Quan niệm về cái ác của F. Dostoevsky
quan diem
QUAN ĐIỂM CÁI ÁC
CỦA F. DOSTOEVSKY
Ngô Thị Hường
Tóm tắt: Một trong những tác phẩm nổi tiếng thế giới của F. Dostoevsky được xuất bản
năm 1866 tại Nga là Tội ác và hình phạt. Tác phẩm này phản ánh nhiều phương diện về con người, về xã hội Nga
giai đoạn F. Dostoevsky thuộc về, trong đó có “cái ác”. Bằng
việc quán sát và trải nghiệm thực tế, lập luận của F.
Dostoevsky xung quanh cái ác rõ ràng, cụ
thể hơn so với quan điểm của một số triết gia trước và cùng thời với ông. Nhờ vậy, cách thức nhận diện và chuyển hóa cái ác của
F. Dostoevsky vẫn còn nguyên giá trị giữa thời hiện đại.
Từ khóa: F. Dostoevsky, cái ác, nhận diện cái ác,
chuyển hóa cái ác.
Dẫn
nhập
Tội ác và hình phạt không chỉ phơi bày hiện thực xã hội mà còn
lột tả những điều ẩn tàng trong tâm hồn mỗi người. Bằng chính trải nghiệm thực
tế, F. Dostoevsky có sự chiêm nghiệm và thấu hiểu sâu sắc hơn về quan hệ giữa con
người và cái ác của con người. Con người làm ác vì một mặt, con người không nhận
diện được cái ác từ bên trong họ là gì, mặt khác, con người không biết hoặc
không thực hành phương thức chuyển hóa cái ác.
1.
Quan niệm về cái ác của các triết gia trước thời F. Dostoevsky
Các
nhà triết học và thần học, qua các thời kỳ khác nhau, như là Saint Augustine
(Augustine), Thomas Aquinas (Aquinas), Immanuel Kant (Kant), Karl Marx (Marx) và Friedrich
Engels (Engels) đã dùng nhiều phương cách để lý giải về sự xuất hiện cái ác
nhưng mọi sự biện giải đều chỉ dừng lại ở ngôn từ, lý thuyết.
Thời
cổ đại, triết học Do Thái giáo (thời kỳ tiền-Kitô)
nói riêng, thuyết độc thần (monotheism)
nói chung đều không thể chỉ ra rõ ràng sự tồn tại của cái ác và mối quan hệ giữa
cái ác với quyền năng vô hạn của Chúa trời.
Do lý giải mọi sự vật, hiện tượng theo tinh thần Nhất nguyên luận (monoism),
tức Chúa trời là nguyên nhân đầu tiên và duy nhất tạo ra vạn vật, các nhà triết
học, thần học cổ đại đều bất lực trong việc chỉ ra khởi nguyên của cái ác. Họ
biện minh rằng tuy Chúa trời toàn thiện, toàn năng và con người được Chúa tạo
ra theo hình ảnh của Chúa nhưng cái ác của con người không do Chúa trời tạo ra.
Con người đầu tiên được tạo ra (vật thụ tạo) làm ác vì họ đã không nghe lời
Chúa.
Theo đó, ba vấn đề liên quan đến cái ác đã không được lý giải minh bạch: một
là, cái ác xuất hiện từ đâu trong khi Chúa trời là đấng tạo ra toàn vũ trụ; hai
là, tại sao con người hung ác khi con người là hình ảnh của Chúa trời; ba là, tại
sao Chúa không làm gì để ngăn chặn cái ác khi Chúa trời là đấng toàn năng.
Đến
đầu Công nguyên, Nhị nguyên luận (dualism) tiếp tục luận giải mối quan
hệ giữa Chúa trời và cái ác. Nhị nguyên luận chia thế giới thành hai nhóm: một
bên là Chúa trời - hiện thân của sự tốt lành thuần túy
và bên kia là quỷ Satan - hiện thân của cái ác. Cái ác xuất hiện khi hai con
người đầu tiên gồm Adam và Eva đã tự ý đi ra khỏi con đường thiện lành của Chúa
trời để đi theo con đường xấu ác của quỷ Satan. Từ sau đó, cái ác của cá nhân
được luận giảng là do sự kế thừa tội lỗi của tổ tiên, tức “tội tổ tông” (ancestral
fault). Các nhà triết học Kitô giáo cho rằng thế hệ thứ ba, thứ tư trong dòng tộc vẫn tiếp tục chịu lãnh tội
ác mà tổ phụ đã gây ra (the iniquities of the
fathers are visited upon the sons and daughters - unto the third and fourth
generation. Exodus 20:5).
Biện luận cái ác theo “tội tổ tông” khiến cá nhân, tập thể sẵn sàng phủ nhận tất cả tội ác họ gây tạo trong đời
hiện tại. Mọi tội ác, nếu có, đều được quy kết là hệ quả tất yếu từ tổ tiên. Việc lý giải tội ác theo khuynh hướng có lợi cho kẻ tạo ác như trên thường được
đề cập trong các nghiên cứu thuộc chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa lãng mạn thời kỳ
sau này.
Đến thế kỷ thứ
IV, nguồn gốc cái ác tiếp tục
được nhà thần học Kitô Augustine (354 - 430) luận bàn cụ
thể hơn và lý thuyết về cái ác của ông trở thành một trong những tư tưởng nền tảng
của phương Tây thời đó và sau này. Theo Augustine, tuy
Chúa tạo ra con người, nhưng cái ác là do ý chí của con người (human will)
tạo ra.
Augustine khẳng định
“cái ác không phải là một thực thể mà là sự đồi bại của ý chí, đã đi chệch xa
Chúa, là thực thể cao nhất để đi xuống với những sự vật thấp nhất”.
Khi con người muốn rời xa Chúa, tức là con người đã thực hành sai lời dạy của Chúa
và họ tạo ra cái ác. Do đó, con người phải chịu trách
nhiệm về tội ác của họ. Tuy nhiên, Augustine hoàn toàn bế tắc trước những nghi vấn
liên quan giữa Chúa và cái ác: tại sao Adam và Eva cãi lời Chúa trong khi Chúa tạo ra họ? Tại sao Chúa trời không tạo ra ý chí toàn thiện khi Chúa quyết định ý
chí con người? Tại sao con người quyết định được ý chí của họ trong khi Chúa là
đấng toàn năng? Nếu con người được tự do, tại sao ý chí con người không chọn
cái thiện mà chọn cái ác?
Vì không thể luận giảng quyền năng của Chúa khác với truyền thống, Augustine biện
luận rằng: tuy ý chí con người tự do, nhưng sự tự do được đặt trong sự sắp đặt
của Chúa; tuy con người tạo ra cái ác, nhưng con người không cố tâm tạo ác. Cái
ác của con người xuất hiện là do quỷ sứ - một trong những thiên thần bị sa ngã
đã tách sự tồn tại thấp (con người) ra khỏi tồn tại cao (Chúa trời).
Sau
Augustine, Thomas Aquinas (1225 - 1274)
tiếp tục luận bàn về nguồn gốc cái ác. Aquinas không đồng tình quan điểm cái ác
là phạm trù đối lập với cái thiện. Ông cho rằng cái ác có trong cái thiện; cái
ác là sự tách rời khỏi cái thiện; cái ác là sự vắng mặt của cái thiện. Theo
Aquinas, tuy cái ác có quan hệ với cái thiện, với Chúa toàn năng, nhưng cái ác
không do Chúa trời tạo ra.
Cái ác là kết quả tổng hợp từ nhiều yếu tố: tình bác ái của Chúa trời, sự cám dỗ
của ma quỷ, hoàn cảnh con người, thân xác con người ý chí tự do của cá nhân.
Khác
với Augustine, một mặt Aquinas nhấn mạnh cái ác có liên quan đến thể xác con
người. Trong khi linh hồn con người được nhận trực tiếp từ Chúa thì thể xác được
Chúa tạo ra từ vật thể khác bên ngoài Chúa. Do vậy, thể xác tạo tội ác không
liên quan đến Chúa. Mặt khác, Aquinas cũng thừa nhận nguyên tội.
Như thế, thực chất cái ác đến từ đâu vẫn không được Aquinas làm sáng tỏ.
Đối với Aquinas, cái ác bao gồm hai loại. Cái ác thứ nhất là
việc làm sai trái với đạo đức truyền thống (moral evil in the
tradition), tức là cố ý làm trái ngược với điều
thiện. Cái ác thứ hai là việc trừng phạt những người đã có hành vi trái với đạo đức. Tuy rằng việc trừng
phạt có tác dụng giáo dục hoặc răn đe những
kẻ tạo ác, nhưng việc làm đó khiến kẻ tạo ác phải đau khổ. Gây đau khổ cho người cũng chính là cái ác. Aquinas nhấn mạnh việc làm trái đạo đức
hay sự trừng phạt đều là những biểu hiện xa rời Chúa trời của con người.
Như
vậy, giải thích của Aquinas về cái ác mâu thuẫn với sự toàn năng của Chúa trời.
Nếu cho rằng cái ác của con người không liên quan đến Chúa trời, thì rõ ràng
Chúa không phải là duy nhất, là nguyên nhân tối cùng của tất cả.
Đến thế kỷ XVIII, Immanuel Kant (1724 - 1804)
tiếp nối tư tưởng của Augustine về mối liên hệ giữa cái ác với ý chí tự do.
Theo Kant, cái ác là sản phẩm của ý chí tự do, cái ác nảy sinh từ ý chí của con
người, không phải của Chúa. Một mặt, con người luôn mơ ước được về với Chúa, về
với những nguyên tắc, những lý tưởng, những chuẩn mực mà con người không thể biết
chính xác là gì.
Mặt khác, con người được tự do lựa chọn thực hiện cái ác. Con người trở thành
ác quỷ không do những hành động vi phạm luật pháp, mà vì tâm hồn người đó chìm
trong đau khổ, hối hận từ những hành động bất thiện đã gây tạo.
Như vậy, tận căn của cái ác là gì vẫn không được Kant trả lời minh bạch.
Khác
với các triết gia trước đó, Karl Marx (1818 - 1883)
và Friedrich Engels (1820 - 1895)
khẳng định, cái ác là hệ quả con người tha hóa
trở thành hàng hóa dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong thời đại tư bản, con người
xem tài sản, danh vọng, quyền lực, địa vị… là điều kiện và mục đích sinh tồn.
Do vậy, con người bất chấp đánh đổi mọi thứ để thỏa mãn nhu cầu cá nhân, kể cả
làm ác. Tuy nhiên, tại sao người với người ác độc, bạo lực lẫn nhau vẫn chưa được
Marx và Engels giải thích tận nguồn.
Tóm lại, các tư tưởng triết học
được khái quát trên đây, một mặt đã không giải thích được nguồn gốc của cái ác
và mối quan hệ giữa Chúa với cái ác. Mặt khác, các triết gia không thể giúp con
người nhận diện rõ ràng bản chất hay biểu hiện của cái ác. Điều này giải thích
vì sao xã hội phương Tây đến thế kỷ XIX vẫn đầy dẫy tội ác và bạo loạn, đời
sống tinh thần toàn châu Âu rơi vào khủng hoảng toàn diện.
2.
Quan điểm của F. Dostoevsky về cái ác
Bằng trải nghiệm thực tế, F. Dostoevsky không đồng ý với quan
điểm cái ác hiện hữu là do môi trường hay xã hội tác động. Ông cho rằng, nếu
con người không nhận thức được “cái ác có nguồn gốc từ bên trong” (evil has
an inward origin), cái ác sẽ bành trướng, biểu
hiện ra bên ngoài, sẽ hủy hoại từ cá nhân cho đến toàn xã hội.
a.
Chủ nhân của cái ác
Cái ác có mặt trong mỗi con người. Cái ác không chỉ xuất hiện trong những kẻ thất học, lưu manh như Xvidrigailov mà còn hiện hữu trong những người có trình độ, có học thức như sinh viên, sĩ quan, như Raxcolnicov. Kẻ bần cùng, khốn khó như Marmeladova hay người nhiều tiền, lắm của như bà chủ hiệu cầm đồ Aliona đều chất chứa cái ác. Những đứa trẻ thơ cho đến linh mục không hoàn toàn thánh thiện, trong sáng.
b.
Biểu hiện của cái ác
Cái ác không chỉ biểu hiện thành hành động bên ngoài mà còn manh nha trong từng ý niệm, từng dòng suy nghĩ.
Cái ác bằng hành động, bằng
lời nói được thể hiện rõ trong Tội ác và hình phạt. Giữa quán nước công cộng, người sinh viên không những ngang nhiên bày tỏ quan điểm bất chính: “Tớ sẵn lòng
giết phăng mụ già kia để cướp lấy của cải và tớ cam đoan với cậu là lương tâm tớ
sẽ không mảy may cắn rứt” mà
còn không ngần ngại xúi bảo viên sĩ quan: “Hãy giết mụ ấy đi, và đoạt lấy số của ấy để suốt đời phụng
sự nhân loại và sự nghiệp chung”. Bà chủ hiệu cầm đồ Aliona đánh đập, hành hạ em gái như
tôi mọi. Xvidrigailov công khai hãm hiếp nông nô để thỏa mãn dục vọng; thẳng tay giết chết người vợ lớn tuổi để
thừa hưởng tài sản. Những đứa trẻ mới lên bảy tuổi đã biết trộm cắp, trụy lạc.
Khi những người nghèo khó đang oằn mình
chống chọi với cái nghèo, cái đói, vị linh mục vẫn thản nhiên khuyên dạy: “Chúa
rất từ bi, hãy hy vọng vào sự cứu giúp của đấng vô cùng”. Khi những người nghèo lên
án Chúa đã bỏ rơi họ, không cứu họ, vị linh mục liền gán ghép hành vi bất kính
của họ là tội lỗi, là trái quấy.
Cái ác còn được ngụy tạo dưới lớp vỏ hào
nhoáng nhân danh phụng sự nhân loại như lập luận “chỉ hy sinh một tính mạng mà cứu được hàng nghìn sinh linh ra
khỏi cảnh thối nát và tan rã”. F.
Dostoevsky khẳng định đó chỉ là những “ý tưởng trá ngụy”
(false idea) của kẻ ác. Thứ nhất, sinh mạng của mỗi người không thuộc quyền phán xét của
Thượng đế. Do vậy, thật sai lầm khi tự cho mình
quyền thay Chúa để phân xử người này được sống, người kia phải chết. Thứ hai, kết quả của hành
động ác không bao giờ là sự tốt đẹp, mà chắc chắn là sự trừng phạt. Bên cạnh sự
trừng phạt từ pháp luật nhà nước, người tạo ác còn nhận lãnh sự trừng phạt vô
hình từ tòa án lương tâm. Sau cùng, F. Dostoevsky khẳng
định
giết người khác cũng chính là tự giết chết bản thân mình, vì ngay khi giết người
khác, kẻ giết người đã mất luôn tính người.
F. Dostoevsky còn giới thiệu
cái ác được biểu hiện dưới dạng những ý niệm,
suy nghĩ. Raxcolnicov thường chìm trong suy nghĩ giết người là việc quan trọng
cần phải thực hiện “thẳng tay, triệt để, sao cho có thể thu xếp thật ổn sự
nghiệp sau này và bước vào một con đường mới, một cuộc sống tự lập”. Theo F. Dostoevsky, môi trường sống chính là sự phóng chiếu của
tâm thức. Do vậy, một khi tâm tưởng đã nghĩ đến việc giết người, kẻ ác không
thể nào có được cuộc sống an ổn hay thành đạt.
Như vậy, cái ác tồn tại
trong mỗi con người. Cái ác không chỉ biểu hiện ra bên ngoài thông qua hành động,
lời nói mà còn ẩn tàng trong tư duy, suy nghĩa.
c.
Nguồn gốc của cái ác
Theo F. Dostoevsky, cái ác xuất hiện là do con người
rời xa Chúa, nghi ngờ Chúa và phản kháng lại Chúa. Khi cá nhân không
thực hành lời dạy của Chúa trong đời sống hiện tại, họ tạo ác và thản nhiên gán ghép tội ác do “tiền định”.
Điều này có nghĩa, con người không giải thích được vì sao cái ác hiện hữu trong đời
sống hiện tại.
Cái ác là hệ quả của việc rời xa
Chúa. Raxcolnicov rời khỏi Chúa để tự bước vào con đường bất thiện của quỷ
Satan. Thay vì tín thác mọi sự vào Chúa, Raxcolnicov tham muốn được tạo lập đời sống thuần túy dựa vào lý trí, ý chí và
sức mạnh cá nhân. Raxcolnicov đã tự tưởng tượng
rằng giá trị tồn tại của con người chỉ đạt được khi con
người dám thoát khỏi sự lệ thuộc vào Chúa để can đảm hành
động và tự chịu trách nhiệm cho mọi hành động. Tuy nhiên, do muốn tách biệt thân phận người ra
khỏi Chúa, Raxcolnicov đã phủ định Chúa tính (thần tính) trong nhân tính. Vì không nhận diện
được hai yếu tố thần và nhân, tức cái thiện và cái ác luôn tồn tại cùng lúc
trong mỗi con người, con người đánh mất cơ hội tăng trưởng tính thiện của họ.
Thay vào đó, càng muốn thể hiện ý chí mạnh mẽ cá nhân, con người càng bành
trướng tính ác và cái ác không ngừng tăng
trưởng.
Cái ác còn là hệ quả khi con người nghi ngờ năng lực cứu rỗi của Chúa. Đối với Raxcolnicov, Chúa chỉ cần thiết với
người chết. Sau khi đã thực hiện tội ác giết người, Raxcolnicov vẫn ngang nhiên
ngạo mạn với đời sống không có bóng dáng của Chúa trong anh ta: “Có cuộc sống đấy! Có phải giờ đây ta không sống đâu? Đời ta không chết
theo mụ già ấy! Chúa cứu vớt lấy linh hồn mụ, và thế là đủ rồi, mụ ạ”. Tính thiên chấp của Raxcolnicov đã lý giải vì sao có nhiều “tín đồ ngày chủ
nhật” tin rằng,
họ có thể gửi tiền cho nhà thờ để quý cha cầu kinh, cầu hồn cho họ sau khi chết dù lúc còn sống họ đã hủy hoại đạo đức hay vi phạm luật pháp.
Nguy hại hơn, Raxcolnicov phỉ báng
Chúa vì cho rằng Chúa đã lừa dối con người: “Chúa đã để con người
kêu khóc như những đứa trẻ; Chúa đã để trẻ con không còn là trẻ con được nữa.
Có đứa lên bảy đã trụy lạc, trộm cắp. Thế mà trẻ con là hình ảnh của Chúa Cơ-đốc,
vương quốc của Đức Chúa trời là của chúng. Chúa đã phán cho chúng hằng được
kính, được yêu, chúng là nhân loại tương lai”. Hành động phủ nhận Chúa
của Raxcolnicov chính là đỉnh điểm sa sút đức tin trong tâm hồn những tín đồ
không còn tự thực hành đời sống tôn giáo.
Theo
F. Dostoevsky, những người không tin vào Thiên Chúa
thường có khuynh hướng tạo ác. Họ muốn hưởng thụ đỉnh cao tự do, không bị ràng
buộc bất cứ điều gì, kể cả quyền năng của Thiên Chúa. Khi không còn bất kỳ sự
hiệp thông nào với Chúa, con người không còn phương pháp nào để hóa giải những
bế tắc trong đời sống. Một khi đánh mất hoàn toàn nơi nương tựa tâm linh cao
quý, con người phải đối mặt với bi kịch và đau khổ. Tìm đến cái chết như Xvidrigailov vì không chịu đựng nổi cơn khủng hoảng trước tội ác là minh chứng sự bế tắc
đỉnh điểm của những kẻ tạo ác.
3.
Phương thức đối trị cái ác
a.
Phương thức của những triết
gia trước F. Dostoevsky
Do bất lực trong việc nhận diện cái ác, không xác định được xuất phát
điểm của cái ác, các nhà triết học, thần học của phương Tây trước và cùng thời
với F. Dostoevsky hoàn toàn không có phương pháp đối trị với cái ác. Thay vào đó, họ nỗ lực chống chế bằng nhiều hình thức khác nhau để cải hóa cái ác.
Đối với Augustine, “Chúa đã làm mọi sự tốt đẹp … Đối với Ngài không
có điều gì xấu”. Do vậy, con người nên “tán tụng vinh quang danh Ngài” để giảm việc làm ác. Tương tự như Augustine, Aquinas cũng không thể nêu ra việc làm cụ thể để đối trị cái ác. Trong khi đó, Kant hiểu được mỗi người có khả năng tự chọn làm thiện, song Kant không lý giải được làm sao một người có thể làm thiện sau khi đã hành động ác. Giải pháp của Kant là ý chí tự do của mỗi người phải tự chịu
trách nhiệm về mặt đạo đức sau khi đã làm ác.
Với Marx và Engels, cần phải làm cuộc cách mạng xã
hội nhắm đến hủy bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất để xã hội được tốt đẹp. Marx và Engels tin rằng con người sẽ sống thiện lương trong môi trường
tốt. Tuy nhiên, thực
chất cuộc cách mạng chỉ là cải tạo cộng sản chủ nghĩa đối với các quan hệ
xã hội. Do vậy, cái ác của con người vẫn chưa có cách đối trị.
b.
Phương thức của F. Dostoevsky
F. Dostoevsky nêu ra hai điều cần
thực hiện để đối trị cái ác. Một là, con người cần quay trở về với Chúa - Chúa bên trong tâm hồn và Chúa bên ngoài. Hai là, con người cần can đảm đối diện đau khổ sau khi đã tạo ác và quyết tâm chuộc tội.
Quay trở về với Chúa đồng nghĩa thực
hành những lời Chúa dạy về tình thương, tình bác ái. Con người cần yêu thương
chính mình và yêu thương tha nhân chân thành. Bằng tình yêu thương rộng mở, vô
điều kiện, cái ác trong con người sẽ giảm xuống hoặc không còn có cơ hội phát
khởi.
Xonia trong Tội ác và hình
phạt, dù xuất thân trong nghèo túng cùng cực và trưởng thành trong ô nhục, thấp hèn, Xonia vẫn giữ tâm hồn thiện lương và tình
yêu vô điều kiện với chính mình và tha nhân. Ở tuổi mười tám,
Xonia đã hy sinh tuổi thanh xuân, quyết định “đeo
thẻ vàng” và tự nguyện dành hết những đồng tiền kiếm được
cho cha thỏa cơn uống rượu, chu cấp cho người mẹ kế và chăm lo cho ba đứa em
không cùng huyết thống. Ngoài giờ đi làm, Xonia dành thời gian cho người bạn đạo
và “pho Tân ước bằng tiếng Nga”. Tuy không đến nhà thờ,
nhưng Xonia chăm chỉ thực hiện cầu nguyện và phó
thác cuộc
đời vào tình yêu Thiên Chúa. Cô không biện
minh khi bị vu oan là kẻ trộm cắp và cũng không oán trách khi bị người khác mắng
mỏ tục tằn. Xonia bình thản đón nhận cuộc sống dù cô luôn đối mặt những điều bất
hạnh và bất như ý đã cụ thể hóa việc thực hành lời Chúa dạy một cách tự nhiên,
thuần thục. Điều này lý giải vì sao Xonia là người duy nhất Raxcolnicov tìm đến để được yêu
thương sau khi đã cắt đứt mọi liên hệ với người thân; Xonia là người duy nhất
Raxcolnicov tìm đến thú nhận tội ác.
F. Dostoevsky tin rằng, khi
tất cả
các học thuyết du nhập từ phương Tây đã lần lượt thất
bại trên nước Nga, gây ra khủng hoảng toàn
diện trong xã hội thì lựa chọn sáng suốt nhất của dân tộc Nga là quay về với tinh thần Chính Thống giáo Nga, tức là sự thực
hành bao dung, yêu thương chân thật giữa người với người. Chỉ có tình người,
tình yêu dân tộc dựa trên tinh thần Chính Thống
giáo Nga, đất nước Nga mới giảm thiểu được
cái ác, cái bạo lực, bất công. Hình ảnh Xonia quyết định đi tù đày cùng Raxcolnicov, gắn kết cuộc đời
mình với một kẻ sát nhân, cùng
với tình cảm chân thành của cô dành cho tất cả tù binh trong nhà tù Siberia
chính là sự khẳng định con đường thể nhập tinh thần Phúc âm trọn vẹn của Xonia. Tình thương của Xonia đã
xoa dịu những trái tim hận thù, độc ác, việc làm nhân từ của Xonia đã đánh thức
những linh hồn chết, u uất, mờ mịt của Raxcolnicov nói riêng và các tù nhân trong
nhà tù Siberia nói chung. Cơ hội phục sinh, đón nhận cuộc sống thiện lương, an
vui được mở ra cho những kẻ tạo ác.
Trong trường hợp đã tạo ác, con người
cần can đảm nhận lãnh đau khổ từ sự trừng phạt của lương tâm. Hình phạt từ sự giày vò lương tâm đáng sợ hơn so với sự trừng phạt
bên ngoài của pháp luật nhà nước. F. Dostoevsky khẳng định “cần phải nhận lấy
khổ nhục để chuộc tội… hãy đau khổ… đau khổ là một việc
lớn lao”. Một khi chấp nhận sự trừng phạt từ lương tâm, chịu đựng được sự giày vò về tội
ác đã tạo, tâm hồn kẻ tạo ác có cơ hội được gột rửa bớt tội lỗi.
Sau
khi giết bà Aliona, Raxcolnicov luôn sống trong giằng
xé, giày vò từ tinh thần đến thể xác. Sự trừng phạt trong tâm hồn không dừng
nghỉ khiến Raxcolnicov kiệt quệ hoàn toàn. Raxcolnicov gần như điên loạn và đã nghĩ đến tự tử vì không đủ dũng khí nhận lãnh bản án từ tòa án lương tâm. Quyết định nhận lãnh
đau khổ từ tội giết người là cách duy nhất để Raxcolnicov được cứu rỗi. Chỉ khi can đảm
thú nhận tội ác, can đảm chịu đau khổ trong tâm hồn, hình phạt với kẻ tạo ác mới
thật sự có giá trị. Điều này lý giải vì sao Raxcolnicov không một lời biện hộ
trước tòa án nhà nước. Khi “tất
cả những nỗi thống khổ của dĩ vãng ấy là cái gì? Tất cả, ngay cả tội ác của
chàng, ngay cả cuộc xét xử và án đày của chàng, giờ đây chàng có cảm giác như
đó là những sự kiện gì bề ngoài, xa lạ, thậm chí không liên quan gì đến chàng nữa”, Raxcolnicov vui mừng nhận ra tâm hồn tự do dù thân đang bị giam nhốt
trong nhà tù Siberia.
Ngược lại với
Raxcolnicov, Xvidrigailov quyết định tự tử vì không đủ can đảm đối mặt với
con quỷ dâm dục, trâng tráo,
đồi bại bên
trong tâm hồn đã thúc đẩy
anh ta làm ác.
Kết luận
Như vậy, cái ác đã manh
nha từ trong tâm trước khi thể hiện thành hành động bên ngoài. Cái ác phát khởi
do con người tự lựa chọn rời xa Chúa. Cái ác được con người trưởng dưỡng, rồi
quay lại làm hại chính con người. Một khi đã không thừa
nhận, đối diện với cái ác ngay chính trong con người mình, con người ngày càng
bị cái ác thao túng và nhấn chìm vào vòng xoáy tội lỗi. Thế nên, dù thân có đến nhà thờ, miệng có tụng đọc Phúc âm, có cầu
kinh rửa tội, nhưng cái ác vẫn diễn ra, tội ác vẫn không ngừng lan rộng và lan
sâu.
F. Dostoevsky khẳng định, cái
ác thể hiện ra bên ngoài là kết quả của cái ác đã được tích tụ, trưởng dưỡng từ
bên trong tư tưởng của con người. Do vậy, để cái ác không có cơ hội được bành
trướng, mỗi người cần ý thức tu sửa từng nếp nghĩ, từ sai lầm thành đúng đắn,
từ tiêu cực thành tích cực, từ ích kỷ thành vị tha, từ xung đột thành hòa hợp,
ngay bây giờ và ở đây.
THAM KHẢO
Rae,
G., (2019), Evil in the Western Philosophical Tradition, Edinburgh
University Press, tr.23.
Kinh thánh Cựu
ước, (2002), Sáng thế 1,31 - Sáng thế 3,22, NXB. Tôn Giáo, Hà Nội, tr.17-21.
Rae,
G., (2019), Evil in the Western Philosophical Tradition, Edinburgh
University Press, tr.28-29.
Rae,
G., (2019), Evil in the Western Philosophical Tradition, Edinburgh
University Press, tr.39.
Rae,
G., (2019), Evil in the Western Philosophical Tradition, Edinburgh
University Press, tr.46-49.
Rae, G., (2019), Evil in the Western Philosophical
Tradition, Edinburgh University Press, tr.67.
Rae, G., (2019), Evil in the Western Philosophical
Tradition, Edinburgh University Press. Tr.57-61.
Immanuel Kant là một trong
những nhà triết học vĩ đại nhất trong lịch sử tư tưởng phương Tây. Hegel đánh
giá triết học Kant là “nền tảng và điểm xuất phát của triết học Đức hiện đại,
những hạn chế trong triết học của ông không làm lu mờ công lao đó của triết học
Kant”. Xem thêm: Nguyễn Hữu Vui (2002), Lịch sử triết học, NXB.Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội,
tr.378.
Rae,
G., (2019), Evil in the Western Philosophical Tradition, Edinburgh
University Press, tr.121-122.
Karl
Marx là nhà triết học, nhà kinh tế học, nhà sử học, nhà xã hội học, nhà lý luận
chính trị, nhà báo và nhà cách mạng người Đức. Ông là người sáng lập ra chủ
nghĩa Cộng sản.
Mark sử dụng thuật
ngữ “tha hóa” của hai triết gia người Đức Georg Wilhelm Friedrich Hegel (Hegel) (1770 - 1831) và
Ludwig Andreas Feuerbach (Feuerbach) (1804 - 1872). Hegel xem hiện tượng của tự nhiên và xã hội là sự tồn tại
tha hóa của “ý niệm tuyệt đối” và quy toàn bộ vấn đề phát triển thành khắc phục
sự tha hóa ấy. Feuerbach xem tôn giáo là sự tha hóa của bản chất con người, sự
tha hóa này quy định tất cả các hình thức tha hóa khác giữa con người với nhau.
Vì vậy, cần phải xóa bỏ tôn giáo hiện có và xây dựng tôn giáo mới, lấy con người
làm trung tâm, thay cho Thượng đế. Theo Marx, trong xã hội tư bản, lao động đã
chiếm tất cả sức lực và thời gian của con người, nô dịch con người, dẫn đến sở
hữu tư nhân, bóc lột và các giai cấp. Đó là “lao động bị tha hóa”, tức là hoạt
động đó của con người nhưng lại trở thành lực lượng xa lạ, nô dịch con người,
thống trị ngay chính người sản xuất ra nó, làm cho người công nhân mất tính người,
mất cuộc sống của họ và phá vỡ mối quan hệ giữa người với người. Xem thêm: Nguyễn
Hữu Vui (2002), Lịch sử triết học, NXB.Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội,
tr.482-483.
Rae, G., (2019), Evil in the Western Philosophical
Tradition, Edinburgh University Press, tr.130-133.