắng một mình tôi buổi lễ tự thiêu. Tôi cho các nhà
báo, nhiếp ảnh hay và một ít bạn thân đến nơi tôi dự định mà không cho họ biết
trước chuyện gì sẽ xảy ra.
Tôi mua 10 lít xăng. Địa điểm tôi lựa chọn là chùa Từ Nghiêm”.
Hầu hết nơi các thư để lại, Nhất Chi Mai đều nói rõ tâm nguyện
tự thiêu của mình. Trong thư gửi nhân dân Việt Nam, Nhất Chi Mai khẳng định:
“Tôi tự nguyện thiêu thân, cầu xin: Cái chết của tôi được hiểu là: cho nền hòa
bình Việt Nam, cho lòng nhân đạo và công bằng”.
Thư gửi giới lãnh đạo Phật giáo Việt Nam, Nhất Chi Mai viết:
“Kính bạch quý thầy,
Con là một nữ Phật tử Việt Nam.
Con yêu đạo Phật và yêu dân tộc Việt Nam,
Phật dạy con xả thân cứu đời và làm hơn nói.
Đất nước mình khổ đau như vầy,
Dân tộc mình chết chóc như vầy.
Tham vọng và hận thù hoành hành khắp quê hương,
Uất hận và khổ đau dâng khắp trời.
Con không thể ngồi yên tụng kinh và nghe thuyết pháp được,
Con xin đốt thân con.
Bắt chước Hòa thượng Quảng Đức
và Giáo sư Morrison
(Mỹ),
Con xin đem thân mạng mình để kêu gọi tình thương và công bằng”.
Hoặc trong “Thư cuối cùng gửi Song thân”, một lần nữa, Nhất Chi Mai tỏ rõ
sự tỉnh táo trước cái chết của mình: “Con không điên rồ dại dột dù không chắc
mình làm được việc lớn... Con đường dài mà gai chông quá, mỗi người nhân bản
phải đi một đoạn đường gai chông, tiếp nối bằng cách này hay cách khác, mới mong
hết được đường dài”.
Trong thư ngỏ gửi hai Chính phủ Bắc Nam Việt Nam, Nhất Chi Mai viết: “Là công
dân Việt Nam, tôi có trách nhiệm với lịch sử dân tộc và có bổn phận với quốc gia
Việt Nam tôi. Tôi tưởng tôi có quyền nói lên ước nguyện của tôi về quê hương tôi
chứ? Mà các ngài đâu cho tôi nói, dù tôi ở trong vùng đất “TỰ - DO”.
Theo Nhất Chi Mai đối với chế độ Sài Gòn:
“Sống mình không thể nói.
Chết mới được ra lời”.
Về bản chất cuộc chiến do Mỹ gây ra ở Việt Nam, trong thư gửi Chính phủ Mỹ,
Nhất Chi Mai khẳng định:
“Bao nhiêu sáo ngữ ‘bảo vệ tự do và hạnh phúc’ cho Việt Nam mà quý ngài dùng
để làm chiêu bài bấy lâu nay, đã quá lỗi thời và lố bịch.
Bao nhiêu tấn bom đạn, bạc tiền của quý ngài đã trút lên đầu dân
tộc tôi, để tàn phá thân xác và tinh thần quốc gia của họ.
Bao nhiêu người Việt Nam có lòng với quốc gia dân tộc thì bị quý ngài đàn áp
và hăm hại.
Bao nhiêu người Mỹ sáng suốt, nhân đạo và dũng cảm chỉ trích sự lầm lạc của
quý ngài, thì bị kết án lưu đày”.
Và Nhất Chi Mai khẳng định sự thất bại của Mỹ trong cuộc chiến tranh
Việt Nam là không tránh khỏi:
“Quý ngài có biết người Việt chúng tôi, hầu hết trong thâm tâm của
họ, họ chán ghét người Mỹ đã mang chiến tranh đau khổ đến cho xứ sở
của họ lắm rồi không?
Càng leo thang chiến tranh,
càng đổ nhiều nhân lực và tài lực tại đây, các ngài chỉ thất bại
chua cay thôi. Sự vụng về của các ngài làm cho quý ngài mất hết
chính nghĩa”.
Và “để cứu nguy cho hàng triệu sinh mạng người Việt Nam, người Hoa
Kỳ và danh dự đại cường Hiệp Chúng Quốc”, Nhất Chi Mai đề nghị 4
giải pháp:
“1. Ngưng oanh tạc Bắc và Nam Việt Nam.
2. Từ từ rút binh, giao cho người Việt Nam định đoạt số phận của
họ.
3. Nhờ Liên Hiệp Quốc kiểm soát tổng tuyển cử. Người Việt Nam, nếu
được tự do thực sự, họ đủ khôn ngoan để lựa chọn chế độ nào tự do
và hạnh phúc;
4. Giúp đỡ nhân dân Việt Nam tái thiết xứ sở họ đã tan nát
vì bom đạn của quý ngài”.
Nhất Chi Mai đã trở thành biểu tượng đối với hầu hết các phong trào hòa bình của
các tầng lớp nhân dân miền Nam, nhất là đối với tín đồ Phật giáo và sinh viên,
học sinh. Có thể kể một số sự kiện tiêu biểu:
- Ngay vừa sau cuộc tự thiêu của Nhất Chi Mai, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn dựa theo
lời thơ “Chấp tay tôi quỳ xuống” của Nhất Chi Mai, đã sáng tác ca khúc:
“Hãy sống giùm tôi, hãy nói giùm tôi, hãy thở giùm tôi”. Theo Trần Tuyết
Hoa, buổi đầu ở trong nước, ca khúc này “chỉ chuyền tay nhau trong giới sinh
viên thôi. Sau đó, Sơn mang đi Nhật Bản và được một hãng đĩa Nhật vinh danh là
tiếng kêu hòa bình thống thiết nhất từ Việt Nam, được dịch ra nhiều thứ tiếng
phổ biến khắp thế giới...”.
- Ngày 5-1-1969, Đại hội Liên đoàn nữ Phật tử Việt Nam tại chùa Ấn Quang đã tổ
chức buổi lễ cầu nguyện hòa bình và làm lễ truy điệu nữ Phật tử Nhất Chi Mai.
Tại buổi lễ, bà Diệu Chơn, Tổng Thư ký Liên đoàn Phật tử Việt Nam đã đọc diễn
văn khai mạc, “đại ý nêu lên các thảm trạng của chiến tranh và mong mõi sớm
thực hiện việc vãn hồi hòa bình cho đất nước”. Tiếp đến, bà Diệu Bích, Liên
đoàn trưởng Liên đoàn nữ Phật tử đọc bài: “Ý nghĩa cái chết của Nhất Chi
Mai”; tiếp theo bà Tá Hương đọc Thỉnh nguyện, nội dung đề cao sự thiêu thân
của nữ Phật tử Nhất Chi Mai, đồng thời thỉnh nguyện ba điểm sau đây:
“1. Yêu cầu 2 phe lâm chiến ngồi vào bàn hội nghị để chấm dứt chiến tranh,
đem lại hòa bình cho Việt Nam.
2. Yêu cầu Chính phủ thực thi đại đoàn kết dân tộc, để làm hậu thuẫn cho cuộc
thương thuyết.
3. Yêu cầu hạ giá sinh hoạt nhất là gạo, để tương xứng với đồng lương của
binh sĩ, công, tư chức đến dân chúng”.
Tiếp theo, Thượng tọa Thiện Hoa, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, ban huấn từ, “đại
ý chiến tranh đã kéo dài quá lâu gây bao cảnh chết chóc, tàn phá, Phật giáo cũng
như các tôn giáo khác đều cầu nguyện cho hòa bình. Nữ Phật tử Nhất Chi Mai đã hy
sinh cũng vì nguyện vọng tha thiết đó. Vậy chúng ta hãy cầu nguyện để quê hương
sớm thanh bình”.
- Ở Huế, vào 20 giờ ngày 15-5-1970, tại sân trường Đại học Sư phạm, Uỷ ban phối
hợp sinh viên, học sinh tranh đấu tổ chức “Đêm Nhất Chi Mai”, kỷ niệm 3
năm ngày Nhất Chi Mai tự thiêu cầu nguyện hòa bình Việt Nam (16-5-1967). Sau
nghi thức tưởng niệm, hơn 500 sinh viên, học sinh tham gia cuộc rước đuốc vì hòa
bình. Hàng ngàn cây đuốc cháy rực cả góc trời. Dẫn đầu là di ảnh Nhất Chi Mai và
hai con chim bồ câu biểu tượng hòa bình. Đoàn rước đuốc đi qua các con đường
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Lý Thường Kiệt... Đồng bào cổ vũ đông đảo chưa từng có.
Một số đồng bào và tiểu thương chợ Đông Ba còn tiếp tế thêm dầu cho sinh viên,
học sinh. Những khẩu hiệu giương cao với nội dung: “Xin đem thân làm đuốc”,
“Xin soi sáng u minh”, “Xin Việt Nam hòa bình”, “Đả đảo chiến
tranh” đã nói lên đầy đủ và mạnh mẽ khát vọng của nhân dân và sinh viên, học
sinh. “Sống mình không thể nói”, “Chết mới được ra lời”, Nhất Chi
Mai đã mượn cái “Chết” để nói lên ước vọng hòa bình. “Ngọn đuốc sáng
ấy đã bùng cháy trong tận cùng trái tim mỗi người Việt Nam yêu nước, của loài
người tiến bộ khắp thế giới”.
- Tuần lễ từ 31-10 đến 7-11-1970, Tuần lễ triển lãm sinh hoạt sinh viên, học
sinh tổ chức tại trường Đại học Văn khoa Sài Gòn... Sinh viên, học sinh Huế tham
dự Phòng triển lãm với nhiều tranh và hình ảnh về phong trào sinh viên, học
sinh, trong đó có hình ảnh “Đêm Nhất Chi Mai” tổ chức tại Huế
(15-5-1970), góp phần hết sức quan trọng trong việc gây xúc động lòng người về
khát vọng một nước Việt Nam hòa bình. Don Luce (nhà báo Mỹ) nói: “Tôi chúc
các bạn sinh viên, học sinh Việt Nam may mắn trong cuộc tranh đấu cho nước Việt
Nam hòa bình”; sinh viên Larry S. Lifschulfz (Đại học Yale, Hoa Kỳ) nói:
“Cuộc triển lãm các bạn đã làm tôi vô cùng cảm kích và xúc động mãnh liệt. Hình
như những biến cố ở Việt Nam đã tác động đến đời sống tôi hơn bất cứ biến cố nào
trong đời tôi...”; nữ sinh viên Lynne Jillidette (Đại học Stanford, Hoa Kỳ)
bộc bạch hành động của mình khi trở lại Hoa Kỳ: “Tôi cầu nguyện cho những
sinh viên thân mến của tôi sẽ đấu tranh thành công cho nền hòa bình. Khi tôi trở
về Hoa Kỳ, tôi sẽ cố gắng nói lại những gì tôi đã học được ở dân tộc Việt Nam.
Có lẽ một ngày gần đây thế giới sẽ hiện ra giống như niềm mơ ước và đấu tranh
của chúng ta”.
Đã 55 năm kể từ ngày Nhất Chi Mai tự thiêu (16-5-1967 - 16-5-2022), nhưng hình
ảnh bi thương nhưng rất đỗi hào hùng của Phật tử yêu nước Nhất Chi Mai vẫn được
đời sau ghi nhớ. Có thể nói, với cuộc tự thiêu của Nhất Chi Mai, cuộc vận động
vì hòa bình Việt Nam do Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phát động đã có
sức ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ hơn, lôi kéo mọi tầng lớp tham gia và có nhiều
đóng góp cho phong trào cách mạng miền Nam. “Nhất Chi Mai đã đi vào lịch sử
dân tộc, đã tự thắng được mình là chiến thắng oanh liệt nhất và xứng đáng để mọi
người nghiêng mình cảm mến ... Phật tử hãy chấp nhận mọi đau khổ để nói lên
tiếng nói Hòa bình thực sự”.
Thiền sư Nhất Hạnh cho rằng: “Thích Quảng Đức và Nhất Chi Mai, hai thế hệ
cách xa nhau, đã nói lên cùng một nguyện vọng và ý chí của con người Việt Nam
cho hòa bình và cho nhân đạo”.
Ngày nay, nhiều thành phố, thị xã có tên đường Nhất Chi Mai, như tại Đồng Hới,
tại quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh,… là một minh chứng hùng hồn về sự hy
sinh cao cả của liệt nữ Nhất Chi Mai vì mục tiêu hòa bình Việt Nam trong giai
đoạn lịch sử 1954 - 1975.
Trên mặt trận đấu tranh chính trị, từ sau cuộc đảo chính lật đổ chế độ
Ngô Đình Diệm (1-11-1963), phong trào đô thị bùng phát dữ dội, như phong
trào truy quét dư đảng Cần lao, phong trào chống Hiến chương Vũng Tàu
(16-8-1964), phong trào chống chính quyền dân sự Trần Văn Hương... Trên
mặt trận quân sự có thể kể những chiến thắng như chiến thắng Bình Giả và
chiến thắng An Lão (12-1964), chiến thắng Đồng Xoài và chiến thắng Ba
Gia (6-1965)... Tất cả đẩy chính quyền Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ
hoàn toàn.
Số quân Mỹ tham chiến tại miền Nam đầu tháng 3 là 235.000 người (Đoàn
Thêm, 1966 - Việc từng ngày, Cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, Sài Gòn,
1968, tr.39); giữa tháng 2-1967 là 414.000 (Đoàn Thêm, 1967 - Việc từng
ngày, Cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, Sài Gòn, 1968 tr.47), giữa tháng
2-1968 là 510.000 (Đoàn Thêm, 1968 - Việc từng ngày, Cơ sở xuất bản
Phạm Quang Khai, Sài Gòn, 1969, tr.58).
Công văn số 002767/TCSQG/S1/D/K ngày 16-1-1969 của Đại tá Trần Văn Hai,
Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia kính gửi Đại tướng, Tổng trưởng Nội vụ
Sài Gòn, Trích yếu V/v Phật giáo Ấn Quang tổ chức lễ cầu nguyện hòa bình
và làm lễ truy điệu nữ Phật tử Nhất Chi Mai, Trung Tâm Lưu trữ Quốc gia
II, TP. Hồ Chí Minh, Ký hiệu tài liệu: 4209.
Nhiều tác giả, Lịch sử phong trào đô thị Huế 1954 - 1975, Nxb. Trẻ, Tp.
Hồ Chí Minh, 2015, tr. 291.
Công văn số 002767/TCSQG/S1/D/K ngày 16-1-1969 đã dẫn.