Mang Viên Long - từ phố chợ An Nhơn đến chùa Phi Lai

Mang Viên Long - từ phố chợ An N

Mang Viên Long - từ phố chợ An Nhơn đến chùa Phi Lai

 

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

 

        Năm chín tuổi, lần đầu tiên tôi được gia đình cho vào thăm Bình Định. Đó là chuyến đi xa đầu tiên của tuổi thơ tôi ra ngoài địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Tôi theo mẹ vào thăm một người mợ ở xã Hoài Tân, huyện Hoài Nhơn, rồi vào Quy Nhơn đón một người cậu vừa dự kỳ thi tú tài ở đây về nhà.

       Vậy Quy Nhơn là thành phố lớn tôi nhìn thấy đầu tiên trong đời, nhưng sao tôi không giữ ấn tượng gì rõ rệt, ngoài cái bến xe ngột ngạt mùi xăng. Sau này lớn lên tôi chỉ yêu Quy Nhơn qua sách vở, nơi có Bàn Thành Tứ Hữu, nơi Trịnh Công Sơn từng đi học và viết nhạc, nơi là nguồn cảm hứng cho những bài thơ của Lê Văn Ngăn:

                Quy Nhơn Quy Nhơn, đồng ruộng mía ở phía Tây

                Phất phới vườn bông gòn

                Những cửa hàng lấm bụi, những chiếc ga tạm hoang tàn, những

                       người định cư, những người tứ chiếng

                Nơi em

                Quê hương chẳng phải là điều trừu tượng

                Điều ấy, tôi giữ trong lòng

                Và đi xa em. Tiếng sóng vẫn đập vào eo biển.

                                      (Sóng vẫn đập vào eo biển)

         Chuyến đi ấy để lại trong tôi hình ảnh đậm nét của những bàu sen thôn Đệ Đức, tiếng máy dệt vải sầm sập ở nhà mợ tôi và bóng dáng những người phụ nữ mặc quần áo vá trên đường làng, bờ ruộng. Người Bình Định trong chiến tranh cũng lam lũ giống như người quê tôi, chỉ có giọng nói là khác.     

        Từ ấy đến nay tôi chỉ đi xe đò hay tàu lửa ngang qua vùng đất này mà chưa bao giờ có duyên may dừng lại. Vào Đại học rồi ra trường, tôi có nhiều bạn thân ở Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng, nhưng không có cơ duyên nên rất ít bạn người Bình Định. Đồng nghiệp tỉnh này cũng thường vào trường tôi học sau đại học, được Khoa tôi đào tạo thành đạt, nhưng khi mời cộng tác, giảng dạy, thì họ ưu tiên mời chuyên gia từ Hà Nội.

        Mấy lần tôi định theo Nguyễn Thái Dương, Ngô Liêm Khoan và Trần Thi Ca về thăm Bình Định nhưng đều lỡ dịp. Tôi muốn một lần đi thăm mộ Hàn Mặc Tử, thăm ngôi trường cũ của Trịnh Công Sơn, ngủ một đêm nghe sóng biển Quy Nhơn và nhất là gặp văn hữu đàn anh Mang Viên Long.

        Tôi đọc Mang Viên Long từ đầu những năm 1970, ban đầu vì chú ý cái tên lạ của ông, sau vì thích giọng văn chân thành kể chuyện quê hương trong khói lửa và tình người dưới đạn bom. Tôi nhớ chuyện ông kể những lần về phép ghé Nha Trang thăm nhà văn Võ Hồng và ngủ tạm trong căn nhà giản dị ở đường Hồng Bàng. Khung cảnh chiến tranh và tâm trạng con người trong truyện ngắn Mang Viên Long có nét gần gũi với một số tác phẩm của Y Uyên và Lê Văn Thiện (Văn Lệ Thiên) - những nhà văn trẻ sáng tác trong một thời buổi gian nan của miền Nam. Họ đã sống, yêu và viết trong niềm giả định “Nếu có một ngày…”, như tên một truyện ngắn của Mang Viên Long.

          Mang Viên Long là bạn thân của Y Uyên, một nhà giáo tốt nghiệp Trường Sư phạm Sài Gòn, được bổ nhiệm dạy tiểu học ở Tuy Hòa rồi bị động viên vào lính, đóng quân ở đồn Nora, Phan Thiết, và tử trận ngày 08-01-1969. Hai tháng sau, Mang Viên Long viết truyện Một câu chuyện tình kể lại mối tình chỉ kéo dài một năm ngắn ngủi của Sãi và Thị, dựa theo một đoạn đời của Nguyễn Văn Uy (Y Uyên) và cô giáo Trần Thị Ngọc. Mang Viên Long viết những dòng cuối truyện thật đau xót:

           “Sãi đến với Thị và ra đi mãi mãi đúng một năm, - một năm tròn cho một

            mối tình giữa thời ly loạn, phải chăng đã là quá dài? Tình yêu, tuổi trẻ,

            trong ngọn lửa hung tàn, phi nhân, dễ bén cháy và tàn mục còn hơn những

            xác lá vật vờ cuốn theo chiều gió. Sãi đã ra đi, có thể về miền cao nhất.

            Còn lại Thị, Thị và những kỷ niệm lây lất buồn rầu, trên cõi trần gian đầy

            hệ lụy, - chỗ dung thân thấp nhất của kiếp người cô đơn, bé bỏng…”

            (Mang Viên Long: “Một câu chuyện tình”, in trong Y Uyên: Có loài chim

            lạ, Nguyệt san Tân Văn, số 44, tháng 12-1971, tr.131).

        Tôi tưởng tượng, khi về Bình Định, tôi sẽ đến An Nhơn, ngồi uống trà ở hiên nhà Mang Viên Long để hỏi thêm ông về sinh hoạt văn học miền Nam thời chiến. Rồi chúng tôi sẽ cùng đi xe ngựa một đoạn đường trước khi ông dẫn ra chợ An Nhơn chỉ xem nơi ông đã ngồi hành nghề làm chìa khóa và sửa khóa 30 năm sau khi mất nghề dạy học, khiến bị nhiễm độc bụi đồng còn để lại di chứng

        Mang Viên Long cho biết ông bị bệnh tim mạch khá nặng, đã giải phẫu nhưng phải theo dõi thường xuyên. Cứ sáu tháng một lần ông vào Sài Gòn để bác sĩ Thân Trọng Minh, tức nhà văn Lữ Kiều, tái khám miễn phí.

        Những lần vào Sài Gòn, nếu có thời gian, Mang Viên Long hẹn gặp tôi, lúc cùng đi ăn cơm chay, lúc họp mặt với tập san Quán Văn, lúc đến trường tôi dự hội thảo về văn học chiến tranh.

        15 năm cuối đời, Mang Viên Long in sách liên tục, cuốn nào ông cũng gửi cho tôi, có cuốn ông gửi hai bản để tặng lại bạn bè. Hình như ông cố gắng chạy đua với thời gian để kịp giữ lại cho đời những điều tâm huyết của mình.

        Mang Viên Long cộng tác với nhiều báo và tạp chí, làm thơ, viết truyện ngắn, truyện dài, tản văn, tùy bút, tiểu luận, đã xuất bản 33 tác phẩm. Cuốn sách của ông khiến tôi suy nghĩ nhiều nhất là tập bút ký Những ngày tháng bình yên. Đó là những ngày ông đi tránh cuộc sống căng thẳng ở gia đình với nhiều uẩn khúc, tìm đến nương náu dưới bóng Phật Tổ Từ Bi ở chùa Phi Lai, thôn Mỹ Trung, xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên. Nơi đó, đạo hữu Huệ Thành Mang Viên Long đã được Hòa thượng Thích Thiện Đạo và các đồng đạo cưu mang, chia sẻ những khó khăn về tinh thần và cuộc sống. Gánh nợ gia đình không cho phép ông thường trú ở Phi Lai mà lúc về lúc đi, nhưng ngôi chùa giữa cảnh quê hiền dịu này là nơi neo đậu tâm hồn ông, như ông đã viết;

“Mỗi lần tôi trở về Phi Lai - dầu chỉ một vài ngày - bao giờ lòng tôi cũng thấy an vui, yên ổn. Tôi nghĩ, chắc là tôi có duyên với Phi Lai từ nhiều kiếp trước, nên luôn có dịp tìm về, gọi Phi Lai là “quê nhà, chốn cũ” cho tâm tôi được an trú trước những cơn bão táp của cuộc đời không ngớt phủ chụp lấy tôi.” (Mang Viên Long: Những ngày tháng bình yên, NXB.Hội Nhà Văn, 2018, tr.108).

         Đọc chuyện đời của Mang Viên Long, tôi nhớ đến câu chuyện gia đình của Nguyễn Khải trong Thượng đế thì cười. Bi kịch gia đình nhiều khi rơi xuống thân phận con người mà không ai biết nguyên nhân từ đâu, không giải thích và dự đoán được để mà ứng phó.

        Mang Viên Long tìm đến Phật học để chữa trị vết thương tinh thần của mình. Hội thảo “Phật giáo và Văn học Bình Định: thành tựu và giá trị” tháng 8 năm 2018 do Ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bình Định phối hợp với Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM tổ chức tại Trường Trung cấp Phật học Bình Định (Tu viện Nguyên Thiều), ghi nhận “Phật tính trong trang viết Mang Viên Long” qua tham luận của Nguyễn Thị Thanh Xuân. Ông đến dự khai mạc Hội thảo nhưng không kịp nghe bản tham luận vì có hẹn trước phải vào Tuy Hòa dự họp mặt với học trò cũ ở Trường Nguyễn Huệ, nơi ông có mấy năm làm nghề giáo sau khi tốt nghiệp khóa 3 Trường Sư phạm Quy Nhơn, trước khi bị động viên vào lính và cuộc đời xoay chuyển những bước trầm luân. Sau khi tham luận công bố trong Kỷ yếu Hội thảo và Tập san Quán Văn in lại, Mang Viên Long đã kịp đưa vào cuốn sách cuối đời của mình.

        Trong những cuốn sách cũ và mới Mang Viên Long tặng tôi, tôi quý nhất tập Phố người gồm sáu truyện ngắn, in trên giấy pelure màu xanh rất trang nhã. Điều đặc biệt là cuốn sách này, tác phẩm thứ ba của ông, được NXB.Đồ Bàn ấn hành 2000 bản vào mùa hè năm 1971. Trong giới làm sách ở miền Nam trước đây, Đồ Bàn là một cái tên độc đáo và có phần xa lạ. Ai là người sáng lập và điều hành NXB này? Đó chính là NXB do Mang Viên Long, ở tuổi 27, chủ trương, tự xin giấy phép của Sở Phối hợp Nghệ thuật - tên gọi mới của Sở Kiểm duyệt - Bộ Thông tin, tự lo việc in và phát hành. Trên bìa sách ghi rõ địa chỉ mà ông tạm trú lúc đó: 158/19B Bà Hạt, Chợ Lớn. Đời sống văn học miền Nam có những điều thật thú vị khó ngờ.

        Nhớ đến Mang Viên Long là nhớ thành Đồ Bàn, nhớ phố chợ An Nhơn, như trong câu thơ Chế Lan Viên:

Trở lại An Nhơn. Tuổi lớn rồi

Bạn chơi ngày nhỏ chả còn ai

Nền nhà nay dựng cơ quan mới

Chẳng lẽ thăm quê lại hỏi người!

                (Chế Lan Viên: Trở lại An Nhơn)

        Giờ thì Mang Viên Long đã giã từ An Nhơn, ra đi nhẹ nhàng và thanh thản.

  

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle